Ngành thủy sản năm 2011: Tăng trưởng trong gian nan
(04-01-2012)
Năm 2011, ngành thủy sản Việt Nam tăng cả về diện tích nuôi trồng và sản lượng, kim ngạch xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng khá (19,6%). Nhưng để ngành thủy sản phát triển bền vững, các vấn đề như DN trong nước hoạt động cầm chừng do thiếu nguyên liệu, những lo ngại về nhiễm dư lượng chất kháng sinh trong sản phẩm thủy sản xuất khẩu, quy hoạch vùng nuôi trồng thủy sản (NTTS)… việc giải quyết vẫn gặp nhiều khó khăn. Đây là những vấn đề được các chuyên gia đưa ra trong hội nghị tổng kết công tác năm 2011 và định hướng đến năm 2012 của Tổng cục Thủy sản vừa diễn ra tại Hà Nội.
Nỗ lực vượt khó
Theo Tổng cục Thủy sản (Bộ NN&PTNT), năm 2011 là năm ngành thủy sản cả nước có được kết quả đáng phấn khởi cả về sản xuất nuôi trồng, khai thác và xuất khẩu. Tổng diện tích NTTS của cả nước đạt 1.099.000ha, tăng 2,5%. Sản lượng thủy sản ước đạt 5,32 triệu tấn, trong đó sản lượng nuôi trồng đạt 3 triệu tấn, tăng 7,8% và sản lượng khai thác đạt 2,35 triệu tấn, tăng 2,32% so với 2010. Giá trị xuất khẩu ước đạt 6 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm 2010 chủ yếu do được giá. Các sản phẩm xuất khẩu sang những thị trường lớn, thị trường truyền thống đều tăng mạnh về giá trị như Mỹ tăng 23,5%, Hàn Quốc tăng 32%, Trung Quốc tăng 49%... so với cùng kỳ năm ngoái.
Tuy nhiên, hầu hết các chuyên gia trong lĩnh vực này đều nhận định, mặc dù đã đạt được kế hoạch đề ra nhưng ngành thủy sản nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn.
Ông Trương Đình Hòe, Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận định, chất lượng sản phẩm và giá cả cạnh tranh là yếu tố quan trọng để sản phẩm thủy sản trong nước có uy tín trên thị trường thế giới. Nhưng thực tế hiện nay, nhiều lô hàng xuất khẩu sang các nước vẫn bị cảnh báo về dư lượng tồn dư thuốc kháng sinh. Cụ thể, trong năm qua đã có 43 lô tôm của Việt Nam bị Nhật Bản cảnh báo nhiễm Enrofloxacin. Việc này đã làm giảm uy tín của tôm Việt Nam trên thị trường thế giới.
Những tháng cuối năm, nhu cầu nhập khẩu của các nước tăng 10-15% để phục vụ cho thị trường dịp Noel và Tết Dương lịch, các DN trong nước đã đẩy mạnh thu mua nguyên liệu với giá cao như giá tôm loại 20 con/kg lên tới 210.000 đồng/kg, tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua nhưng cũng không mua đủ nguyên liệu để phục vụ xuất khẩu. Thậm chí nhiều DN có đơn đặt hàng của các nhà nhập khẩu nhưng cũng không dám nhận bởi các nhà máy luôn ở trong tình cảnh hoạt động cầm chừng với công suất 40-50% vì thiếu nguyên liệu...
Ông Nguyễn Huy Điền, Vụ trưởng Vụ Nuôi trồng thủy sản cho biết, năm 2011 là năm đáng nhớ đối với người nuôi thủy sản Đồng bằng sông Cửu Long vì việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức trong NTTS đã gây thiệt hại lớn cho người dân. Trong năm, toàn vùng đã bị thiệt hại về tôm nuôi lên đến gần 90.000ha với khoảng 15 tỷ con tôm giống, cao gấp 3 lần so với năm 2010. Dịch bệnh làm tôm, nghêu chết hàng loạt trong
thời gian qua cũng là những khó khăn cho việc ổn định và phát triển NTTS trong thời gian tới.
Phát triển bền vững và tăng giá trị
Theo kế hoạch, năm 2012, về diện tích NTTS cả nước sẽ có khoảng 1.110.000ha, sản lượng thủy sản nuôi khoảng 3,15 triệu tấn và kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 6,3-6,5 triệu USD. Để đạt được những kết quả trên, các chuyên gia trong lĩnh vực thủy sản cho rằng, ngành thủy sản cần hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và tăng về giá trị sản phẩm. Theo đó cần chú trọng tới nâng cao chất lượng con giống, tăng cường kiểm tra các cơ sở sản xuất và kinh doanh con giống bởi trên thực tế hiện nay chất lượng đàn cá bố mẹ vẫn thấp, tỷ lệ con giống nuôi chết vẫn cao (từ 20% đến 30%).
