VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
MỨC ĐỘ TUÂN THỦ DÙNG THUỐC VÀ KIẾN THỨC VỀ THUỐC SỬ DỤNG ĐIỀU TRỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2
Bùi Tùng Hiệp1, Đỗ Văn Mãi2,Đặng Thị Thùy Giang2 TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá mực độ tuân thủ sử dụng thuốc và kiến thức về thuốc sử dụng trong điều trị đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu, không can thiệp trên 300 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán mắc ĐTĐ type 2 được xác định đến khám và điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ trong thời gian từ 01/07/2020- 30/09/2020. Kết quả: Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ tốt là chủ yếu (48,67%), tiếp theo là mức tuân thủ trung bình (34,0%), tuân thủ thuốc ở mức độ kém là 17,33%. Câu hỏi gây ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả tuân thủ dùng thuốc là tình trạng quên thuốc, chiếm 58,0%, và bệnh nhân thấy phiền khi phải uống thuốc dài ngày chiếm 54,0%. Kiến thức của bệnh nhân về thuốc ở mức rất thấp. Điểm trung bình đạt được là 2,20 ± 1,91 điểm. Có 96,0% bệnh nhân không biết tên và tác dụng phụ của thuốc đang sử dụng. Kết luận:
Mức độ tuân thủ sử dụng thuốc của bệnh nhân chủ yếu ở mức tốt. Tuy nhiên, kiến thức của bệnh nhân phần lớn ở mức thấp.
Từ khóa: Mức độ tuân thủ, kiến thức sử dụng thuốc, đái tháo đường type 2.
SUMMARY:
LEVEL OF COMPLIANCE WITH DRUGS AND KNOWLEDGE ON DRUGS USING TYPE 2 DIABETES TREATMENT
Objectives: Assessing the level of compliance with drug use and knowledge of drugs used in the treatment of type 2 diabetes at Can Tho City General Hospital. Subjects and methods: a prospective, non-intervention descriptive study on 300 patients diagnosed with type 2 diabetes who were identified for inpatient examination and treatment at the Department of Endocrinology, Can Tho City General Hospital from July 1st, 2020 to September 30th, 2020. Results:
The percentage of patients with good compliance was mainly (48,67%), followed by the average compliance
(34,0%), the compliance with drugs at a poor level was 17,33%. The question that most influenced the results of compliance with use of medicine was the situation of forgetting drugs, accounting for 58.0%, and patients who were bothered to take long-term medication accounted for 54.0%. Patient knowledge about the drug was very low. The mean score was 2.20 ± 1.91 points. 96.0% of patients did not know the name and side effects of the medicine being used. Conclusion: The patient’s level of compliance with medication was mostly good. However, the patient’s knowledge was largely low.
Key words: Level of compliance, knowledge on drugs, type 2 diabetes.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2014 trên toàn cầu, ước tính có khoảng 422 triệu người sống chung với bệnh đái tháo đường, số bệnh nhân này tăng gần hai lần so với năm 1980, chủ yếu ở các nước đang phát triển, đồng thời tỷ lệ tử vong do bệnh đái tháo đường ở các nước thu nhập thấp và thu nhập trung bình cao hơn so với các nước phát triển. Những con số trên chỉ là ước tính, thực sự chúng ta còn chưa biết số bệnh nhân hiện nay chính xác là bao nhiêu, số thống kê trên đây mới chỉ là phần nổi của tảng băng trôi [1]. Năm 2001 điều tra tại 4 thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Hồ Chí Minh tỷ lệ mắc bệnh là 4,0%, tỷ lệ rối loạn dung nạp glucose máu là 10%. Theo điều tra quốc gia về tỷ lệ ĐTĐ năm 2012, tỷ lệ bệnh ĐTĐ ở các đối tượng 30-64 tuổi tại các thành phố lớn là 7-10%. Như vậy chỉ sau 10 năm tỷ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 đã gia tăng trên 300% [2].
Hiện này, vấn đề điều trị đái tháo đường type 2 đòi hỏi sự tuân thủ nghiêm ngặt về chế độ sử dụng thuốc, tuy nhiên vấn đề vẫn chưa có nhiều nghiên cứu xác nhận mức độ tuân thủ đó, cũng như kiến thức của các bệnh nhân trong điều trị bệnh đái tháo đường type 2. Dó đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu sau: “Đánh giá mực độ tuân thủ sủ dụng thuốc và kiến thức về thuốc sử dụng trong điều trị đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ”.
1. Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch 2. Trường Đại học Tây Đô
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU1. Đối tượng nghiên cứu
Gồm 300 bệnh nhân được chẩn đoán mắc ĐTĐ type 2 được xác định đến khám và điều trị nội trú tại Khoa Nội tiết, Bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ trong thời gian từ 01/07/2020- 30/09/2020.
Tiêu chuẩn lựa chọn:
- BN được chẩn đoán xác định là ĐTĐ type 2 đến khám bệnh; bác sĩ chỉ định điều trị bằng thuốc ĐTĐ và cho điều trị nội trú.
- Có sức khỏe tâm thần bình thường, có khả năng giao tiếp và đối thoại trực tiếp bằng tiếng phổ thông.
- Được làm các xét nghiệm thường qui tại thời điểm lấy vào nghiên cứu: Đường huyết lúc đói, HbA1c, Cholesterol toàn phần, Triglycerid, HDL - cholesterol, LDL - cholesterol, ASAT, ALAT, Creatinin, Ure.
- Đồng ý tham gia nghiên cứu Tiêu chuẩn loại trừ:
- Bệnh nhân phải điều trị một bệnh khác có thể ảnh hưởng đến kết quả điều trị ĐTĐ như nhiễm trùng nặng, bệnh tuyến tụy ngoại tiết, bệnh lý nội tiết hay dùng thuốc điều trị HIV, thuốc chống thải ghép.
- Các thể ĐTĐ khác ĐTĐ type 2.
- Bệnh nhân mới bắt đầu điều trị tại thời điểm phỏng vấn.
- Bệnh nhân từ chối tham gia nghiên cứu.
2. Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang tiến cứu, không can thiệp, thu thập kết quả dựa trên bệnh án nghiên cứu và các phiếu khảo sát.
Quy trình nghiên cứu:
Trong thời gian nghiên cứu, mỗi bệnh nhân ĐTĐ type 2 sau khi đến khám và điều trị tại Khoa Nội tiết sẽ được phỏng vấn trực tiếp bằng bộ công cụ nghiên cứu bao gồm: Phiếu thông tin hành chính của bệnh nhân, bộ câu hỏi đánh giá tuân thủ dùng thuốc (MMAS - 8) và bộ 05 câu hỏi đánh giá kiến thức về thuốc.
Công cụ và phương pháp thu thập số liệu: Bảng câu hỏi và phiếu thu thập thông tin bệnh nhân.
Chỉ tiêu nghiên cứu:
- Đánh giá mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân + Khảo sát sự tuân thủ thuốc của bệnh nhân, tỷ lệ trả lời có/không cho mỗi câu hỏi trong MMAS - 8.
+ Phân tích tỷ lệ tuân thủ thuốc: Tốt/trung bình/kém + Mối liên quan giữa mức độ tuân thủ và mức độ kiểm soát đường huyết.
- Khảo kiến thức của bệnh nhân
+ Khảo sát kiến thức về thuốc sử dụng của bệnh nhân theo bộ 5 câu hỏi.
3. Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu thu thập được nhập và xử lý trên phần mềm thống kê y sinh học SPSS 22.0.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
1. Đánh giá mức độ tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân
Bảng 1. Kết quả phỏng vấn tuân thủ thuốc của bệnh nhân
STT Câu hỏi Số BN Tỷ lệ
1 Đôi khi quên uống thuốc 174 58,00
2 Trong 2 tuần vừa qua có lúc quên uống thuốc 66 22,00
3 Giảm hoặc ngưng uống thuốc mà không nói với bác sỹ 90 30,00
4 Quên mang thuốc khi đi xa 62 20,67
5 Chưa uống thuốc ngày hôm qua 6 2,00
6 Ngừng thuốc khi thấy đường huyết ở dưới mức cần kiểm soát 96 32,00
7 Cảm thấy phiền khi phải điều trị dài ngày 162 54,00
8 Gặp khó khăn khi phải nhớ uống thuốc nhiều lần 148 49,33
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 2. Mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân
Mức độ tuân thủ Tổng điểm Số BN (n=300) Tỷ lệ (%)
Tốt 0-1 146 48,67
Trung bình 2-3 102 34,0
Kém 4-8 52 17,33
Bảng 3. Liên quan giữa mức độ tuân thủ và mức độ kiểm soát đường huyết
Mức độ tuân thủ
Mức độ kiểm soát đường huyết
Tốt Chấp nhận Kém
Số Bn % Số Bn % Số Bn %
Tốt (n=146) 34 23,29 48 32,88 64 43,84
Trung bình (n=102) 13 12,75 26 25,49 63 61,76
Kém (n=52) 3 5,77 4 7,69 45 86,54
p 0,012 (<0,05)
Nhận xét:
Về kết quả tuân thủ điều trị ở bệnh nhân trước vào viện, tỷ lệ bệnh nhân cho biết đã từng quên uống thuốc rất cao chiếm 58,0% nhưng trong 2 tuần gần đây nhất có 66 bệnh nhân (22,0%) quên sử dụng thuốc và chỉ có 6 bệnh nhân (2,0%) cho biết là chưa uống thuốc vào ngày trước ngày đến khám. Có 162 bệnh nhân (chiếm 54,0%)
cảm thấy phiền phức với liệu trình sử dụng thuốc lâu dài. Có 96 bệnh nhân từng tự ý ngừng sử dụng thuốc trong một khoảng thời gian nào đó mà không có bất cứ thông báo nào cho bác sỹ điều trị. Có 90 bệnh nhân chiếm khoảng 32,0% mẫu nghiên cứu cho biết đã ngừng sử dụng thuốc khi đường huyết đạt được hoặc ở dưới mức cần kiểm soát.
Nhận xét:
Kết quả bảng trên thông qua điều tra về mức độ tuân thủ điều trị của bệnh nhân, cho thấy tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ tốt chiếm phần lớn nhất là 146 bệnh nhân (chiếm 48,67%). Tiếp theo là đến tỉ lệ số bệnh nhân tuân thủ
trung bình có 102 bệnh nhân chiếm 34,0% và tuân thủ kém có 52 bệnh nhân chiếm 17,33%. Như vậy, tỷ lệ tuân thủ thuốc tốt cao hơn tuân thủ trung bình và kém trong số bệnh nhân nghiên cứu.
Nhận xét:
Qua kết quả nghiên cứu, cho thấy mối liên quan giữa mức độ tuân thủ dùng thuốc và mức độ kiểm soát đường huyết của bệnh nhân có ý nghĩa thống kê với p = 0,012 (<0,05). Như vậy, những bệnh nhân có mức tuân thủ dùng
thuốc tốt hơn sẽ có khả năng đạt mức kiểm soát đường huyết tốt hơn so với những bệnh nhân tuân thủ điều trị kém.
2. Khảo sát kiến thức về thuốc của bệnh nhân đang điều trị ĐTĐ type 2
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
Bảng 4. Kết quả khảo sát kiến thức về thuốc điều trị ĐTĐ type 2
Câu hỏi Điểm Số BN %
Câu 1: Tên loại thuốc đang dùng?
Không biết 0 288 96,0
Biết tên của loại thuốc đang dùng. 1 12 4,0
Câu 2: Tác dụng của thuốc?
Không biết 0 167 55,67
Để hạ đường huyết 1 133 44,33
Biết chính xác tác dụng của thuốc. 2 0 0,0
Câu 3: Cách dùng, thời điểm dùng?
Không biết. 0 0 0,0
Biết cách dùng nhưng không biết thời điểm dùng thuốc hoặc ngược lại 1 90 30,0
Biết cách dùng và thời điểm dùng thuốc. 2 210 70,0
Câu 4: Tác dụng phụ và xử trí?
Không biết 0 300 100,0
Biết các tác dụng phụ nhưng không biết cách xử trí hoặc biết cách xử trí
nhưng không biết các tác dụng phụ. 1 0 0,0
Biết các tác dụng phụ của thuốc và cách xử trí khi chúng xảy ra. 2 0 0,0 Câu 5: Nếu quên 1 liều thuốc bạn đang dùng, bạn phải làm thế nào?
