• Tidak ada hasil yang ditemukan

ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Membagikan "ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam"

Copied!
13
0
0

Teks penuh

(1)

ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam

Đặng Thị Quỳnh Anh

Trường Đại học Ngân hàng TP. Hồ Chí Minh

Trần Lê Mai Anh

Công ty TNHH Vi Vi Nguyễn VNC

Ngày nhận: 22/02/2022 Ngày nhận bản sửa: 30/03/2022 Ngày duyệt đăng: 18/04/2022

Tóm tắt: Sau khủng hoảng tài chính 2008, thanh khoản của các ngân hàng thương mại là vấn đề được các ngân hàng trung ương đặc biệt quan tâm nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính của một quốc gia. Việc xác định nhân tố nội lực của ngân hàng hay bên ngoài ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với bản thân ngân hàng và các nhà hoạch định chính sách kinh tế vĩ mô. Bài viết này được thực hiện nhằm xác định các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại cổ phần tại Việt Nam

Liquidity of Vietnam commercial banks and its determinants

Abstract: After the 2008 financial crisis, the liquidity of commercial banks is a special issue which is concerned by central bank to ensure the safety of the national financial system. Determining the main factors affecting the liquidity of commercial banks is important not only for the commercial banks but also for policymakers. The aim of this paper is therefore to identify determinants of Vietnam Joint Stock Commercial Banks liquidity. The data is collected from the audited financial statements of the 15 largest joint stock commercial banks in Vietnam, for the period from 2009 to 2020. The results of panel data regression analysis showed that liquidity is mainly determined by internal factors such as equity ratio, short-term loan-to-deposit ratio, non-performing loan ratio, provision for credit risks. From the research results, some suggestions for bank administrators in making decisions to choose appropriate policies to increase the bank’s liquidity are given.

Keywords: commercial bank liquidity, determinants of bank liquidity, Vietnam.

Dang, Thi Quynh Anh Email: [email protected]

Banking University of Ho Chi Minh City Tran, Le Mai Anh

Email: [email protected] VNC Company (VNC LTD)

(2)

giai đoạn 2009- 2020. Với dữ liệu bảng cân bằng được thu thập từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của 15 ngân hàng, kết quả nghiên cứu cho thấy, thanh khoản của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam chủ yếu do các yếu tố nội lực của ngân hàng như: tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ cho vay trên huy động ngắn hạn, tỷ lệ nợ xấu, dự phòng rủi ro tín dụng quyết định. Bài viết cũng đưa ra một số gợi ý cho nhà quản trị ngân hàng trong việc lựa chọn chính sách phù hợp nhằm tăng khả năng thanh khoản của các ngân hàng.

Từ khóa: thanh khoản ngân hàng thương mại, các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản ngân hàng thương mại, Việt Nam

1. Giới thiệu

Theo Ủy ban Giám sát Ngân hàng Basel (2008) thì thanh khoản trong hệ thống ngân hàng chưa được quan tâm đúng mực là nguyên nhân cốt lõi dẫn đến khủng hoảng tài chính năm 2008. Đồng thời, khủng hoảng tài chính cũng có tác động ngược lại đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007- 2008 đã gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế- xã hội của nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng, đồng thời khiến cho hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn. Các rủi ro phát sinh dẫn đến những ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thanh khoản, một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ

đến sự sống còn của các ngân hàng.

Nhằm giúp việc quản trị thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đạt hiệu quả cao hơn, an toàn hơn trong quá trình hoạt động, các nhà quản lý cần nắm bắt rõ những yếu tố tác động đến khả năng thanh khoản, làm căn cứ đề ra các hoạch định chiến lược hợp lý để cải thiện khả năng thanh khoản của ngân hàng. Khả năng thanh khoản tốt đồng nghĩa với việc rủi ro thanh khoản ngân hàng thấp, nghĩa là vào những giai đoạn cần thiết ngân hàng có đủ nguồn vốn khả dụng để chi trả cũng như trang trải chi phí hợp lý

(Đàng Quang Vắng, 2018). Vì vậy, mục tiêu của bài viết là xác định các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) tại Việt Nam, từ đó đưa ra các khuyến nghị

cho các nhà quản lý có những quyết định và chiến lược phù hợp để nâng cao khả năng thanh khoản của ngân hàng. Các nội dung tiếp theo của bài viết gồm các phần: (ii) cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm;

(iii) dữ liệu và mô hình nghiên cứu; (iv) kết quả nghiên cứu; (v) kết luận và một số khuyến nghị.

2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm

2.1. Thanh khoản của ngân hàng thương mại Theo Basel (2000) định nghĩa “Khả năng thanh khoản của ngân hàng hay khả năng đáp ứng nguồn vốn cho sự tăng lên của tài sản có và thanh toán các khoản nợ khi đến hạn”. Theo Basel (2008) “thanh khoản ngân hàng là khả năng ngân hàng có thể tài trợ việc gia tăng của tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ nợ đến hạn mà không gây ra những khoản tổn thất không thể chấp nhận được”. Đây là yếu tố cực kỳ quan trọng trong việc thể hiện khả năng hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như đối với sự tồn tại của hầu hết các ngân hàng.

(3)

Từ những khái niệm trên, thanh khoản có thể được hiểu như sau: xét trong ngắn hạn, thanh khoản là khả năng mà ngân hàng có thể thực hiện thanh toán ngay tại thời điểm nghĩa vụ phát sinh. Trong dài hạn, thanh khoản cho thấy khả năng vay đủ vốn dài hạn cùng với lãi suất hợp lý nhằm đảm bảo khả năng thanh toán dài hạn và hỗ trợ việc tăng tài sản. Nhìn chung, thanh khoản thể hiện là khả năng thực hiện tất cả các nghĩa vụ thanh toán khi đến hạn đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định (Duttweiler, R. 2011).

