VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI CHĂM SÓC TRẺ DƯỚI 5 TUỔI BỊ TAI NẠN THƯƠNG TíCH TẠI 2 xã HUYỆN KIẾN xƯƠNG TỈNH THÁI BÌNH NĂM 2019
Nguyễn Đức Thanh1, Trương Hoàng Anh1, Hoàng Năng Trọng1 TÓM TẮT
Từ tháng 10/2019 đến tháng 12/2019 chúng tôi tiến hành khảo sát thực hành về tai nạn thương tích 473 người chăm sóc chính cho trẻ em dưới 5 tuổi bị tai nạn thương tích tại 2 xã huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình. Chúng tôi thu được kết quả: Tỷ lệ thấp (5,7%) hộ gia đình có phòng riêng hoặc chỗ chơi riêng để trông và cho trẻ chơi. Tỷ lệ người thường xuyên hoặc luôn luôn đội mũ cho trẻ thấp lần lượt là 13,5% và 33%. Đa số khi bận việc khác, người CS trẻ gửi người khác trông giúp (72,9%). Tổng số 78,9% người CS luôn luôn và thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng của thực phẩm đóng gói.
Từ khóa: Tai nạn thương tích, Thai Binh ABSTRACT:
PRACTICE OF CAREGIVERS FOR CHILDREN UNDER 5 YEARS OLD WITH ACCIDENT INjURIES IN 2 COMMUNES IN KIEN XUONG DISTRICT, THAI BINH PROVINCE IN 2019
From October 2019 to December 2019, we conducted a survey about the practice against accident injuries among 473 primary caregivers for children under 5 years old with injuries in two communes of Kien Xuong District, Thai Binh Province. Our results are as follows: A low percentage (5.7%) of households have a private room or a separate place for child play and babysitting. The percentage of people who often or always wear hats for children is low, at 13.5% and 33%
respectively. The majority of those who are busy have other people take care of the children. A total of 78.9%
of primary caregivers always and often check the expiry date of packaged food.
Key words: Accident Injury, Thai Binh
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tại Việt Nam, mô hình tử vong do tai nạn thương tích khác nhau tuỳ theo lứa tuổi: từ sơ sinh đến tuổi dậy thì, đuối nước là nguyên nhân hàng đầu, sau đó là tai nạn giao thông bắt đầu nổi lên và tăng nhanh theo tuổi, hai nguyên nhân này chiếm đến 2/3 trong số tử vong ở trẻ. Cứ 100.000 trẻ có 24 trẻ tử vong do tai nạn thương tích hay tương đương 18 trẻ em tử vong do tai nạn thương tích mỗi ngày. Các em trai có xu hướng bị thương tích thường xuyên hơn và nghiêm trọng hơn so với các em gái. Tuy nhiên, nguyên nhân sâu xa của phần lớn tai nạn thương tích ở trẻ em bắt nguồn từ sự bất cẩn, thiếu quan tâm của người lớn. Nếu như người lớn quan tâm tới trẻ hơn, nhận thức được những nguy hiểm đang rình rập trẻ thì rất có thể những cái chết thương tâm đã không xảy ra. Để thực hiện tốt kế hoạch phòng chống tai nạn thương tích cộng đồng của ngành Y tế giai đoạn 2016-2020 vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài với mục tiêu sau:
Thực trạng thực hành về phòng chống tai nạn thương tích của người chăm sóc chính cho trẻ em dưới 5 tuổi tại 2 xã huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình năm 2019.
II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện trên địa bàn gồm 2 xã được chọn chủ định là thị trấn Thanh Nê và xã Bình Nguyên của huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình
2.2. Đối tượng nghiên cứu
Người chăm sóc chính cho trẻ (là người biết rõ nhất về các hoạt động của trẻ trong gia đình như bố, mẹ; ông bà; người giúp việc…)
2.3. Thời gian nghiên cứu
- Thời gian thu thập số liệu từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2019.
1. Trường Đại học Y Dược Thái Bình
Tác giả chịu trách nhiệm Trương Hoàng Anh, Email: [email protected], SĐT: 0988395888.