Không biết hoặc uống gấp đôi ở liều kế tiếp. 0 128 42,67
Chưa bao giờ quên 1 liều nào cả hoặc nói “tiếp tục uống như bình
thường” hoặc “hỏi ý kiến bác sỹ hoặc dược sỹ để được tư vấn”. 1 172 57,33 Nhận xét:
Câu 1 hỏi có 96,0% bệnh nhân không biết tên loại thuốc đang dùng.
Câu 2 hỏi bệnh nhân về tác dụng của loại thuốc bệnh nhân đang dùng, số bệnh nhân không biết tác dụng của thuốc nhiều nhất chiếm 55,67%.
Câu hỏi số 3 hỏi về cách sử dụng (chế độ liều, uống nguyên viên hay nhai, nghiền?) và thời điểm dùng (liên quan đến bữa ăn) của tất cả các loại thuốc bệnh nhân
thuốc đang sử dụng.
Câu hỏi số 4, có 100% bệnh nhân không biết tới tác dụng phụ của thuốc.
Câu hỏi số 5 hỏi bệnh nhân nếu quên uống 1 liều thuốc thì phải làm gì. Có 128 bệnh nhân chiếm 42,67%
bệnh nhân không biết phải làm gì hoặc sẽ uống gấp đôi liều ở lần uống tiếp theo. Có 172 bệnh nhân chiếm 57,33% trả lời là bỏ qua liều đã quên và tiếp tục uống như bình thường.
Sau khi hoàn thành bộ câu hỏi, bệnh nhân có thể
VI NSC KH EC NG NG
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét:
Kết quả đánh giá tổng điểm kiến thức của bệnh nhân cho thấy, bệnh nhân đạt tổng điểm cao nhất là 4, thấp nhất là 0, không có bệnh nhân nào đạt từ 5 điểm trở lên, điểm trung bình đạt được của mẫu nghiên cứu 35 là 2,20 ± 1,91 điểm. Có 138 bệnh nhân (chiếm 46,0%) đạt từ 1 đến 2 điểm, 162 bệnh nhân đạt từ 3 đến 4 điểm, chiếm 54,0%.
IV. BÀN LUẬN
1. Sự tuân thủ dùng thuốc của bệnh nhân
Chúng tôi sử dụng thang đánh giá Morisky – 8, gồm 8 câu hỏi, để đánh giá mức độ tuân thủ của bệnh nhân.
Mỗi bệnh nhân được phỏng vấn 1 lần và tính tổng điểm sau khi hoàn thành bài phỏng vấn. Qua kết quả trên cho thấy, tỷ lệ tuân thủ thuốc tốt cao hơn tuân thủ trung bình và kém trong số bệnh nhân nghiên cứu. Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ dùng thuốc tốt và trung bình trong mẫu nghiên cứu của chúng tôi (82,67%) gần tương đương với tỷ lệ tuân thủ thuốc trong nghiên cứu của tác giả Lê Thị Hương Giang tiến hành nghiên cứu thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị bệnh ĐTĐ typ 2 của người bệnh đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 19-8 năm 2013.
Nghiên cứu được tiến hành trên 210 bệnh nhân. Kết quả cho thấy có 78,1% bệnh nhân tuân thủ dùng thuốc [3]. Và cao hơn tỷ lệ tuân thủ dùng thuốc trong mẫu nghiên cứu của Trần Việt Hà tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Hải Dương năm 2016 (54,74%) [4]..
Theo kết quả thu được, về kết quả tuân thủ điều trị ở bệnh nhân trước vào viện, tỷ lệ bệnh nhân cho biết đã từng quên uống thuốc rất cao chiếm 58,0% nhưng trong 2
thuốc và chỉ có 6 bệnh nhân (2,0%) cho biết là chưa uống thuốc vào ngày trước ngày đến khám. Có 162 bệnh nhân (chiếm 54,0%) cảm thấy phiền phức với liệu trình sử dụng thuốc lâu dài. Có 96 bệnh nhân từng tự ý ngừng sử dụng thuốc trong một khoảng thời gian nào đó mà không có bất cứ thông báo nào cho bác sỹ điều trị. Có 90 bệnh nhân chiếm khoảng 32,0% mẫu nghiên cứu cho biết đã ngừng sử dụng thuốc khi đường huyết đạt được hoặc ở dưới mức cần kiểm soát.