Theo một số chuyên gia ngành thủy sản, để đẩy mạnh xuất khẩu, các DN phải đổi mới công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm; đa dạng hóa các mặt hàng đáp ứng mọi nhu cầu và đòi hỏi ngày càng khắt khe của thị trường quốc tế; tăng cường các hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm; duy trì các thị trường truyền thống và tìm kiếm đối tác mới. Đồng thời, tạo uy tín đối với các nước nhập khẩu bằng chất lượng sản phẩm. Tuy nhiên, Nhà nước cần tăng cường kiểm tra sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đặc biệt là việc sử dụng quá dư lượng thuốc kháng sinh, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm không để tình trạng "con sâu làm rầu nồi canh", làm giảm uy tín của thủy sản Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Thứ trưởng Bộ NN&PTNT Vũ Văn Tám cho rằng, nhiệm vụ trọng tâm của ngành thủy sản trong năm 2012 là khắc phục những khó khăn, vướng mắc của năm 2011 để sản xuất ổn định và phát triển bền vững, tăng giá trị xuất khẩu. Các địa phương cần tổ chức lại sản xuất theo mô hình khép kín, nuôi công nghiệp, thâm canh, có năng suất cao nhưng tập trung vào những đối tượng nuôi có lợi thế và cạnh tranh được về xuất khẩu như cá tra, tôm sú và các loại nhuyễn thể . Khuyến khích người dân mở rộng mô hình nuôi áp dụng theo quy chuẩn quốc tế, quy trình thực hành nuôi theo VietGAP. Thời gian tới, Bộ sẽ ưu tiên đầu tư xây dựng các công trình thủy lợi nội đồng phục vụ nghề nuôi. Các đơn vị của ngành cần tập trung công tác điều tra nguồn lợi thủy sản, dự báo ngư trường để phục vụ cho việc khai thác có hiệu quả, từng bước giảm tổn thất sau thu hoạch để nâng cao chất lượng thủy sản.
Theo Hànộimới
http://agro.gov.vn/news/tID22593_Nganh-thuy-san-nam-2011-Tang-truong-trong-gian- nan-.htm
Thủy sản Việt Nam năm 2012 sẽ đạt giá trị xuất khẩu 6,5 tỷ USD?
Thứ ba, 10/01/2012, 08:59 (GMT+7)
Năm 2011, XK thủy sản của Việt Nam đã cán đích 6,1 tỷ USD, tăng 21% so với năm 2010 và tăng gấp hơn 3 lần so với mức 2 tỷ USD năm 2002 - Đó là thông tin đáng chú ý nhất do VASEP công bố vào ngày 6-1-2012 vừa qua nhận dịp tổ chức Hội nghị Tổng kết Xuất khẩu Thủy sản năm 2011 tại khách sạn Sheraton, TPHCM.
Với tổng giá trị xuất khẩu năm 2011 tăng 21% so với 2010, ngành XK thủy sản Việt Nam đã xuất sắc mang về cho đất nước hơn 6,1 tỷ USD. Tổng lượng thủy sản của VN trong năm 2011 đạt 5,2 triệu tấn, trong đó nuôi trồng thủy sản đạt mức sản lượng đạt 3 triệu tấn và khai thác thủy sản đạt 2,2 triệu tấn. Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn, cộng với những tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh thủy sản xảy ra tại nhiều khu vực trên thế giới, đây là thành tích đáng tự hào của ngành thủy sản Việt Nam, là kết quả tốt đẹp nhất từ quá trình nỗ lực phấn đấu không mệt mỏi của nông dân, ngư dân, các cơ quan quản lý Nhà nước và đặc biệt là các DN XK thủy sản Việt Nam.