Nếu tài sản của ngân hàng không thể chuyển thành tiền mặt khi cần để đáp ứng việc chi trả các khoản tiền gửi, chuyển tiền, cho vay, thanh toán, giao dịch vốn và các nghĩa vụ phát sinh sẽ rất dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ, về lâu dài sẽ dễ dẫn đến nguy cơ phá sản của ngân hàng. Việc quản trị

thanh khoản trong ngân hàng bao gồm việc đảm bảo có đủ tiền mặt và có thể vay tiền với chi phí hợp lý nhằm đáp ứng đủ nhu cầu tiền mặt mỗi khi có phát sinh. Hai hoạt động sử dụng vốn thông thường nhất của ngân hàng là đáp ứng yêu cầu rút tiền gửi và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Ngân hàng có thể đáp ứng yêu cầu về vốn bằng cách bán tài sản thanh khoản hay vay từ thị

trường tiền tệ (Peter S. Rose, 2001).

Đảm bảo khả năng thanh khoản là một trong những hoạt động rất quan trọng đối với các ngân hàng thương mại (NHTM).

Tầm ảnh hưởng của khả năng thanh khoản thực chất vượt xa khỏi phạm vi kiểm soát của ngân hàng đơn lẻ vì khi một ngân hàng bị suy giảm khả năng thanh khoản sẽ gây ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống ngân hàng nói riêng và hoạt động của nền kinh tế trong xã hội nói chung.

2.2. Một số phương pháp đo lường thanh khoản

Từ mô hình chuyển đổi thanh khoản của

Bryant (1980) và Diamond & Dybvig (1983), nhiều phương pháp đo lường thanh khoản đã được xây dựng và phát triển. Một số phương pháp đo lường thanh khoản được nhiều nghiên cứu trên thế giới sử dụng phổ biến như đo lường dựa trên sự mất cân đối về kỳ hạn LTGAP (Liquidity Transformation Gap), phương pháp hệ số, đo lường dựa vào nguồn cung thanh khoản.

Dựa vào sự mất cân đối về kỳ hạn

Deep & Schaefer (2004) đã sử dụng khe hở chuyển đổi thanh khoản để đo lường và đánh giá thanh khoản của mỗi ngân hàng.

Theo đó, LTGAP được tính dựa trên bảng cân đối kế toán: Bên tài sản (Assets- A) bao gồm tài sản thanh khoản cao (liquidity assets- L) và tài sản thanh khoản kém (Illiquidity assets- I), do đó A = L + I.

Khe hở chuyển đổi thanh khoản (TLGAP) được xác định qua mức độ chênh lệch giữa tài sản sở hữu của ngân hàng và khoản nợ phải trả:

TLGAP =

Tổng tiền gửi (D) - Tổng tài sản thanh khoản (L)

Tổng tài sản (A) Trong đó:

Tổng tiền gửi (D) sẽ bao gồm tiền gửi kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi thanh toán và các khoản vay từ tổ chức tín dụng khác.

Tổng tài sản thanh khoản (L) bao gồm các khoản tiền mặt tại quỹ, tiền gửi tại ngân hàng trung ương (NHTW), các khoản tiền gửi tại các tổ chức tín dụng (TCTD) khác, các khoản cho vay kỳ hạn dưới hoặc bằng 1 năm, chứng khoán chính phủ, chứng khoán khác, trái phiếu ngắn hạn…

Trường hợp LTGAP= 0, có nghĩa là tổng tiền gửi đang bằng tổng tài sản thanh khoản.

LTGAP càng lớn thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng thấp do ngân hàng đang dự trữ tài sản thanh khoản ít.

(4)

Dựa vào nguồn cung thanh khoản (funding liquidity)

Thanh khoản ngân hàng được xác định dựa vào khả năng huy động nguồn cung thanh khoản của ngân hàng (dòng tiền vào). Thông thường, nguồn cung thanh khoản này (chủ yếu là các khoản tiền gửi của khách hàng, thị trường liên ngân hàng và NHTW) nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu thanh toán đối với các nghĩa vụ nợ của ngân hàng (Đàng Quang Vắng, 2018).

Theo phương pháp này, khả năng thanh khoản của ngân hàng suy yếu nếu nguồn cung thanh khoản ngân hàng đó không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ đối với các khoản nợ như đã cam kết. Hệ quả có thể dẫn đến là gây ra thiệt hại cho các cổ đông, thậm chí là các khách hàng đang gửi tiền tại ngân hàng, nghiêm trọng hơn là việc ngân hàng đó có thể bị phá sản.

Phương pháp hệ số

Hệ số thanh khoản là các hệ số khác nhau được tính toán từ bảng cân đối kế toán ngân hàng thường được sử dụng để dự đoán xu hướng diễn biến chính của thanh khoản.

Theo Vodová (2011), các hệ số thường sử dụng để đánh giá thanh khoản bao gồm:

+ L1 = Hệ số tài sản thanh khoản/tổng tài sản: cho biết khả năng chịu đựng cú sốc thanh khoản. Hệ số tài sản thanh khoản càng cao thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng tốt. Tuy nhiên, hệ số này chỉ đánh giá thanh khoản một bên, bên tài sản của ngân hàng, không đánh giá khả năng đáp ứng yêu cầu thực hiện nghĩa vụ nợ của ngân hàng hoặc nhu cầu vay vốn của khách hàng.

+ L2 = Hệ số tài sản thanh khoản/(tiền gửi + các khoản đi vay ngắn hạn): hệ số này tập trung nhiều hơn đến sự lựa chọn nguồn tài trợ thanh khoản của ngân hàng (tiền gửi của hộ gia đình, doanh nghiệp và TCTD) qua đó phát hiện được những tổn thương

của ngân hàng khi sử dụng các nguồn tài trợ khác nhau. Bên cạnh đó, hệ số còn đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của ngân hàng bằng các nguồn tài trợ khác nhau và nhạy cảm với những khoản rút tiền gửi của khách hàng.

+ L3 = Hệ số cho vay/tổng tài sản thể hiện phần trăm dư nợ trên tổng tài sản và thường được gắn liền với các khoản dư nợ dài hạn (thanh khoản kém), do vậy hệ số này càng cao thì thanh khoản ngân hàng càng kém.

