NỒNG ĐỘ CREATININE HUYẾT THANH, URE VÀ TỈ SỐ BCR TRONG CÁC GIAI ĐOẠN SUY THẬN Ở BỆNH NHÂN SUY THẬN MẠN
TRÊN 60 TUỔI
Bùi Thị Hồng Châu1, Nguyễn Thanh Trầm1, Lê Thị Xuân Thảo1, Trần Quý Phương Linh2
TÓM TẮT
Mục tiêu: Bệnh nhân suy thận mạn trên 60 tuổi, là đối tượng nguy cơ cao xuất hiện các biến chứng từ suy thận hoặc do bệnh lý mạn tính khác. Do vậy, đánh giá creatinine huyết thanh và các chỉ số lâm sàng theo các giai đoạn suy thận là cần thiết để hỗ trợ can thiệp điều trị kịp thời cho nhóm bệnh nhân này.
Đối tượng- phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang. Hồi cứu 132 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên, được chẩn đoán suy thận mạn, đã khám và điều trị tại bệnh viện Quận 2 TP. Hồ Chí Minh từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2020.
Kết quả: Nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu có tuổi trung bình là 69,1 ± 6,2 tuổi, phần lớn là nữ giới. Kết quả khảo sát creatinine và các chỉ số khác trên nhóm bệnh nhân này cho thấy: có mối tương quan nghịch, mạnh (p
<0,001) giữa nồng độ creatinine, và urê với chỉ số eGFR. Ở mức eGFR <15 mL/phút/1,73m2, nồng độ của creatinin có giá trị trung vị cao nhất là 8,96 mg/dL (6,91-11,49 mg/dL), và nồng độ của urê có giá trị trung bình cao nhất là 156,4±124,4 mg/dL. Tỉ số BCR và chỉ số eGFR có mối tương quan thuận, trung bình (p <0,001).
Kết luận: Bệnh nhân suy thận mạn trên 60 tuổi phần lớn đều có tỉ số BCR tăng. Nồng độ creatinin và urê có giá trị tăng cao hơn ngưỡng bình thường và tăng dần qua các giai đoạn suy thận.
Từ khóa: creatinine, giai đoạn suy thận, trên 60 tuổi
ABSTRACT
THE SERUM CREATININE AND SOME BIOMARKER IN OTHER STAGES OF PATIENTS OVER 60 YEARS OLD WITH CHRONIC KIDNEY FAILURE
Bui Thi Hong Chau, Nguyen Thanh Tram, Le Thi Xuan Thao, Tran Quy Phuong Linh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 26 - No 1 - 2022: 170-175 Background: Patients with chronic kidney disease over 60 years old were at higher risk of developing serious complications from kidney failure and other comorbidities. Therefore, assessment of serum creatinine and some biomarkers in various stages of chronic kidney disease is necessary to prevent complications for these patients.
Method: Cross-sectional study. A retrospective review of 132 patients over 60 years old that were diagnosed with chronic renal failure and treated at District 2 Hospital in Ho Chi Minh City from October to December 2020.
Results: The group of patients in the study had an average age of 69.1 ± 6.2 years, most of which were female. The survey results of creatinine and other indicators of this patient group showed that there was a strong negative correlation (p <0.001) between creatinine, urea levels and eGFR. In the case of eGFR <15 mL/min/1.73m2, the creatinine concentration had the highest median value of 8.96 mg/dL (6.91-11.49 mg/dL), and the urea concentration had the highest median value of 156.4±124.4 mg/dL. The BCR ratio and eGFR had an average positive correlation (p <0.001).
Conclusion: Patients with chronic renal failure over 60 years old mostly have an increased BCR ratio. The concentrations value of creatinine and urea have increased higher than normal range and gradually increased
1Bộ môn Hóa Sinh, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. HCM 2Bệnh viện Quận 2, TP. HCM
Tác giả liên lạc: TS.BS. Bùi Thị Hồng Châu ĐT: 0939921927 Email: [email protected]
through stages of renal failure.
Keywords: creatinine, chronic renal failure, over 60 years old
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy thận mạn là tình trạng thận giảm dần chức năng bài tiết và điều hòa(1), gây nên nhiều biến chứng nguy hiểm, thậm chí là tử vong nếu không được phát hiện sớm và điều trị kịp thời.