Lần đầu tiên vượt qua mốc 2 tỷ USD XK vào năm 2010, tôm XK của Việt Nam tiếp tục đà tăng trưởng mạnh với giá trị năm 2011 đạt gần 2,4 tỷ USD, trong đó XK tôm sú chiếm 59,7% tổng giá trị, XK tôm chân trắng chiếm 29,3%, còn lại là tôm các loại khác. Mặt hàng tôm xuất khẩu VN hiện đã có mặt ở hơn 90 quốc gia và vùng lãnh thổ. Đứng thứ 2 là ngành XK cá tra với lượng ngoại tệ mang về cho đất nước hơn 1,8 tỷ USD (tăng gần 26,5%) với khối lượng XK trên 600.000 tấn (tăng 3% so với năm 2010). Năm 2011, đã có hơn 230 DN tham gia vào mảng XK cá tra đến hơn 130 thị trường trên thế giới. Trong đó, 10 thị trường lớn nhất chiếm 73% về giá trị, tăng so với mức trên 70% cùng kỳ năm ngoái. Giá trị XK cá ngừ năm 2011 đạt 379,4 triệu USD, so với cùng kỳ năm ngoái tăng 29,4%. Năm 2011, giá trị XK mực, bạch tuộc của cả nước đạt 520,3 triệu USD, tăng 31%
so với cùng kỳ năm ngoái, XK nhuyễn thể hai mảnh vỏ cả năm 2011 đạt gần 82 triệu USD. Đây là mặt hàng duy nhất trong nhóm hàng hải sản giảm sút về giá trị XK so với năm trước. Năm 2011, nguồn nguyên liệu nghêu (đặc biệt là nghêu trắng) bị thiệt hại nặng tại nhiều địa phương ở ĐBSCL, ảnh hưởng lớn đến hoạt động XK mặt hàng này.
Từ những kết quả đạt được trong năm 2011, tại Hội nghị Tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2011 và triển khai kế hoạch năm 2012, Bộ NN và PTNT đặt mục tiêu cho năm 2012, cả nước phấn đấu đạt tổng kim ngạch XK thủy sản 6,5 tỷ USD. Xa hơn nữa, cộng đồng DN thủy sản Việt Nam bắt đầu hướng tới mục tiêu nêu ra trong Chiến lược Phát triển XK thủy sản giai đoạn 2010 - 2020 của Chính phủ là đến năm 2020 đạt giá trị XK 10 tỷ USD, đưa Việt Nam trở thành 1 trong 4 cường quốc đứng đầu về XK thủy sản trên thế giới.
Tuy nhiên, ngành thủy sản Việt Nam đang và sẽ phải đối mặt với 3 thách thức lớn, cần có những giải pháp thích hợp và tích cực thì mới có thể đạt mục tiêu 10 tỷ USD. Đó là thách thức về thiếu nguyên liệu cho chế biến XK, thách thức về chất lượng – vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) - năng lực cạnh tranh và thách thức về phát triển thị trường XK.
Để vượt qua những thách thức này, ngành thủy sản rất cần sự đầu tư hỗ trợ của Chính phủ, các cơ quan quản lý nhà nước, sự chung tay của nông dân, ngư dân và doanh nghiệp
chế biến xuất khẩu thực hiện các giải pháp như: nâng cao sản lượng và mức độ chế biến sản phẩm thủy sản trong nước để tăng giá trị XK, đẩy mạnh nhập khẩu nguyên liệu cho gia công XK; thiết lập hệ thống kiểm soát chuỗi, đảm bảo tính đồng bộ của các tiêu chuẩn, quy phạm, quản lý chất lượng, VSATTP trong tất cả các khâu sản xuất; đẩy mạnh xã hội hóa để nâng cao hiệu quả và trách nhiệm trong quản lý chất lượng, VSATTP của DN và người nuôi trong chuỗi sản xuất; tăng cường công tác xúc tiến thương mại, quảng bá thủy sản VN ra nước ngoài.
Mục tiêu đặt ra cho năm 2012, tổng sản lượng thủy sản đạt 5,35 triệu tấn, trong đó khai thác hải sản đạt 2,2 triệu tấn, nuôi trồng thủy sản đạt 3,15 triệu tấn, cùng với chính sách hỗ trợ và các chương trình phát triển của nhà nước, phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản (tập trung vào 3 loài tôm, cá tra và nhuyễn thể) và tăng cường cho khâu bảo quản sau khai thác nhằm nâng cao sản lượng và chất lượng thủy sản XK, cùng với kế hoạch tái cơ cấu sản xuất (đẩy mạnh sản xuất hàng giá trị gia tăng) và sự linh hoạt của DN xuất khẩu với sự ủng hộ của nhà nước. Dự báo năm 2012, XK thủy sản của cả nước sẽ đạt con số từ 6,5 – 6,7 tỷ USD, tăng 20 - 25% so với 2011. Trong đó, cá tra sẽ đem về 1,8 - 2 tỷ USD, tôm sẽ đạt 2,5 tỷ USD và XK các mặt hàng hải sản sẽ đạt mức 2 tỷ USD. Nguồn nguyên liệu tôm và cá tra có thể sẽ ổn định hơn, nhưng nguồn nguyên liệu hải sản khó có thể tăng vì những khó khăn như nguồn lợi, thời tiết và các chi phí đánh bắt. Tuy nhiên, các DN thủy sản sẽ bù đắp bằng lượng thủy sản nguyên liệu NK về Việt Nam sản xuất gia công để XK.