Phương pháp đo lường thanh khoản dựa vào mất cân đối kỳ hạn có hạn chế là chỉ

xác định giá trị chênh lệch kỳ hạn nhưng không tính được giá trị thanh khoản được tạo ra khi ngân hàng thực hiện mô hình chuyển đổi. Không sử dụng các số liệu thể hiện các đặc điểm riêng của từng ngân hàng như quy mô ngân hàng, tổng tài sản, mức độ (lớn, nhỏ) của giá trị chênh lệch kỳ hạn (LTGAP). Trong khi đó, phương pháp dựa vào nguồn cung thanh khoản có hạn chế là chỉ xem xét thanh khoản dựa trên khía cạnh dữ liệu nguồn vốn (nguồn cung thanh khoản) mà không xét đến khía cạnh của việc sử dụng vốn. Phương pháp hệ số là phương pháp tiếp cận khá phổ biến và có nhiều ưu điểm như đơn giản, dễ sử dụng, phù hợp với các quy định của Uỷ ban Basel về giám sát rủi ro thanh khoản của NHTM.

Vì vậy, bài viết sử dụng phương pháp đo lường hệ số thanh khoản để đo lường thanh khoản của các NHTMCP tại Việt Nam.

2.3. Một số nghiên cứu thực nghiệm trước đây

Tại một số quốc gia trên thế giới

Aspachs và cộng sự (2005) bắt đầu nghiên cứu về thanh khoản của NHTM và các yếu tố kinh tế vĩ mô tại các ngân hàng ở Anh quốc giai đoạn 1985- 2003. Với hệ số đo lường thanh khoản được xác định gồm:

tổng tài sản thanh khoản trên vốn huy động

(5)

và tổng tài sản thanh khoản trên tổng tài sản. Kết quả nghiên cứu đã chỉ ra mối tương quan âm giữa lợi nhuận và thanh khoản ngân hàng. Tăng trưởng tín dụng dẫn đến khả năng thanh khoản kém. Khả năng nhận hỗ trợ từ NHTW cũng ảnh hưởng đến thanh khoản ngân hàng. Do việc nhận hỗ trợ từ NHTW càng lớn dẫn đến việc các NHTM có xu hướng ít giữ lại các tài sản thanh khoản mà thường sử dụng chúng cho việc đầu tư nhằm mang về lợi nhuận.

Nghiên cứu của David và Shortland (2005) tại các NHTM Ai Cập giai đoạn 1983- 1996 cũng chỉ ra rằng tốc độ tăng trưởng GDP tương quan dương với thanh khoản ngân hàng, đặc biệt là trong dài hạn; bạo lực chính trị tại Ai Cập làm giảm rủi ro thanh khoản ngân hàng.

Ngược lại với nghiên cứu của Aspachs &

cộng sự (2005), nghiên cứu của Lucchetta (2007) lại không đi sâu vào những hỗ trợ vốn từ NHTW hay những chính sách kinh tế vĩ mô mà đề cập đến mối quan hệ giữa các ngân hàng với nhau trên thị trường liên ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cung cấp những bằng chứng cho thấy lãi suất bình quân liên ngân hàng có ảnh hưởng đến những rủi ro và khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Hầu như ở tất cả các nước châu Âu, thanh khoản của NHTM chịu tác động bởi lãi suất liên ngân hàng, lãi suất cơ bản của NHTW, các khoản vay trên tổng tài sản, tỷ lệ nợ xấu và quy mô ngân hàng.

Bonfim và Kim (2012) đã nghiên cứu các ngân hàng ở châu Âu và Bắc Mỹ giai đoạn trước và sau khủng hoảng kinh tế (2002- 2009). Tác giả đã chia thời kỳ nghiên cứu thành hai giai đoạn trước và trong khủng hoảng để thấy rõ được tầm ảnh hưởng của các yếu tố nội tại cũng như vĩ mô đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy để đảm bảo khả năng quản lý rủi ro thanh khoản tốt nhất, các ngân hàng cần tập trung vào yếu tố bên

ngoài vì đó là những yếu tố hỗ trợ quan trọng cho khả năng thanh khoản.

Vodová (2011) tiếp tục thực hiện các nghiên cứu về thanh khoản của NHTM tại Séc. Mục đích của nghiên cứu này là xác định các yếu tố quyết định tính thanh khoản của các NHTM ở Séc trong giai đoạn 2001- 2009. Các kết quả phân tích hồi quy dữ liệu cho thấy rằng có mối quan hệ đồng biến giữa thanh khoản ngân hàng và tỷ lệ an toàn vốn, tỷ lệ nợ xấu và lãi suất cho vay trên thị trường giao dịch liên ngân hàng.

Đồng thời, tác giả đã tìm thấy mối quan hệ nghịch biến của tỷ lệ lạm phát, chu kỳ kinh doanh và cuộc khủng hoảng tài chính với tính thanh khoản. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phát hiện ra mối quan hệ không rõ ràng giữa quy mô của các ngân hàng và tính thanh khoản.

Inonica Muntuanu (2012) tiến hành nghiên cứu về thanh khoản các NHTM tại Romania giai đoạn 2002- 2010. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ số an toàn vốn, dự phòng rủi ro tín dụng, tỷ lệ thất nghiệp là các yếu tố có mối tương quan dương với thanh khoản ngân hàng. Tỷ lệ lạm phát có mối tương quan dương với thanh khoản trong giai đoạn 2002- 2007 và có tác động ngược chiều trong giai đoạn 2008- 2010.