Bên cạnh đó, khoảng 25-40% bệnh nhân đái tháo đường và tăng huyết áp có thể tiến triển đến tình trạng suy thận mạn(2). Mục tiêu của chẩn đoán sớm là xác định bệnh không có triệu chứng tại thời điểm can thiệp có tiềm năng hợp lý tác động tích cực đến kết quả(3). Tỉ số BUN (mg/dL)/creatinine huyết tương (mg/dL) (BCR – BUN creatinine ratio) có khoảng tham chiếu khoảng tham chiếu là 8-15 và ngưỡng giới hạn được sử dụng phổ biến nhất để xác định BCR tăng là 20.
Các dấu ấn sinh hóa đóng một vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán chính xác và đánh giá nguy cơ và áp dụng liệu pháp để cải thiện kết quả lâm sàng. Thay vì phân tích nước tiểu tương đối khó chịu cho bệnh nhân, phân tích huyết thanh của các chất chỉ điểm chức năng thận như urê, creatinin, axit uric và chất điện giải được sử dụng thường quy(4). Xét nghiệm máu tìm nitơ urê máu (BUN) là sản phẩm cuối cùng chứa nitơ chính của quá trình dị hóa protein và axit amin và creatinine là sản phẩm phân hủy của creatine phosphate trong cơ được bài tiết qua thận(4,5). BUN là một phép đo gián tiếp và sơ bộ về chức năng thận, đo lượng nitơ urê trong máu và liên quan trực tiếp đến chức năng bài tiết của thận. Xét nghiệm creatinine có thể sử dụng trong chẩn đoán suy giảm chức năng thận và đo lượng creatinine phosphate trong máu. Urê và creatinin là các chỉ số tốt để đánh giá thận hoạt động bình thường và sự gia tăng trong huyết thanh là dấu hiệu của rối loạn chức năng thận.
BUN và creatinin huyết thanh được chấp nhận rộng rãi và hầu hết các thông số phổ biến nhất để đánh giá chức năng thận(4,5).
Creatinin được lọc bởi cầu thận và do đó,
nồng độ creatinin huyết thanh được coi là một thước đo gián tiếp của mức lọc cầu thận. Tốc độ lọc cầu thận giảm đi dẫn đến nồng độ creatinin và urê huyết thanh trong huyết tương tăng. Sự gia tăng này cho thấy sự tiến triển của bệnh thận và do đó creatinine huyết thanh có khả năng tiên lượng tốt hơn so với urê về diễn tiến bệnh(6,7). Việc đo nồng độ creatinin trong mẫu huyết tương và nước tiểu minh họa khả năng lọc của cầu thận, còn được gọi là mức lọc cầu thận (GFR.) Creatinin được sản xuất nội sinh trong cơ thể và được lọc tự do bởi cầu thận. Những đặc điểm này làm cho creatinine trở thành một dấu hiệu nội sinh hữu ích để thanh thải creatinine.
Nếu GFR giảm, cũng như trong bệnh thận, độ thanh thải creatinin qua hệ thống thận sẽ bị tổn hại. Khi đó GFR giảm sẽ dẫn đến tăng nồng độ creatinin huyết tương. Việc đo huyết tương đơn thuần không nên được sử dụng để đánh giá chức năng thận. Nồng độ creatinin huyết tương có thể không bị ảnh hưởng cho đến khi có tổn thương thận ở mức nghiêm trọng. Ngoài ra, mức creatinine huyết tương nằm trong giới hạn tham chiếu bình thường không tương đương với hệ thống thận hoạt động bình thường. Mặc dù không đặc hiệu như creatinine, BUN cũng có thể được sử dụng như một chỉ số về chức năng thận.
BUN không phải là dấu hiệu ưa thích để thanh thải vì nó bị ảnh hưởng bởi các yếu tố như chế độ ăn nhiều protein, các biến số trong tổng hợp protein và tình trạng hydrat hóa của bệnh nhân.
Do vậy, nghiên cứu được tiến hành trên cơ sở kết hợp đánh giá creatinine huyết thanh, urê và tỉ số BCR theo các giai đoạn suy thận nhằm xác định nồng độ của các chỉ số này trong theo dõi, dự đoán nguy cơ xuất hiện biến chứng do suy thận hoặc các bệnh lý kèm theo.