Ông Dương Ngọc Minh, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Công ty CP Hùng Vương (HVG):
Trong năm 2012, nhằm duy trì khả năng tăng trưởng ổn định cho ngành cá tra Việt Nam, chúng ta cần có những sự thay đổi nhanh và mạnh mẽ hơn về thủ tục hỗ trợ nông dân và các doanh nghiệp xuất khẩu. Trước mắt cần loại bỏ phí kiểm tra chứng nhận chất lượng, an toàn thực phẩm thủy sản theo Thông tư 55/2011 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Để có thể xuất khẩu, nhà sản xuất đã phải tuân thủ các điều kiện mà nhà nhập khẩu đưa ra cũng như quy định chặt chẽ của thị trường quốc tế nên việc kiểm tra chỉ gây tốn kém thêm cho doanh nghiệp xuất khẩu. Mặt khác, hiện tại những nước nhập khẩu không yêu cầu việc kiểm tra này. Bên cạnh việc tăng thêm giá thành, giảm lợi nhuận của doanh nghiệp, các định phí không cần thiết này góp phần không nhỏ trong việc tạo ra ách tắc cho vấn đề lưu thông hàng hóa, làm cho giá thành hàng hóa cao hơn, sức hấp dẫn của cá tra Việt Nam vì thế cũng giảm sút đáng kể. Nếu vấn đề này được giải quyết, tôi cho rằng cơ hội phát triển cho con cá tra Việt Nam sẽ nhiều hơn, sức cạnh tranh sẽ cao hơn, sản lượng nuôi nhiều hơn và bán ra sẽ tốt hơn. Một điều quan trọng khác, cần có chính sách quản lý nguồn tín dụng hỗ trợ để doanh nghiệp và nông dân đủ vốn để đầu tư nuôi trồng, xuất khẩu.
Những bất cập của ngành nuôi trồng thủy sản trong năm 2011:
1. Thiếu quy hoạch và triển khai quy hoạch chưa đồng bộ khiến nhiều vùng NTTS phát triển tự phát, ít gắn kết với thị trường.
2. Thiếu đầu tư từ Nhà nước cho NTTS, người nuôi đa phần tự xoay sở về vốn, kỹ thuật... dẫn đến thiếu tính ổn định, còn manh mún, thiếu ổn định và kém hiệu quả.
3. Chi phí sản xuất tăng cao (thức ăn cho NTTS, nhân công, kiểm soát chất lượng, thiết bị..)
4. Chất lượng giống thủy sản chưa được kiểm soát tốt, dẫn đến tình trạng dịch bệnh còn tiếp diễn. Đối với cá tra và tôm nuôi, chất lượng con giống thấp, tỉ lệ sống của cá tra bột chỉ đạt 20-30%, lượng tôm giống qua kiểm dịch chưa cao. Chất lượng cá bố mẹ thấp, chưa được tiêu chuẩn hóa, chưa chọn lọc theo tính trạng ưu việt nên có hiện tượng thoái hóa do cận huyết, tôm bố mẹ hoàn toàn phụ thuộc vào khai thác tự nhiên, chất lượng không đồng đều và khó kiểm soát dịch bệnh.
5. Chưa có sự kiểm soát đồng bộ và triệt để đối với việc sử dụng hóa chất, kháng sinh và thuốc bảo vệ thực vật trong nuôi thủy sản, gây thiệt hại và ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm cuối cùng sử dụng cho XK.
6. Thị trường biến động thất thường, cập nhật thông tin theo chuỗi còn chậm, người nuôi chưa chủ động được với sự thay đổi về nhu cầu thị trường.