Tại Việt Nam

Các nghiên cứu về thanh khoản NHTM và rủi ro thanh khoản của NHTM được thực hiện khá nhiều tại Việt Nam trong khoảng 10 năm gần đây. Nghiên cứu của Trương Quang Thông và cộng sự (2013) nhằm đánh giá tác động của các nhân tố đến rủi ro thanh khoản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2002- 2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố tác động cùng chiều đến rủi ro thanh khoản ngân hàng bao gồm: vay liên ngân hàng, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản tỷ lệ vốn tự có trên nguồn vốn, quy mô tổng tài sản. Các nhân tố tác động ngược chiều đến

(6)

rủi ro thanh khoản ngân hàng bao gồm: quy mô tổng tài sản, dự trữ thanh khoản, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, cung tiền M2.

Vũ Thị Hồng (2015) thực hiện đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006- 2011. Sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu bảng, kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ vốn chủ sở hữu, tỷ lệ nợ xấu và tỷ lệ lợi nhuận có mối tương quan thuận; ngược lại, tỷ lệ cho vay trên huy động có mối tương quan nghịch với khả năng thanh khoản. Tuy nhiên, nghiên cứu này không tìm thấy ảnh hưởng của tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng, quy mô ngân hàng đối với khả năng thanh khoản.

Đặng Văn Dân (2015) cũng tìm thấy mối tương quan dương giữa cho vay ngân hàng, lạm phát và thanh khoản ngân hàng. Ngược lại, quy mô ngân hàng với thanh khoản ngân hàng có tác động ngược chiều khi tiến hành nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2007- 2014.

Thân Thị Thu Thủy và Nguyễn Thị Thanh Dung (2016) thực hiện nghiên cứu các nhân tố tác động đến trạng thái tiền mặt tại các NHTMCP niêm yết ở Việt Nam giai đoạn 2004- 2014. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu bình quân, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu, tốc độ tăng trưởng nợ và lãi suất bình quân liên ngân hàng có tác động cùng chiều lên tỷ lệ trạng thái tiền mặt. Quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản và tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng huy động có tác động ngược chiều lên tỷ lệ trạng thái tiền mặt của các ngân hàng.

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016) thực hiện với 19 NHTM tại Việt Nam giai đoạn 2007- 2014 cho thấy tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa các yếu tố: rủi ro tín dụng, lợi nhuận, vốn chủ sở hữu, thu nhập lãi cận biên với thanh khoản ngân hàng.

Bài viết này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố tác động đến thanh khoản của các NHTMCP tại Việt Nam giai đoạn 2009- 2020, từ đó đưa ra một số khuyến nghị giúp các NHTM Việt Nam gia tăng được thanh khoản trong bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động trong thời gian gần đây.

3. Dữ liệu và mô hình nghiên cứu 3.1. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu được thu thập từ các báo cáo tài chính hợp nhất đã được kiểm toán, báo cáo thường niên của 15 NHTMCP Việt Nam có quy mô và thị phần lớn, có thể đại diện cho toàn bộ khối các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn 2009- 2020. Dữ liệu được lấy từ cơ sở dữ liệu Fiinpro nhằm đảm bảo độ tin cậy và chính xác.

Dữ liệu bảng cân bằng cùng với phương pháp hồi quy được sử dụng để phân tích tác động của 6 yếu tố bên trong ngân hàng và 6 yếu tố vĩ mô đến khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam.

3.2. Mô hình nghiên cứu

Với phương pháp đo lường thanh khoản được sử dụng là phương pháp hệ số, mô hình của Vodová (2011) được vận dụng để đo lường sự tác động của các yếu tố đến khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam nhằm làm rõ các yếu tố nội tại bên trong ngân hàng hay các yếu tố vĩ mô có ảnh hưởng mạnh nhất đến thanh khoản NHTM:

Lit = α + β’.Xit + λ1Yit + δi + εi Trong đó:

Lit: hệ số thanh khoản ngân hàng i tại thời điểm t (từ L1 đến L3 theo phương pháp hệ số).Xit: các biến nội tại bên trong ngân hàng

(7)

bao gồm: Quy mô ngân hàng; Tỷ lệ vốn tự có; Tỷ lệ lợi nhuận; Tỷ lệ cho vay trên huy động ngắn hạn; Tỷ lệ nợ xấu; Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng.

Yit: các biến số vĩ mô bao gồm: lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tiền gửi, tốc độ tăng trưởng kinh tế; tỷ lệ lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp.

α: Hằng số

β’: Hệ số nhân tố nội tại của ngân hàng λ1: Hệ số nhân tố vĩ mô

δi: Biểu thị các yếu tố tác động cố định trong ngân hàng i

εi: Sai số

4. Kết quả nghiên cứu

4.1. Thống kê mô tả biến 4.2. Kết quả hồi quy

Mô hình hồi quy được ước lượng với biến phụ thuộc lần lượt là từng hệ số thanh khoản L1, L2 và L3 với các biến độc lập là các yếu tố bên trong và các yếu tố bên ngoài. Sau khi thực hiện các kiểm định cần thiết đối với mô hình hồi quy, các mô hình tối ưu nhất đã được lựa chọn tại bảng 3.

Kết quả hồi quy ở Bảng 3 cho thấy các hệ số thanh khoản của ngân hàng chịu tác động mạnh từ các yếu tố nội tại bên trong, trong khi đó các yếu tố bên ngoài không ảnh hưởng nhiều, chỉ có lãi suất tiền gửi Bảng 1. Tổng hợp các biến trong mô hình

Biến Ký

hiệu Đo lường biến Nguồn

số liệu Dấu kỳ

vọng Nguồn

tham khảo Tỷ lệ thanh khoản

(Biến phụ thuộc)

L1 Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản Báo thường cáo

niên (BCTN)

Vodová (2011), Vodová

(2012) L2 Tài sản thanh khoản/(tiền gửi+ các khoản đi vay

ngắn hạn) L3 Dư nợ cho vay/tổng tài sản Nhóm nhân tố bên trong ngân hàng (biến độc lập)