Mục tiêu
Khảo sát nồng độ creatinine, urê (BUN) và tỉ số BCR theo các giai đoạn suy thận mạn ở bệnh nhân suy thận mạn trên 60 tuổi.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuBệnh nhân đã được chẩn đoán suy thận mạn, trên 60 tuổi, có tỉ lệ độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR dưới 90 mL/phút/1,73m2), đã điều trị suy thận tại bệnh viện Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 10/2020 đến tháng 12/2020.
Tiêu chuẩn loại ra
Bệnh nhân có bệnh suy giảm miễn dịch:
HIV/AIDS, ung thư hoặc có bệnh liên quan thiếu máu, viêm loét dạ dày mạn tính.
Phƣơng pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang, mô tả.
Phương pháp thực hiện
Thời gian hồi cứu bệnh án từ tháng 10 năm 2020 đến tháng 12 năm 2020.
Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn mẫu được đưa vào nhóm nghiên cứu, ghi nhận:
Các thông tin hành chánh: tuổi, giới tính, số hồ sơ, tiền sử các bệnh lý nền trước đó.
Cận lâm sàng: ghi nhận kết quả độ lọc cầu thận ước đoán (eGFR), creatinine, urê, RBC (hồng cầu), sắt huyết thanh. Bên cạnh đó, dựa trên nồng độ creatinine và urê, tính tỉ số BCR (BUN: creatinine ratio) theo công thức sau:
BUN (mg/dL) = urê (mg/dL).
BCR= BUN (mg/dL) / creatinine (mg/dL).
Xử lý và phân tích số liệu
Nhập liệu bằng phần mềm Excel và phân tích số liệu bằng STATA 13.0. Các biến số định lượng được mô tả bằng trung bình, độ lệch chuẩn hoặc trung vị (khoảng tứ phân vị) trong trường hợp biến số không có phân phối chuẩn.
So sánh sự khác biệt giữa các nhóm biến số liên tục thực hiện bằng kiểm định t, ANOVA hoặc kiểm định Mann-Whitney, Wilcoxon và Kruskal- Wallis cho biến số không có phân phối chuẩn.
Các biến số định tính: tỷ lệ phần trăm, so sánh các tỷ lệ thực hiện kiểm định chi bình phương, phép kiểm chính xác Fisher để so sánh mối tương quan có ý nghĩa thống kê. Mức độ sai lầm
α=0,05, khoảng tin cậy 95%, và giá trị p <0,05 được đánh giá là có ý nghĩa thống kê.
KẾT QUẢ
Từ hồi cứu bệnh án, 132 bệnh nhân đã được chọn vào nghiên cứu, có tuổi trung bình là 69,8 ± 5,9 tuổi và nữ giới chiếm đa số. Theo phân nhóm eGFR, mức eGFR 60-89 mL/ phút/ 1,73m2 chiếm tỉ lệ cao nhất với 25,2%, và mức eGFR <15 mL/
phút/ 1,73m2 có tỉ lệ thấp nhất với 12,2% (Bảng 1).
Kết quả phân tích nồng độ creatinine và các chỉ số cận lâm sàng khác (Bảng 1) cho thấy nồng độ creatine ở mức trung vị 1,48 mg/dL (1,08-2,29) mg/dL cao hơn ngưỡng bình thường ở nam là 0,74-1,35 mg/dL và ở nữ là 0,59-1,04 mg/dL.
Tương tự, nồng độ trung bình của urê là 67,9±66,5 mg/dL cũng cao hơn ngưỡng bình thường là 6-24 mg/dL. Chỉ số RBC thì thể hiện giá trị trung bình thấp hơn so với ngưỡng bình thường là 4,-6,1 tế bào/µL. Sắt huyết thanh có nồng độ trung bình là 30,7±13,7 µmol/L, cao hơn giới hạn bình thường ở nữ là 8,9 – 26,8 µmol/L (do phần lớn dân số trong nghiên cứu là nữ giới).