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
- Xử lý số liệu và viết báo cáo kết quả nghiên cứu từ tháng 01 đến tháng 05 năm 2020.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
* Thiết kế nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện theo thiết kế nghiên cứu dịch tễ học mô tả với điều tra cắt ngang nhằm mô tả thực hành của người chăm sóc chính cho trẻ em dưới 5 tuổi.
* Cỡ mẫu
Công thức tính cỡ mẫu áp dụng cho điều tra cắt ngang dựa vào 1 tỷ lệ
Trong đó:
α: Mức ý nghĩa thống kê (α = 0,05)
Z(1-α/2): Giá trị Z thu được tứng với giá trị α Z(1-α/2) = 1,96)
d: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tỷ lệ p thu được
từ mẫu và từ quần thể (chọn d=0,05)
p: Tỷ lệ người CS trẻ dưới 5 tuổi tại địa bàn nghiên cứu. Chọn giá trị p bằng 0,5 để có cỡ mẫu tối thiểu lớn nhất.
Thay vào công thức tính được cỡ mẫu cần cho nghiên cứu là 385 người. Trong điều kiện cho phép, để tăng thêm tính đại diện của mẫu nghiên cứu, chúng tôi đã tiến hành điều tra thêm 20% và đã điều tra được 473 đối tượng để đưa vào nghiên cứu.
* Kỹ thuật áp dụng trong nghiên cứu
Các thông tin về TNTT: Được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người chăm sóc chính cho trẻ bằng bộ câu hỏi đã được chuẩn bị trước
2.5. Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu sau khi điều tra được nhập bằng phần mềm EPI-DATA, sau đó chuyển sang phần mềm SPSS 22.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Bảng 1. Tỷ lệ người CS áp dụng biện pháp an toàn cho trẻ khi làm việc khác
Số lần
Vùng Nông thôn
(n=232) Vùng Thị trấn
(n=241) Tổng (n=473)
p1,2
SL % SL % SL %
Gửi người khác trông giúp 160 69,0 185 76.8 345 72,9 >0,05
Vừa làm việc vừa trông trẻ 92 39.7 107 44.4 199 42,1 >0,05
Cho trẻ vào trong cũi 24 10.3 34 14.1 58 12,3 >0,05
Để trẻ chơi 1 mình 12 5.2 12 5.0 24 5,1 >0,05
Biểu đồ 1. Tỷ lệ hộ gia đình có phòng riêng để trông và cho trẻ chơi
Từ biểu đồ trên cho thấy chỉ có 5,7% hộ gia đình có phòng riêng để trông và cho trẻ chơi; có 94,3% hộ gia đình kết hợp với các phòng khác.
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Biểu đồ 2. Tỷ lệ người CS đội mũ bảo hiểm cho trẻ khi tham gia giao thông
Biểu đồ 3. Tỷ lệ người CS từng sơ cấp cứu TNTT
Bảng 2. Tỷ lệ người CS kiểm tra hạn sử dụng của thực phẩm cho trẻ
Kiểm tra Vùng Nông thôn (n=232) Vùng Thị trấn (n=241) Tổng (n=473)
SL % SL % SL % p1,2
Luôn luôn 91 39.2 76 31.5 167 35,3
>0,05
Thường xuyên 110 47.4 96 39.8 206 43,6
Thỉnh thoảng 28 12.1 51 21.2 79 16,7
Không bao giờ 3 1.3 18 7.5 21 4,4
Kết quả bảng trên cho thấy, khi làm công việc khác có 72,9% người CS gửi người khác trông giúp; có 42,1%
người CS vừa làm việc vừa trông trẻ. Người CS cho trẻ vào trong cũi và để trẻ chơi 1 mình lần lượt là 12,3% và
5,1%. Sự khác biệt của người CS áp dụng các biện pháp an toàn cho trẻ khi làm việc giữa vùng thị trấn và nông thôn là không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy chỉ có 13,5% người
CS luôn luôn đội mũ bảo hiểm cho trẻ khi tham gia giao thông và có 23,0% người CS không bao giờ đội mũ bảo hiểm cho trẻ.