Quy mô ngân hàng SIZE Logarit (Tổng tài sản) BCTN +/- Thakor

(1996), Indriani (2004), Aspachs và

các cộng sự (2005), Bonfim và

Kim (2012), Vodová

(2011), Vodová

(2012) Tỷ lệ vốn chủ sở hữu CAP Tổng VCSH / Tổng tài sản BCTN +

Tỷ lệ lợi nhuận ROE Lợi nhuận / Vốn chủ sở hữu BCTN +

Tỷ lệ cho vay trên

huy động LDR Tổng cho vay/Tổng huy động ngắn hạn BCTN -

Tỷ lệ nợ xấu NPL Tổng nợ xấu / Tổng cho vay BCTN -

Tỷ lệ dự phòng rủi ro

tín dụng LLR Dự phòng rủi ro tín dụng/Tổng dư nợ cho vay BCTN - Nhóm nhân tố bên ngoài (biến độc lập)

Lãi suất tái chiết

khấu DR Lãi suất tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước

Việt Nam (NHNN) theo các công bố điều hành NHNN - Vodová (2011), Vodová

(2012), Chikoko Laurine (2013), Chagwiza

(2014), Singh &

Sharma (2016).

Lãi suất tiền gửi BR Lãi suất huy động tiền gửi bình quân của các

NHTM ở Việt Nam NHNN +

Tỷ lệ lạm phát INF Chỉ số giá hàng tiêu dùng do Tổng cục Thống kê

(GSO) công bố hàng năm GSO +

Tốc độ tăng trưởng

kinh tế GDP Tốc độ tăng trưởng kinh tế GS0 +

Tỷ lệ thất nghiệp UNEM Tỷ lệ thất nghiệp IFS -

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

(8)

có tác động cùng chiều với thanh khoản.

Trong đó, tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng có tác động mạnh nhất đến thanh khoản.

4.3. Thảo luận kết quả nghiên cứu

Dựa trên kết quả nghiên cứu, có thể phân tích tác động của nhóm các yếu tố như sau:

Nhóm yếu tố thuộc nội tại ngân hàng - Quy mô ngân hàng (SIZE): Kết quả từ Bảng 3 cho thấy SIZE có tác động ngược chiều đến thanh khoản ngân hàng, phù hợp với kỳ vọng về dấu ban đầu và cũng phù hợp

với kết quả của một số nghiên cứu tại Việt Nam như (Vũ Thị Tuyết Nga, 2019) (Phạm Ngọc Vân, 2021). Tuy nhiên, ở mô hình 1 và 3 không có ý nghĩa thống kê, ở mô hình 2 SIZE có ý nghĩa thống kê. Khi quy mô ngân hàng tăng 1% thì thanh khoản ngân hàng giảm 1,841%. Điều này được giải thích là do việc gia tăng quy mô của ngân hàng có thể làm phát sinh thêm nhiều chi phí, cùng với sự phát triển về trình độ quản lý và nguồn nhân lực không thể theo kịp sự phát triển đó sẽ gây ra rủi ro cho ngân hàng, khả năng thanh khoản của ngân hàng cũng giảm theo. Nghiên cứu của Rauch &

cộng sự (2009), Moussa (2015), Singh &

Bảng 2. Thống kê mô tả các biến trong mô hình

Biến Số quan sát Giá trị trung bình Độ lệch chuẩn Giá trị nhỏ nhất Giá trị lớn nhất

L1 180 14,89 0,62 1,47 40,31

L2 180 18,70 0,75 1,93 60,24

L3 180 56,98 0,89 14,73 78,81

SIZE 180 18,96 0,09 16,16 21,14

CAP 180 8,27 0,26 2,62 25,87

ROE 180 10,59 0,73 - 82,00 30,86

LDR 180 74,22 1,82 15,71 204,11

NPL 180 2,11 0,13 0,00 12,56

LLR 180 1,10 0,06 - 0,99 5,11

DR 180 5,96 0,18 4,00 13,00

BR 180 7,08 0,23 4,12 13,99

GDP 180 5,93 0,08 2,91 7,08

INF 180 6,05 4,84 0,63 18,60

UNEM 180 1,54 0,42 1,00 2,26

Nguồn: Trích xuất từ Stata 16

Bảng 3. Kết quả hồi quy

Tên biến Mô hình 1- L1 (FEM) Mô hình 2- L2 (REM) Mô hình 3- L3 (REM)

Constant 35,556

(-9,692) 49,559**

(3,221) 37,487*

(-1,694) Các yếu tố bên trong

SIZE -0,884

(-3,023) -1,841*

(-3,963) -0,016

(-1,845)

(9)

Sharma (2016) cũng cho kết quả tương tự.

Thực tiễn Việt Nam cho thấy các ngân hàng có quy mô lớn như CTG, VCB, BIDV có thể thu hút được nguồn vốn huy động lớn từ tổng công ty nhà nước, các tập đoàn lớn với mức lãi suất thấp, chi phí đầu vào thấp trong điều kiện nền kinh tế phát triển và lạm phát được kiềm chế. Tuy nhiên, trong điều kiện tốc độ tăng trưởng GDP sụt giảm, lạm phát đang bắt đầu tăng cao ở một số quốc gia trên thế giới cùng những tác động tiêu cực từ dịch bệnh Covid-19 trong 2 năm gần đây có thể khiến lợi thế về quy mô của các ngân hàng không còn nữa.

- Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản (CAP): Về mặt lý thuyết, ngân hàng có tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản ngân hàng càng cao thì khả năng thanh khoản

của ngân hàng càng cao. Kết quả từ Bảng 3 cho thấy trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và có ý nghĩa thống kê, khi CAP tăng thì các hệ số thanh khoản đều giảm.

Kết quả nghiên cứu này ngược với kỳ vọng ban đầu và kết quả một số nghiên cứu khác như Thakor (1996), Bonfim và Kim (2012), Vodová (2013). Điều này được giải thích là do trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2020 tại Việt Nam, NHNN bắt buộc các NHTM tăng vốn điều lệ nhằm cải thiện hệ số an toàn vốn tối thiểu (CAR). Để có thể đáp ứng yêu cầu này, các NHTMCP luôn phải tìm cách để làm tăng vốn tự có.