Bảng 1. Các đặc tính, chỉ số cận lâm sàng của mẫu nghiên cứu (n=132)
Đặc tính n (%)
Tuổi 69,1±6,2*
Giới tính (Nữ) 86 (65,2)
eGFR (mL/ phút/1,73m2) 38±22*
60-89 22 (16,7)
45-59 26 (19,7)
30-44 36 (27,3)
15-29 25 (18,9)
<15 23 (17,4)
Creatinine (mg/dL) 1,51 (1,14-2,32)**
Urê (mg/dL) 69,7±68,0
BCR (mg/dL)
<20 22 (16,7)
≥20 110 (83,3)
*trung bình và độ lệch chuẩn
**trung vị và khoảng tứ phân vị
Ở mức eGFR <15 mL/phút/1,73m2, nồng độ của creatinin có giá trị trung vị cao nhất là 8,96 mg/dL (6,91-11,49 mg/dL), và thấp nhất là ở mức eGFR 60-89 mL/phút/1,73m2 có giá trị trung vị là
0,98 mg/dL (0,82-1,04 mg/dL). Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về nồng độ trung vị của creatinin ở các phân nhóm eGFR (p <0,001) và giữa nồng độ creatinine với chỉ số eGFR có mối tương quan nghịch, mạnh (p <0,001) (Hình 1).
Hình 1. Nồng độ creatinine ở các phân nhóm eGFR (mô tả theo trung vị)
Hình 2. Nồng độ urê ở các phân nhóm eGFR (mô tả theo trung bình)
Ở mức eGFR <15 mL/phút/1,73m2, nồng độ của urê có giá trị trung bình cao nhất là 156,4±124,4 mg/dL, và thấp nhất là ở mức eGFR 60-89 mL/phút/1,73m2 có giá trị trung vị là 33±7,2 mg/dL. Sự khác biệt nồng độ trung bình của urê ở các phân nhóm eGFR có ý nghĩa thống kê (p <0,001) và giữa nồng độ urê
với chỉ số eGFR có mối tương quan nghịch, mạnh (p <0,001) (Hình 2).
Hình 3. Chỉ số eGFR và phân nhóm tỉ số BCR (mô tả theo trung vị)
Nhóm tỉ số BCR<20mg/dL có giá trị trung vị của eGFR là 4,5 (3-11) mL/ phút/ 1,73m2, và thấp hơn nhiều so với nhóm tỉ số BCR≥20mg/dL có giá trị trung vị của eGFR là 42 (29-57) mL/ phút/
1,73m2. Sự khác biệt về giá trị trung vị của tỉ số BCR và các phân nhóm eGFR có ý nghĩa thống kê (p <0,001) và giữa tỉ số BCR với chỉ số eGFR có mối tương quan thuận, trung bình (p <0,001) (Hình 3).
BÀN LUẬN
Creatinine được lọc bởi thận và loại bỏ khỏi cơ thể gần như hoàn toàn qua nước tiểu. Do đó, nồng độ creatinine trong máu sẽ thể hiện chức năng thận đang hoạt động như thế nào(7). Kết quả khảo sát creatinine huyết thanh cho thấy những bệnh nhân suy thận mạn trên 60 tuổi có giá trị trung vị creatinine là 1,51 mg/dL (1,14-2,32 mg/dL) cao hơn ngưỡng bình thường ở nam là 0,6-1,2mg/dL, ở nữ là 0,5-1,1 mg/dL. Chỉ số eGFR được tính toán dựa trên nồng độ creatinine và thay đổi theo tuổi, giới tính. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân trong nghiên cứu là 69,1 ± 6,2 tuổi. Độ tuổi 60-69 ở người bình thường có ngưỡng eGFR là 76-85 mL/phút/1,73m2. Trong nghiên cứu, eGFR có giá trị trung bình là 38±22 mL/phút/1,73m2, ước tính ở mức 50% so với giá trị tham chiếu ở người bình thường. Điều này
hoàn toàn phù hợp với thực tế lâm sàng về tình trạng suy thận mạn ở nhóm bệnh nhân được khảo sát. Nghiên cứu của Panjeta và cộng sự (2017) cũng cho kết quả tương tự như nồng độ creatinine huyết thanh trung bình ở các giai đoạn của suy thận cao hơn nhiều so với ở nhóm người bình thường có eGFR≥90 mL/phút/1,73m2 là 74,0 µmol/L (65,0–86,3 µmol/L)], tương ứng 0,84 mg/dL (0,73-0,98)(8). Tuy nhiên, mặc dù đã có những cải tiến trong hệ thống phân tích nhưng creatinine huyết thanh vẫn còn hạn chế về độ nhạy và độ đặc hiệu trong tầm soát bệnh thận mạn tính ở bệnh nhân cao tuổi, đặc biệt là phụ nữ và có thể không xác định được 50% bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn 3(9).