Giải pháp của ngành thủy sản Việt Nam trong năm 2012
1. Chính phủ cần đầu tư nghiêm túc và hỗ trợ cộng đồng DN đẩy mạnh hoạt động quảng bá thủy sản VN ra nước ngoài thông qua nhiều hình thức xúc tiến thương mại, giới thiệu đầy đủ thông tin về hệ thống khai thác, nuôi trồng, chế biến được kiểm soát tốt bằng các hoạt động tiếp thị chuyên nghiệp; cung cấp và trao đổi thông tin hai chiều giúp DN nắm bắt được xu hướng thị trường, có định hướng kinh doanh phù hợp và hiệu quả.
2. Chủ động vượt qua các rào cản thương mại, tìm kiếm mọi cơ hội hợp tác nhằm hạn chế tác động của các vụ kiện, phối hợp cùng các nhà NK trong công tác truyền thông để phản bác các thông tin sai lệch về thủy sản VN.
3. Thật sự giảm tối đa các thủ tục hành chính gây chi phí lớn cho sản xuất và XK thủy sản, tạo điều kiện môi trường thuận lợi nhất cho cộng đồng DN nhằm nâng cao uy tín, sức cạnh tranh và giá trị của thủy sản.
MINH TUYẾT
http://www.sggp.org.vn/kinhte/tugioithieu/2012/1/278507/
Ngành thủy sản 2013: Nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững
Quang cảnh hội nghị tổng kết năm 2012 và triển khai kế hoạch 2013 do Tổng cục thủy sản tổ chức ngày 25/12/2012
Sáng ngày 25/12, Tổng cục Thủy sản đã tiến hành Tổng kết thực hiện kế hoạch năm 2012 và đề ra phương hướng nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu phát triển thủy sản Việt Nam trong năm 2013.
Thứ trưởng, Tổng cục trưởng Thủy sản Vũ Văn Tám và các Phó Tổng cục trưởng Phạm Anh Tuấn, Nguyễn Huy Điền chủ trì hội nghị. Tham dự hội nghị có đại diện lãnh đạo các đơn vị thuộc Bộ NN&PTNT, Tổng cục Thủy sản, Chi cục Thủy sản các tỉnh thành, đại diện VASEP và Hội Nghề cá. Đông đảo các phóng viên các cơ quan truyền thông, báo chí đã đến đưa tin về sự kiện.
Theo Tổng cục Thủy sản, năm 2012, tổng sản lượng thủy sản cả năm ước đạt 5,88 triệu tấn (tăng 8,5% so với năm 2011), trong đó sản lượng khai thác 2,68 triệu tấn (tăng 10,6%), sản lượng nuôi 3,2 triệu tấn (tăng 6,8%). Kim ngạch XK ước đạt hơn 6,1 tỷ USD tăng 0,1% so với năm 2011, không hoàn thành kế hoạch 6,5 tỷ USD.
Báo cáo của Tổng cục Thủy sản cho biết, trong năm 2012 sản xuất thủy sản tiếp tục gặp nhiều khó khăn do kinh tế thế giới chưa hồi phục; thiếu nguồn vốn tín dụng cho cả nông, ngư dân và doanh nghiệp; giá vật tư nguyên liệu đầu vào tiếp tục tăng nhưng giá tiêu thụ sản phẩm không tăng; khai thác thủy sản chịu ảnh hưởng của thời tiết bất lợi; dịch bệnh xẩy ra đối với tôm nuôi và nghêu; cá tra gặp khó khăn lớn khi bộc lộ nhiều bất cập trong cả khâu nuôi và sản xuất chế biến; nguyên liệu chế biến thiếu, v.v...
Các loại dịch bệnh như hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính, đốm trắng, đầu vàng…tiếp tục gây thiệt hại nặng cho hơn 100.000 ha diện tích nuôi tôm, tập trung ở các tỉnh Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Bến Tre và Kiên Giang. Do đó nhiều chuyên gia cho rằng, tuy sản
lượng tôm vẫn giữ ở mức cao nhưng người nông dân tại nhiều nơi đang phải thả nuôi 3, 4 đợt giống trong năm chỉ để thu hoạch 2 vụ như bình thường. Cộng thêm tình hình XK gặp nhiều rào cản kỹ thuật tại các thị trường lớn như Nhật Bản, Hàn Quốc… khiến tình hình đã khó càng thêm khó. Chỉ có tín hiệu vui từ các vùng nuôi tôm chân trắng ở miền Trung được mùa.
Với cá tra, do ảnh hưởng của kinh tế thế giới chưa hồi phục, đặc biệt là châu Âu, nên nhu cầu không cao. Nhiều DN đang phải chào giá dưới giá thành, cả DN lẫn người nuôi cá càng làm càng lỗ. Điều này càng làm lộ rõ sự yếu kém trong liên kết chuỗi sản xuất.