Tuy nhiên, việc tăng vốn này sẽ gián tiếp dẫn đến việc hiệu quả kinh doanh giảm, tỷ lệ vốn chủ sở hữu (ROE) giảm. Do đó, để ROE không giảm trong khi hệ số an toàn

Tên biến Mô hình 1- L1 (FEM) Mô hình 2- L2 (REM) Mô hình 3- L3 (REM)

CAP -0,569***

(-0,906) -0,614***

(-1,047) 0,298*

(-0,169)

ROE 0,487

(-0,539) 0,100

(-0,031) 0,128***

(-0,032)

LDR -0,587**

(-0,110) 0,052

(-0,012) 0,196***

(0,147)

NPL -0,516*

(-1,076) -0,698*

(-1,418) 0,827***

(0,301)

LLR -1,944***

(-3,294) -2,178**

(-3,866) 1,521**

(0,267) Các yếu tố bên ngoài

DR -0,437

(-1,047) -0,625

(-1,437) 0,351

(-0,226)

BR 1,616**

(0,088) 2,028**

(0,082) -2,335***

(-3,755)

GDP -0,499

(-1,403) -0,681

(-1,886) 0,797*

(-0,058)

INF -0,191

(-0,954) -0,258

(-1,247) 0,799**

(0,085)

UNEM 2,056

(-1,247) 1,944

(-2,453) 1,877

(-1,247)

R2 0,409 0,268 0,542

R2 hiệu chỉnh 0,371 0,220 0,512

F_statistic 11,85 7,85 18,09

Số quan sát 180 180 180

Ghi chú: *; **; *** tương ứng với mức ý nghĩa 10%; 5% và 1%

Nguồn: Trích xuất kết quả hồi quy từ Stata 16

(10)

vốn tăng, buộc các nhà điều hành ngân hàng phải tăng tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản thông qua việc tăng hệ số đòn bẩy tài chính bằng cách mở rộng đầu tư, tín dụng… Vì vậy, các ngân hàng cũng đối mặt với rủi ro gia tăng và khả năng thanh khoản giảm.

- Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE):

Kết quả nghiên cứu cho thấy giống với kỳ vọng như đã được đề cập ở trên, ROE có tương quan dương với thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam, tuy nhiên biến này không có ý nghĩa thống kê trong mô hình 1 và 2. Kết quả này phù hợp với kết quả của một số nghiên cứu thực nghiệm trước đây như của Bonfim & Kim (2012), Cucinelli (2013), Chen và cộng sự (2018)… đều cho kết quả lợi nhuận ngân hàng cao sẽ giúp cho thanh khoản của ngân hàng tốt hơn.

Khi ROE gia tăng chứng tỏ tỷ suất sinh lời của ngân hàng tốt hơn, từ đó giúp gia tăng uy tín về tài chính của ngân hàng trên thị

trường, gia tăng mức độ tín nhiệm từ khách hàng, qua đó sẽ giúp cho các ngân hàng dễ dàng tiếp cận với nguồn cung thanh khoản từ bên ngoài cùng chi phí huy động vốn thấp hơn.

- Tỷ lệ cho vay trên tổng huy động ngắn hạn (LDR): Tỷ lệ cho vay trên nguồn vốn huy động ngắn hạn có mối tương quan âm với khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này đúng như kỳ vọng và cho thấy trong tổng nguồn vốn huy động được nếu chủ yếu là ngắn hạn, ngân hàng sử dụng cho hoạt động tín dụng nhiều thì các tài sản thanh khoản sẽ được tài trợ ít hơn và thanh khoản ngân hàng giảm. Ngoài ra, việc cho vay khách hàng từ nguồn vốn ngắn hạn nếu duy trì ở mức cao sẽ làm gia tăng rủi ro thanh khoản cho ngân hàng. Vì vậy, để hạn chế rủi ro, các ngân hàng cần duy trì LDR ở mức hợp lý. Ngoài ra với cùng một tỷ lệ LDR, nếu ngân hàng nào có vốn huy động

dài hạn lớn hơn thì áp lực thanh khoản sẽ

thấp hơn ngân hàng có huy động vốn ngắn hạn cao nhưng lại cho vay trung dài hạn nhiều. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu thực nghiệm trước đây của các tác giả Aspachs & cộng sự (2005), Indriani (2004), Bonfim và Kim (2012)…

- Tỷ lệ nợ xấu (NPL): Kết quả nghiên cứu cho thấy NPL có mối tương quan âm với thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và có ý nghĩa thống kê. Biến NPL có dấu phù hợp với kỳ vọng ban đầu của mô hình nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu phù hợp với nghiên cứu của Lucchetta (2007);

Vong và Chan (2009)… Kết quả này cho thấy nếu nợ xấu của ngân hàng tăng lên sẽ

làm cho khả năng thanh khoản của ngân hàng giảm, ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay, dẫn đến gia tăng rủi ro thanh khoản cho ngân hàng.

- Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng (LLR): LLR có tác động mạnh nhất đến thanh khoản các NHTMCP Việt Nam trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và có ý nghĩa thống kê. Khi tỷ lệ này tăng lên 1% sẽ tác động làm L1 giảm 1,944%, L2 giảm 2,178% và L3 tăng 1,521%. Kết quả nghiên cứu cho thấy LLR có tương quan âm với thanh khoản của các ngân hàng với dấu phù hợp với kỳ vọng. Kết quả nghiên cứu đã phản ánh đúng thực trạng của các NHTMCP Việt Nam trong giai đoạn nghiên cứu. Khi khoản trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của các ngân hàng có xu hướng tăng sẽ tác động làm cho thanh khoản của ngân hàng giảm.

Điều này cũng phù hợp với các nghiên cứu thực nghiệm trước đây của Sufian &

Chong (2008), Vong & Chan (2009), Inoca Munteanu (2012).