Urê thường được gọi là nitơ urê trong máu (BUN), được xem là một chất thải không đạm hay sản phẩm của quá trình chuyển hóa protein.
Các axit amin có nguồn gốc từ sự phân hủy protein sẽ được khử amin để tạo ra amoniac.
Amoniac sau đó được chuyển hóa thành urê thông qua các enzyme tại gan. Urê được thận loại bỏ, nhưng tốc độ loại bỏ phụ thuộc vào nhu cầu của cơ thể. Thận có thể trả lại các lượng urê khác nhau vào máu tùy thuộc vào các yếu tố như hydrat hóa và huyết áp(10). Do đó, nồng độ urê trong máu phụ thuộc vào lượng protein ăn vào, khả năng dị hóa protein của cơ thể và sự bài tiết urê của thận. Urê cao cũng là một dấu hiệu quan trọng của rối loạn chức năng thận. Suy thận có thể làm tăng nồng độ BUN cũng như creatinine(11, 12). Bên cạnh đó, BUN tăng cao được xem là một trong những yếu tố nguy cơ có thể gây tử vong trong những trường hợp suy tim cấp và mãn tính(13), viêm tụy cấp(14), viêm phổi(15). Tương tự như creatinine, kết quả phân tích nồng độ urê trong nhóm nghiên cứu cũng thể hiện sự tương quan mạnh có ý nghĩa thống kê với chỉ số eGFR và các giai đoạn của suy thận. Bên cạnh đó, urê có giá trị trung bình là 69,7±68, cao hơn ngưỡng bình thường là 13-40 mg/dL. Ở mức eGFR <15 mL/phút/1,73m2, nồng độ của urê có giá trị trung bình tăng cao nhất là 156,4±124,4 mg/dL, và ở mức eGFR 60-89 mL/phút/1,73m2 có
giá trị trung vị là 33±7,2 mg/dL. Như vậy, cả creatinine huyết thanh và urê đều tăng cao có tính khuynh hướng theo các giai đoạn của suy thận, quan trọng là sự tăng cao của urê nhiều hơn creatinine, dẫn đến tỉ số BCR cũng tăng. Tỉ số BCR≥20 mg/dL chiếm đa số (81,3%) và biểu đồ 3 là minh chứng cho sự chênh lệch đáng kể về giá trị trung vị của chỉ số eGFR ở nhóm BCR
<20 mg/dL và ≥20 mg/dL: sự phân bố ở nhóm BCR <20 mg/dL chủ yếu ở mức eGFR <15 mL/phút/1,73m2, ngược lại, ở nhóm BCR ≥20 mg/dL thì chủ yếu ở mức eGFR 30-44 mL/phút/1,73m2. tỉ số BCR với chỉ số eGFR có mối tương quan thuận, trung bình, do đó, tỉ số BCR <20 mg/dL có giá trị trung vị của eGFR là 4,5 (3-11) mL/phút/ 1,73m2 so với ngưỡng tham chiếu bình thường của tỉ số BCR là 5-20 mg/dL, sẽ không có ý nghĩa trong việc đánh giá những bệnh nhân suy thận mạn thuộc nhóm này có tỉ số BCR bình thường. Tỉ số BCR cũng tăng theo tuổi và được quan tâm theo dõi trong hội chứng thận hư, tổn thương ở thận mà có liên quan đến sự gia tăng nồng độ creatinine huyết thanh; hoặc kiểm tra các vấn đề khác như sự mất nước, xuất huyết tiêu hóa(13,16). Vì vậy, creatinine huyết thanh, urê (BUN) cần thiết được theo dõi định kỳ và kết hợp thêm các chỉ số lâm sàng khác có liên quan bệnh lý kèm theo của bệnh nhân để có thể phát hiện sớm biến chứng và điều trị dự phòng.