Ngoài ra, hệ quả của việc thắt chặt tín dụng trong những năm vừa qua khiến DN ngày càng kiệt quệ về nguồn vốn, dẫn đến nhiều DN đổ vỡ. Điều này làm lộ ra việc sử dụng vốn không đúng mục đích, phát triển nóng không theo quy hoạch, nhiều DN phải trả giá quá đắt.
Ông Tám cho biết, trong năm 2013 sẽ hoàn thiện gấp Nghị định sản xuất, chế biến, XK cá tra nhằm phát triển ngành bền vững, nâng cao sản phẩm giá trị gia tăng và chia sẻ lợi nhuận cũng như rủi ro cho toàn chuỗi.
Khai thác thủy sản được xem là điểm sáng trong năm của ngành thủy sản Việt Nam. Tại một số ngư trường trọng điểm xuất hiện nhiều loài hải sản có giá trị kinh tế cao, sản lượng lớn. Đặc biệt, nhờ nguồn lợi tốt và cải tiến phương pháp, ngư cụ khai thác nên sản lượng cá ngừ tăng mạnh. Đó là yếu tố quan trọng để giá trị XK cá ngừ của Việt Nam năm nay có khả năng đạt 600 triệu USD, tăng 57% so với năm 2011.
Ngoài ra, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước đối với khai thác hải sản xa bờ như bảo hiểm thuyền viên, hỗ trợ giá xăng dầu, đẩy mạnh tổ chức lại sản xuất theo hình thức tổ, đội, nghiệp đoàn nghề cá, giúp ngư dân yên tâm bám biển sản xuất, tăng cường sự hiện diện của đội tàu cá trên các vùng biển chủ quyền của Việt Nam.
Kết luận hội nghị, Thứ trưởng Tám cho biết, ngành thủy sản đặt trọng tâm công tác cho năm 2013 là "Nâng cao hiệu quả và phát triển bền vững".
Trong lĩnh vực nuôi trồng thủy sản, ưu tiên cho kiểm soát dịch bệnh; kiểm soát các yếu tố đầu vào (nhất là con giống, thức ăn, chế phẩm sinh học); chủ động sản xuất được tôm chân trắng và nghêu bố mẹ; khẳng định nguyên nhân và phương pháp phòng trị hiệu quả bệnh tôm. Đẩy mạnh tổ chức lại khai thác trên biển; chuyển biến mạnh trong bảo quản sản phẩm sau thu hoạch và nắm bắt biến động nguồn lợi, dự báo ngư trường. Ổn định tình hình biển đông, mở rộng hợp tác khai thác và phối hợp với VASEP trong khắc phục các rào cản và xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu thủy sản là những trọng tâm của hoạt động hợp tác quốc tế. Tổng cục cũng sẽ chú trọng công tác cải cách thủ tục hành chính, nâng cao hiệu quả chỉ đạo điều hành và hành.
Một số chỉ tiêu kế hoạch chính cho sản xuất kinh doanh năm 2013 gồm tổng sản lượng thủy sản 5,7 triệu tấn, trong đó sản lượng khai thác 2,4 triệu tấn (giảm 11,4% so với năm
2012); sản lượng nuôi trồng 3,3 triệu tấn; diện tích nuôi thủy sản 1,2 triệu hecta (tương đương thực hiện năm 2012).
VF (Dũng Minh) http://vietfish.org/2012122504174473p48c83/nganh-thuy-san-2013-nang-cao-hieu-qua-va-phat- trien-ben-vung.htm
Xuất khẩu thủy sản năm 2013: Nhiều khó khăn
14/02/2013 - 10:41:13
Năm 2012, mặc dù còn nhiều khó khăn, song Ngành Thủy sản Việt Nam đã nỗ lực không ngừng để thúc đẩy thị trường tiêu thụ. Nhờ đó, kết thúc năm 2012, kim ngạch xuất khẩu đã đạt khoảng 6,2 tỷ USD, tuy không tăng mạnh nhưng đây là kết quả chứng tỏ sự nỗ lực của toàn Ngành. Bước sang năm 2013, dự báo sẽ còn nhiều khó khăn đối với Ngành Thủy sản…
Nhìn lại bức tranh của toàn Ngành Thủy sản trong năm 2012 có thể thấy khó khăn chồng chất. Ngay từ đầu năm, dịch bệnh trên tôm đã có diễn biến hết sức phức tạp, các cơ quan chức năng đã quyết liệt tổ chức nghiên cứu, làm rõ nguyên nhân của bệnh teo gan tụy trên tôm, đồng thời triển khai kế hoạch sản xuất theo khung mùa vụ nuôi trồng, chủ động phòng chống thiên tai, dịch bệnh và hướng dẫn bà con nông dân đổi mới phương thức nuôi, tập trung vào sản xuất các mặt hàng thủy sản cho hiệu quả kinh tế cao và áp dụng Vietgap trong nuôi trồng.