Nhóm các yếu tố vĩ mô

- Lãi suất tiền gửi (BR): Trong số các biến

(11)

số vĩ mô, BR có tác động mạnh nhất đến thanh khoản các NHTMCP Việt Nam trong điều kiện các yếu tố khác không đổi và có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cho thấy lãi suất tiền gửi các ngân hàng có tác động cùng chiều đến thanh khoản của ngân hàng.

Điều này hoàn toàn phù hợp với thực tế và đúng như kỳ vọng. Khi lãi suất huy động tăng, các ngân hàng dễ dàng huy động được nguồn tiền gửi từ dân cư, doanh nghiệp, các tổ chức tài chính khác từ đó giúp gia tăng tài sản thanh khoản cho ngân hàng.

- Tỷ lệ lạm phát (INF): INF có mối tương quan dương với thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam, tuy nhiên chỉ có ý nghĩa thống kê ở mô hình 3. Biến INF có dấu như kỳ vọng ban đầu cho thấy tỷ lệ lạm phát của kinh tế Việt Nam càng cao thì khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam càng tăng. Điều này cho thấy trong thời kỳ lạm phát cao, các NHTMCP Việt Nam có xu hướng thận trọng hơn khi hạn chế các hoạt động tín dụng và nắm giữ những tài sản thanh khoản để sẵn sàng ứng phó với những biện pháp của Chính phủ nhằm kìm chế trong thời kỳ lạm phát tăng cao, chẳng hạn như: chính sách thắt chặt tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc và các loại lãi suất chủ chốt, phát hành tín phiếu bắt buộc… Chính sách thắt chặt tiền tệ trong thời kỳ lạm phát cao làm cho các ngân hàng không những hạn chế cho vay và tăng cường dự trữ những tài sản thanh khoản mà còn phải liên tục tăng mức lãi suất tiền gửi để huy động vốn nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Kết quả nghiên cứu cũng phù hợp với nghiên cứu trước đây của các tác giả Vodová (2012), Laurine (2013), Chagwiza (2014), Singh & Sharma (2016).

- Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP):

Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế (GDP) có mối tương quan dương với khả năng thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam

và chỉ có ý nghĩa thống kê tại mức ý nghĩa 10% ở mô hình 3. Kết quả này phù hợp với kỳ vọng và chỉ ra rằng khi kinh tế tăng trưởng sẽ kéo theo nhu cầu tín dụng và nhu cầu về các sản phẩm, dịch vụ khác của ngân hàng tăng, các ngân hàng có nguồn thu dồi dào và đa dạng hơn, làm cho thanh khoản của ngân hàng cũng tăng lên tương ứng.

5. Kết luận và một số khuyến nghị Khả năng thanh khoản của ngân hàng là một chỉ tiêu rất quan trọng dùng để đánh giá mức độ an toàn và hiệu quả trong hoạt động của các ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy, thanh khoản các NHTMCP ở Việt Nam giai đoạn 2009- 2020 chủ yếu chịu ảnh hưởng từ các yếu tố nội lực của ngân hàng, các yếu tố vĩ mô bên ngoài có ảnh hưởng không nhiều.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, vấn đề nợ xấu và dự phòng rủi ro tín dụng đóng vai trò rất quan trọng, có ảnh hưởng mạnh đến thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam.

Vì vậy, các ngân hàng cần chú trọng tăng cường khả năng quản trị rủi ro phù hợp với quy mô không ngừng tăng lên theo theo thời gian; tăng cường giám sát nội bộ để ngăn chặn sự phát sinh và tích tụ của nợ xấu trong tương lai, bằng cách đảm bảo rằng các ngân hàng tránh cho vay quá mức, duy trì tiêu chuẩn cấp tín dụng đúng mức để đảm bảo chất lượng khoản vay. NHTMCP Việt Nam cần xây dựng chiến lược dài hạn từ những biện pháp phòng ngừa nợ xấu từ xa như hoàn thiện chính sách tín dụng phù hợp với chuẩn mực quốc tế là điều kiện tiên quyết để đảm bảo áp dụng chính sách tín dụng nhất quán và chặt chẽ trong ngân hàng.

Bên cạnh đó, các bộ phận trong ngân hàng cần chú trọng thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ đối với việc nhận diện, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro. Đồng thời thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đầy đủ và việc phân

(12)

loại nợ đúng với bản chất nợ để đưa ra giải pháp cụ thể nhằm ứng phó khi các khoản nợ đó phát sinh vấn đề, từ đó có cách quản trị hiệu quả hơn. Khi dự phòng đầy đủ thì việc xử lý các khoản nợ sẽ dễ dàng hơn và tránh làm ảnh hưởng đến lợi nhuận cũng như thanh khoản của ngân hàng.

Các NHTMCP Việt Nam cần tận dụng lợi thế quy mô ngân hàng để giảm thiểu việc dự trữ các tài sản mang tính thanh khoản cao nhưng khả năng sinh lời thấp để đầu tư vào các hoạt động kinh doanh mang lại lợi nhuận cao. Bên cạnh đó, khi tiến hành mở rộng quy mô, các ngân hàng cần cân nhắc thận trọng và đặc biệt quan tâm đến nguồn nhân lực song song với năng lực quản lý nhằm tránh tình trạng chỉ chú trọng việc

mở rộng mạng lưới hoạt động trong khi nguồn nhân lực bị hạn chế.

Cuối cùng, để nâng cao khả năng thanh khoản, các ngân hàng có thể cân nhắc sử dụng công cụ lãi suất tiền gửi để gia tăng nguồn vốn huy động từ tiền gửi khách hàng, đặc biệt là vốn trung dài hạn để luôn đáp ứng kịp thời các nhu cầu rút tiền ra khỏi ngân hàng với chi phí hợp lý.