Tỷ lệ người CS kiểm tra hạn sử dụng của thực phẩm
đóng gói khi cho trẻ ăn: luôn luôn kiểm tra chiếm 35,3%; kiểm tra thường xuyên chiếm 43,6%; thỉnh thoảng kiểm tra chiếm 16,7% và không bao giờ kiểm tra chiếm 16,7%.
Từ biểu đồ trên cho thấy chỉ có 13,5% người CS từng sơ cấp cứu khi trẻ bị TNTT; 86,5% người CS chưa từng sơ cấp cứu TNTT cho trẻ.
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
Bảng 3. Tỷ lệ người CS từng sơ cấp cứu TNTT, chia theo loại thương tích
Loại hình TNTT Số lượng (n=64) Tỷ lệ (%)
Chấn thương do ngã 26 48,1
Bỏng 15 27,8
Ngộ độc thực phẩm 9 16,7
Dị vật đường thở 7 13,0
Đuối nước 3 5,6
TNGT 2 3,7
Côn trùng, ong đốt, súc vật cắn 2 3,7
Loại hình TNTT trẻ được sơ cấp cứu nhiều nhất là chấn thương do ngã chiếm 48,1%; sau đó là bỏng chiếm 27,8%, ngộ độc thực phẩm chiếm 16,7%, dị vật đường thở chiếm 13%; còn lại tai nạn giao thông, côn trùng, ong đốt, súc vật cắn chiếm dưới 5%.
IV. BÀN LUẬN
Ngoài việc trang bị kiến thức, người CS cần có thực hành đúng về phòng chống tai nạn thương tích không bao giờ thừa vì khi bị TNTT thì hậu quả thường rất nặng nề.
Phân tích sâu hơn về việc thực hành của người CS khi tham gia giao thông, kết quả cho thấy tần suất của việc đội mũ bảo hiểm cho trẻ dưới 5 tuổi là vấn đề rất đáng lưu tâm, chỉ có 13,5% người CS luôn luôn đội mũ bảo hiểm cho trẻ khi tham gia giao thông và có đến 23,0%
người CS không bao giờ đội mũ bảo hiểm cho trẻ, 30,5%
thỉnh thoảng đội. Có thể do địa bàn nghiên cứu là huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình có nhiều đường nông thôn nên người dân chủ quan, không thường xuyên đội mũ bảo hiểm cho trẻ, điều này là rất nguy hiểm nếu tai nạn giao thông xảy ra.
Về việc người CS kiểm tra hạn sử dụng của thực phẩm đóng gói khi cho trẻ ăn: tỷ lệ đối tượng luôn luôn kiểm tra chiếm 35,3%; kiểm tra thường xuyên chiếm 43,6%; thỉnh thoảng kiểm tra chiếm 16,7% và không bao giờ kiểm tra chiếm 16,7%. Điều này cho thấy việc thực hành của người CS còn yếu. Cần phải tăng cường ý thức cho các đối tượng này để họ có thực hành đúng trong việc phòng chống ngộ độ thực phẩm cho con em họ.
Theo kết quả nghiên cứu của tôi chỉ có 5,7% hộ gia đình có phòng riêng để trông và cho trẻ chơi và chủ yếu các hộ gia đình kết hợp với các phòng khác. Qua kết
dân xây dựng và nhân rộng mô hình “Ngôi nhà an toàn”
phòng, chống TNTT trẻ em với các hoạt động: Xác định các nguy cơ gây tai nạn, thương tích trẻ em tại gia đình;
hướng dẫn các gia đình cách loại bỏ các nguy cơ gây tai nạn, thương tích trẻ em tại gia đình và xây dựng ngôi nhà an toàn; hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị an toàn tại gia đình; triển khai các hoạt động can thiệp loại bỏ nguy cơ gây tai nạn, thương tích cho trẻ em tại gia đình; hướng dẫn cách triển khai mô hình “Ngôi nhà an toàn”.