KẾT LUẬN
Nồng độ creatinine huyết thanh và urê (BUN) có sự tương quan theo khuynh hướng tăng dần theo các giai đoạn suy thận ở bệnh nhân suy thận mạn trên 60 tuổi, do vậy cần thiết mở rộng nghiên cứu thêm các chỉ số cận lâm sàng khác để có thể đánh giá một cách tổng quan về những nguy cơ xuất hiện biến chứng trên nhóm bệnh nhân này.
Lời cảm ơn:
Nhóm nghiên cứu trân trọng cảm ơn Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh đã hỗ trợ kinh phí để chúng tôi thực hiện nghiên cứu này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Venkatapathy R, Govindarajan V, Oza N, Parameswaran S, Pennagaram-Dhanasekaran B, Prashad KV (2014). Salivary creatinine estimation as an alternative to serum creatinine in chronic kidney disease patients. International Journal of Nephrology, pp.742724.
2. Narula AS (2008). Chronic kidney disease. The looming threat.
MJAFI, 64(1):2–3.
3. Gowda S, Desai PB, Kulkarni SS, Hull VV, Math AAK, Vernekar SN (2010). Markers of renal function tests. N Am J Med Sci, 2(4):170–73.
4. Kamal A (2014). Estimation of blood urea (BUN) and serum creatinine level in patients of renal disorder. IJFALS, 4(4):199–
202.
5. Suresh G, Ravi-Kiran A, Samata Y, Purnachandrarao-Naik N, Vijay-Kumar A (2014). Analysis of blood and salivary urea levels in patients undergoing haemodialysis and kidney transplant. Journal of Clinical and Diagnostic Research, 8(7):ZC18–
ZC20.
6. Mittal A, Sathian B, Kumar A, Chandrasekharan N, Sunka A (2010). Diabetes mellitus as a Potential Risk Factor for Renal Disease among Nepalese: A Hospital Based Case Control Study.
Nepal Journal of Epidemiology, 1(1):22–25.
7. Wagle TJ (2010). Genderwise comparison of serum creatinine and blood sugar levels in type-2 diabetic patients. BHJ, 52(1):64–
68.
8. Panjeta M, Tahirović I, Sofić E, Ćorić J, & Dervišević A (2017).
Interpretation of Erythropoietin and Haemoglobin Levels in Patients with Various Stages of Chronic Kidney Disease. Journal of Medical Biochemistry, 36(2):145–152.
9. Swedko PJ, Clark HD, Paramsothy K, Akbari A (2003). Serum creatinine is an inadequate screening test for renal failure in elderly patients. Arch Intern Med, 163(3):356-360
10. Uchino S, Bellomo R, & Goldsmith D (2012). The meaning of the blood urea nitrogen/creatinine ratio in acute kidney injury.
Clinical Kidney Journal, 5(2):187–191.
11. Salazar JH (2014). Overview of urea and creatinine. Lab Medicine, 45(1):e19-e20.
12. Pandya D, Nagrajappa, AK, Ravi KS (2016). Assessment and Correlation of Urea and Creatinine Levels in Saliva and Serum of Patients with Chronic Kidney Disease, Diabetes and Hypertension- A Research Study. JCDR, 10(10):ZC58–ZC62.
13. Matsue Y, van der Meer P, Damman K, Metra M, O'Connor CM, Ponikowski P, Teerlink JR, Cotter G, Davison B, Cleland JG, Givertz MM, Bloomfield DM, Dittrich HC, Gansevoort RT, Bakker SJ, van der Harst P, Hillege HL, van Veldhuisen DJ, Voors AA (2017). Blood urea nitrogen-to-creatinine ratio in the general population and in patients with acute heart failure.
Heart, 103(6):407–413.
14. Wu BU, Bakker OJ, Papachristou GI, et al (2011). Blood urea nitrogen in the early assessment of acute pancreatitis: an international validation study. Arch Intern Med, 171:669–676.
15. Fine MJ, Auble TE, Yealy DM, et al (1997). A prediction rule to identify low-risk patients with community-acquired pneumonia. N Engl J Med, 336:243–250.
16. Kouki T, Komiya I and Masuzaki H (2010). The ratio of the blood urea nitrogen/creatinine index in patients with acute renal failure is decreased due to dextran or mannitol. Internal Medicine, 49(3):223–226.
Ngày nhận bài báo: 30/11/2021
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 10/02/2022 Ngày bài báo được đăng: 15/03/2022