Mặc dù kết quả nghiên cứu được phân tích từ nguồn dữ liệu đáng tin cậy với phương pháp nghiên cứu phù hợp nhưng vẫn còn có một số hạn chế nhất định. Một trong những hạn chế đó là chưa đánh giá thanh khoản của các NHTMCP Việt Nam trước và sau khi xảy ra đại dịch Covid-19. Đây cũng chính là hướng nghiên cứu tiếp theo. ■ Tài liệu tham khảo

Aspachs, O,, Nier, E,, & Tieset, M, (2005), Liquidity, Banking Regulation and the Macroeconomy, Evidence on bank liquidity holdings from a panel of UK-residents banks, Presentation at BIS, Retrieved September, 20, 2015, Basel, “Sound Practices for Managing Liquidity in Banking Organisations”, http://www,bis,org [Online], 2000, Basel, “Principles for Sound Liquidity Risk Management and Supervision”, http://www,bis,org/publ/bcbs144,pdf, 2008, Bonfim, D,, & Kim, M, (2012), Liquidity risk in banking: is there herding, European Banking Center Discussion Paper, 24, 1-31, Bryant, J, (1980), A model of reserves, bank runs, and deposit insurance, Journal of banking & finance, 4(4), 335-344, Chagwiza, W, (2014), Zimbabwean commercial banks liquidity and its determinants, International Journal of Empirical

Finance, 2(2), 52-64,

Chen, Yi-Kai & Shen, Chung-Hua & Kao, Lanfeng & Yeh, Chuan-Yi. (2018). Bank Liquidity Risk and Performance.

Review of Pacific Basin Financial Markets and Policies. 21. 1850007(40). 10.1142/S0219091518500078.

Cucinelli, D, (2013), The relationship between liquidity risk and probability of default: Evidence from the euro area, Risk governance and control: financial markets and institutions, 3(1), 42-50,

David Fieding and Anja Shortland, (2005), “Political violence and excess liquidity in Egypt”, Journal of development studies, vol 41, Deep, A,, & Schaefer, G, K, (2004), “Are banks liquidity transformers?” Research Working Papers Series, Harvard university, Duttweiler, R. (2011), Managing liquidity in banks: A top down approach, John Wiley & Sons,

Đàng Quang Vắng (2018), “Các nhân tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại ‘Việt Nam”, Trường Đại học Kinh tế - Luật.

Đặng Văn Dân (2015), Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản ngân hàng thương mại tại Việt Nam”, Tạp chí

Tài chính, trang 62-66.

Indriani, V. (2004), “The relationship between Islamic financing with risk and performane of commercial banks in Indonesia”, University of Indonesia,

Inonica Muntuanu, “Bank Liquidity and its Determinants in Romania”, Procedia economics and finance, Journal ISSN:

2212-5671, 2012,

Laurine, C, (2013), Zimbabwean commercial banks liquidity risk determinants after dollarisation, Journal of Applied Finance and Banking, 3(6), 97,

Lucchetta, M,, (2007), “What Do Data Say About Monetary Policy, Bank Liquidity and Bank Risk Taking?”, Economic Notes by Banca Montedei Paschi di Siena SpA, vol, 36, no, 2, pp, 189-203,

Moussa, M, A, B, (2015), The determinants of bank liquidity: Case of Tunisia, International Journal of Economics and Financial Issues, 5(1), 249-259,

Nguyễn Thị Mỹ Linh (2016), “Các yếu tố tác động đến tỷ lệ thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, số 9 (2016).

Nguyễn Thị Tuyết Nga (2019), Những yếu tố tác động đến thanh khoản tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, Tạp chí

Tài chính, kỳ 1 tháng 7 năm 2019.

(13)

Peter S, Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Thống kê.

Phạm Ngọc Vân (2021), Yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại, Tạp chí Tài chính, kỳ 1 tháng 6 năm 2021.

Rauch, C,, Steffen, S,, Hackethal, A, & Tyrell, M,, (2009), Savings banks, liquiditycreation and monetary policy, Singh, A,, & Sharma, A, K, (2016), An empirical analysis of macroeconomic and bank-specific factors affecting liquidity

of Indian banks, Future Business Journal, 2(1), 40-53,

Sufian, F,, Chong, R, R,, (2008), “Determinants of Bank Profitability In A Developing Economy: Empirical Evidences From The Philippines”, Asian Academy of Management Journal of Accounting and Financial Vol, 4, No, 2, pp, 91- 112, Thakor (1996), “The design of financial systems: An overview”, Journal of Banking and Finance, Vol, 20, Bulletin,

Vol,12, pages 93-113, 1996,

Thân Thị Thu Thủy & Nguyễn Thị Thanh Dung (2016), “Nghiên cứu các nhân tố tác động đến trạng thái tiền mặt tại các ngân hàng thương mại cổ phần niêm yết Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng, Số 15.

Trương Quang Thông và cộng sự (2013), “Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 276 (10/2013) 50-62.

Vodová, P, (2011), Liquidity of Czech commercial banks and its determinants, International Journal of mathematical models and methods in applied sciences, 5(6), 1060-1067,

Vodova, P, (2012), Determinants of commercial banks’ liquidity in Poland, ratio, 50(2),

Vodová, P, (2013), Determinants of commercial bank liquidity in Hungary, Finansowy Kwartalnik Internetowy e-Finanse, 9(4), 64-71,

Vong, P,I, A,, Chan, H, S,, (2009), “Deterninants of Bank Profitability in Macau”, Macau Monetary esearch Bulletin, Vol,12, pages 93-113.

Vũ Thị Hồng (2015), “Các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam”, Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 23 (33), tháng 07-08/2015, trang 32 - 49.

Cơ sở dữ liệu Fiinpro: http://fiinpro.com.

Website Tổng cục Thống kê: https://www.gso.gov.vn, Website của ngân hàng Nhà nước: https://www.sbv.gov.vn

Referensi

Dokumen terkait

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của cách tiếp cận trên là hệ thống đê, kè biển tỉnh Nam Định với sự tác động của các yếu tố: Tác động của sóng; Kết cấu kè

Trong thời gian gần đây, sự kết hợp phương pháp gần đúng Taylor và mô hình xám GM1,1 đã được sử dụng để dự báo kết quả học tập của học sinh ở Đài Loan [16], và sự kết hợp phương pháp