Tai nạn thương tích có thể phòng ngừa được thông qua một số các biện pháp như khuyến khích sử dụng các thiết bị an toàn, giáo dục kỹ năng và thay đổi hành vi và tăng cường các dịch vụ chăm sóc chấn thương thiết yếu.
Các biện pháp này đã được chứng minh là có hiệu quả, ví dụ như tại các quốc gia có thu nhập cao số ca ngộ độc ở trẻ em giảm đáng kể thông qua các pháp luật đòi hỏi việc đóng gói các loại chất độc phòng TNTT cho trẻ em;
ở Malaysia việc phân luồng xe máy đã làm giảm 27%
các vụ va chạm hay sử dụng mũ bảo hiểm khi đi xe đạp làm giảm tới 63-88% nguy cơ thương tích vùng đầu và chấn thương sọ não nghiêm trọng trong số những người đi xe máy ở tất cả các độ tuổi [38]. Cải thiện môi trường là một chiến lược phòng chống TNTT được xem là có hiệu quả đối với mọi lứa tuổi, đặc biệt phù hợp đối với trẻ em. Chiến lược này phát huy được hiệu quả rất nhiều khi sử dụng kết hợp với hai chiến lược khác là thực thi luật pháp và truyền thông giáo dục. Tại Việt Nam, chương trình phòng chống TNTT trẻ em của Bộ Y tế dưới sự tài trợ của UNICEF được tiến hành ở 6 tỉnh trọng điểm đã áp dụng chiến lược cải thiện môi trường tại các cấp độ như hộ gia đình, cộng đồng và trường học và cũng đã thu đuợc những thành công đáng kể. Ví dụ như với cấp độ hộ gia
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
và các vật sắc nhọn, giá đựng phích, đậy giếng và bể nước, cũi cho trẻ nhỏ, tủ thuốc..., tại cộng đồng làm hàng rào chắn quanh ao, đèn đường, hạn chế tốc độ và cải tạo sân chơi công cộng; tại trường học lắp đặt các biển báo giao thông, biển báo phòng chống TNTT, chắn ban công và cải tạo hệ thống điện...
V. KẾT LUẬN
- Tỷ lệ thấp (5,7%) hộ gia đình có phòng riêng hoặc chỗ chơi riêng để trông và cho trẻ chơi.
- Tỷ lệ người thường xuyên hoặc luôn luôn đội mũ cho trẻ thấp lần lượt là 13,5% và 33%.
- Đa số khi bận việc khác, người CS gửi trẻ người khác trông giúp (72,9%).
- Tổng số 78,9% người CS luôn luôn và thường xuyên kiểm tra hạn sử dụng của thực phẩm đóng gói.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đặng Tấn An, Đặng Văn Chính (2014), “Tỷ lệ chấn thương do tai nạn giao thông đường bộ và kết quả điều trị tại Bệnh viện tỉnh Ninh Thuận năm 2011”, Tạp chí Y học thành phố Hồ Chí Minh, Tập 18, số 6, tr. 126.
2. Nguyễn Thế Bê (2013), Nghiên cứu tai nạn thương tích và một số yếu tố ảnh hưởng đến tai nạn thương tích của người dân tỉnh Thái Bình năm 2011-2012, Luận án Chuyên khoa cấp II, Trường Đại học Y Thái Bình
3. Lê Thanh Hải, Hà Công Thanh (2010), “Một số đặc điểm TNTT trẻ em vào cấp cứu tại Bệnh viện Hữu Nghị Việt Nam - Cu Ba Đồng Hới”, Tạp chí Y học Thực hành, (714), số 4, Tr. 59-61.
4. Lê Thị Hương, Nguyễn Thúy Quỳnh (2018), “Thực trạng tai nạn thương tích của học sinh trường Trung học cơ sở Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, Hà Nội năm 2018”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập 28 ,số 4(146), tr. 27.
5. Trần thị Thực, Nguyễn Thúy Quỳnh (2017), “Thực trạng tai nạn thương tích trong lao động của người làm mộc tại làng nghề mộc Vĩnh Đông, huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc năm 2017”, Tạp chí Y học dự phòng, Tập 27 ,số 5, tr. 252.