Nhờ sự nỗ lực vượt bậc, kết thúc năm 2012, sản lượng thủy sản đạt 5732,9 nghìn tấn, tăng 5,2% so với năm 2011, trong đó cá đạt 4343,7 nghìn tấn, tăng 5,3%; tôm đạt 632,7 nghìn tấn, tăng 0,3%. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2012 ước tính đạt 1059 nghìn ha, tăng 0,7% so với năm trước, trong đó diện tích nuôi cá tra là 11,5 nghìn ha, tăng 3,4%;
diện tích nuôi tôm sú 599,2 nghìn ha, giảm 1,4%; diện tích tôm thẻ chân trắng 34,3 nghìn ha, tăng 17,2%.
Hoạt động khai thác nhờ thời tiết, ngư trường khá thuận lợi kết hợp với các chính sách hỗ trợ, khuyến khích thành lập các tổ, đội sản xuất trên biển nên ngư dân tích cực bám biển, sản lượng đạt khá. Trong năm đã có trên 1.500 tổ, đội sản xuất được thành lập, nâng tổng số tổ đội, HTX của cả nước lên hơn 3.500 tổ với khoảng 21.000 tàu cá và 136.000 lao động tham gia. Đặc biệt, Ngành đã thí điểm thành lập 20 nghiệp đoàn đánh cá với quy mô lớn và tổ chức điều hành bài bản từ quy chế hoạt động, quy định góp vốn và quy định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các hội viên bước đầu đã được các địa phương ủng hộ và ngư dân đón nhận.
Về tình hình xuất khẩu, năm 2012, xuất khẩu thủy sản cán đích 6,134 tỷ USD, chỉ tăng 0,3% so với năm 2011. Tuy không đạt mục tiêu 6,5 tỷ USD mà Ngành đã đặt ra từ đầu năm, nhưng đây vẫn là kết quả khả quan nhờ sự nỗ lực của toàn Ngành. Trong đó, các mặt hàng thủy sản xuất khẩu chủ lực vẫn là cá ngừ, trị giá cá ngừ xuất khẩu tuy chỉ chiếm gần 9,4% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản Việt Nam nhưng đây là sản phẩm duy nhất có tăng trưởng cao trong số các sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Một số mặt hàng thủy sản khác như tôm, cá tra vẫn tiếp tục duy trì ổn định trong xuất khẩu…
Vượt qua những thách thức, sản xuất và xuất khẩu thủy sản năm 2012 đã có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, theo dự báo của các chuyên gia, những thách thức đối với Ngành Thủy sản trong năm 2013 sẽ còn tiếp diễn, đòi hỏi muốn vượt qua cần phải có sự nỗ lực vượt bậc của toàn Ngành.
Dự báo của Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam (Vasep) cho biết, kim ngạch xuất khẩu thủy sản nói chung sẽ giảm 1,5 - 2% so với năm 2012. Đặc biệt, năm 2013 sẽ phải nhập khẩu nguyên liệu thủy sản phục vụ cho sản xuất nhiều hơn, tăng 30%
so với năm 2012 với kim ngạch đạt trung bình 65 - 70 triệu USD/tháng.
Cũng theo Vasep, xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU, một trong những thị trường nhập khẩu hàng đầu của thủy sản nước ta trong năm 2013 vẫn sẽ tiếp tục tăng trưởng âm về kim ngạch, giảm khoảng 12 - 15% so với năm 2012. Đáng chú ý, một số mặt hàng thủy sản chủ lực trong xuất khẩu sẽ tiếp tục phải đối diện với khó khăn như: mặt hàng tôm Việt Nam sẽ phải đối diện với những thách thức như dịch bệnh, con giống, môi trường và vốn vay cho sản xuất…
Ngoài ra, mặt hàng cá tra trong năm tới cũng sẽ gặp khá nhiều khó khăn, đặc biệt xuất khẩu tới thị trường truyền thống EU nhiều khả năng sẽ tiếp tục giảm. Do vậy, các cơ quan bộ, ngành cần phải có những biện pháp kịp thời nhằm ổn định nguồn hàng xuất khẩu, giữ vững thị trường. Trong đó, cần tăng cường các chế tài về việc hạn chế sử dụng các chất phụ gia tăng trọng sản phẩm cá tra xuất khẩu theo chuẩn mực quốc tế; xây dựng lộ trình hạn chế dần để tiến tới không sử dụng phụ gia tăng trọng đối với sản phẩm cá tra xuất khẩu, trước hết đối với các thị trường EU, Mỹ và Nhật.
Đồng thời, tại thị trường Nhật Bản, vấn đề Ethoxyquin sẽ tiếp tục chi phối xuất khẩu tôm sang thị trường này, do vậy xuất khẩu tôm sẽ bị ảnh hưởng mạnh.
Ngoài ra, sự cạnh tranh về xuất khẩu thủy sản trên thế giới sẽ ngày càng gay gắt, trong đó Thái Lan, Indonesia, Ấn Độ có xu hướng hạ giá bán sản phẩm tôm, Bangladesh bắt đầu thúc đẩy sản xuất tôm thẻ chân trắng... tạo áp lực lên mặt hàng tôm xuất khẩu của nước ta. Đối với cá tra, mặc dù hiện tại Việt Nam vẫn là nước sản xuất và xuất khẩu lớn nhất thế giới, song Thái Lan, Phillipines và nhiều nước khác đang tích cực đầu tư vào việc nuôi, xuất khẩu cá tra để sẵn sàng cạnh tranh với Việt Nam trong thời gian tới.
Với những khó khăn đã và đang hiện hữu, đặc biệt là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực như tôm và cá tra, hơn bao giờ hết các cơ quan chức năng cần tích cực triển khai các giải pháp đồng bộ hơn nữa nhằm thúc đẩy Ngành Thủy sản tiếp tục phát triển, tạo tiền đề tốt cho những năm tiếp theo.
Được biết, trong năm 2013, Ngành Thủy sản đã đặt mục tiêu phấn đấu đạt tổng sản lượng thủy sản khoảng 5,95 triệu tấn, xuất khẩu đạt 6,4- 6,5 tỷ USD. Để đạt được mục tiêu này, hiện Ngành Thủy sản đã xác định sẽ tập trung thực hiện rà soát, quy hoạch lại diện tích
nuôi trồng thủy sản, đảm bảo các điều kiện nuôi an toàn dịch bệnh; tiếp tục đa dạng hóa đối tượng nuôi để đáp ứng nhu cầu thị trường và giảm thiểu rủi ro; đẩy mạnh triển khai áp dụng VietGAP trên quy mô toàn quốc, mở rộng cho các đối tượng nuôi mới và có sản lượng hàng hóa lớn; tiếp tục đầu tư nâng cao năng lực các cơ sở sản xuất giống thủy sản đảm bảo cung cấp đủ giống tốt, sạch bệnh cho sản xuất.
Cùng với đó, Ngành cần khuyến khích hoạt động xa bờ theo hình thức tổ đội sản xuất, khai thác các đối tượng có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ tốt; nghiên cứu và đầu tư ứng dụng công nghệ thiết bị hiện đại trong bảo quản, chế biến nâng cao giá trị sản phẩm, giảm thất thoát; cơ cấu lại sản phẩm chế biến đông lạnh theo hướng giảm tỷ lệ các sản phẩm sơ chế, tăng tỷ trọng các sản phẩm ăn liền, đa dạng hoá mặt hàng chế biến.
Ngoài ra, Ngành cần xây dựng lực lượng kiểm ngư cùng với phát triển lực lượng thanh tra thủy sản để thực thi các hoạt động hướng dẫn và giám sát thực hiện pháp luật trên biển; khuyến khích sự tham gia của người dân vào quản lý, bảo vệ nguồn lợi biển kết hợp với bảo vệ an ninh, chủ quyền biển đảo; tiếp tục đầu tư cơ sở hạ tầng, dịch vụ cho Ngành Thủy sản, ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng vùng nuôi tập trung thâm canh, khép kín kết hợp với công nghiệp sản xuất thức ăn, chế phẩm sinh học và chế biến sản phẩm để nâng cao chất lượng thủy sản, góp phần thúc đẩy xuất khẩu…
http://www.kinhtenongthon.com.vn/Story/kinhte-thitruong/2013/2/39087.html
Nguồn: ĐCSVN