Trong 52 người chiếm 17,33% mẫu nghiên cứu có mức độ tuân thủ điều trị kém có đến 22 bệnh nhân cho biết đã từng quên uống thuốc, có 17 bệnh nhân cảm thấy phiền phức do phải sử dụng thuốc lâu dài, có 11 bệnh nhân cho biết đã có khoảng thời gian ngừng sử dụng thuốc mà không thông báo cho bác sỹ điều trị. Như vậy ta thấy 2 yếu tố “quên thuốc” và “cảm thấy phiền phức” là 2 yếu tố ảnh hưởng nhiều nhất đến mức độ tuân thủ của mẫu nghiên cứu. Đây cũng là những lý do thường gặp nhất ở những bệnh nhân mạn tính phải sử dụng thuốc dài ngày.
Theo báo cáo của WHO năm 2016, mức độ tuân thủ ảnh hưởng lớn đến hiệu quả điều trị bệnh mạn tính [5].
Trong nghiên cứu của chúng tôi, ảnh hưởng của mức độ tuân thủ điều trị lên mức độ kiểm soát đường huyết có ý nghĩa thống kê với p < 0,05, nghĩa là bệnh nhân càng tuân thủ điều trị tốt thì càng kiểm soát tốt đường huyết. Cụ thể, ở nhóm bệnh nhân có mức tuân thủ dùng thuốc tốt thì mức kiếm soát đường huyết tốt cao hơn nhóm bệnh nhân tuân thủ dùng thuốc kém, ở nhóm tuân thủ dùng thuốc kém thì tỷ lệ bệnh nhân kiểm soát đường huyết kém cũng rất cao, chiếm 86,54% nhóm này, trong khi tỷ lệ bệnh nhân kiểm soát đường huyết kém ở nhóm có mức độ tuân thủ tốt Bảng 5. Tổng điểm kiến thức của bệnh nhân
Tổng điểm Số BN Tỷ lệ (%)
1 38 12,67
2 100 33,33
3 78 26,0
4 84 28,0
≥ 5 0 0
Tổng số 300 100,0
X ± SD 2,20 ± 1,91
JOURNAL OF COMMUNITY MEDICINE
2020
để nâng cao hơn nữa hiệu quả điều trị ĐTĐ typ 2, ta cần đưa ra các biện pháp can thiệp để thúc đẩy hơn nữa tuân thủ điều trị của bệnh nhân. Có thể thông qua các biện pháp giáo dục, các tờ hướng dẫn cho bệnh nhân trong việc dùng thuốc trong quá trình nằm viện cũng như xuất viện điều trị.
2. Khảo sát kiến thức về thuốc sử dụng của bệnh nhân
Khảo sát được thực hiện bằng bộ công cụ gồm 5 câu hỏi đơn giản, điểm tối đa cho bộ khảo sát này là 8 điểm.
Trong mẫu nghiên cứu, điểm kiến thức trung bình bệnh nhân đạt được là 2,2 điểm. Có 100% bệnh nhân không biết tên thuốc đang sử dụng và không biết đến tác dụng phụ của thuốc. Tuy nhiên khi được hỏi khi uống thuốc bệnh nhân có gặp bất thường nào không, kết quả có 15 bệnh nhân gặp rối loạn tiêu hóa, bệnh nhân xử trí bằng cách tự ý ngừng thuốc, khi tình trạng rối loại tiêu hóa được cải thiện thì tiếp tục uống thuốc mà không có bất kỳ 1 thông báo hay phát sinh nhu cầu tư vấn từ bác sỹ điều trị, dược sỹ. Khi bệnh nhân tự ý ngừng sử dụng mà không có sự chỉ định từ bác sỹ điều trị nghĩa là bệnh nhân tuân thủ điều trị không tốt. Về tên thuốc bệnh nhân đang sử dụng, 96,0% bệnh nhân không biết tên thuốc, nhưng bệnh nhân vẫn phân biệt được 2 loại thuốc với mức liều khác nhau ở những đơn sử dụng 2 thuốc dựa vào đặc điểm dập vỉ và hình dạng viên thuốc. Bệnh nhân phân biệt rõ viên Diaberim (metfomin 500mg), vỉ 10 viên, hình tròn, dẹt, màu trắng. Viên Golddicron (gliclazid 30mg), vỉ 20 viên, hình oval, dẹt mỏng, nhỏ.
So sánh với một số nghiên cứu trong nước, kết quả điều tra về kiến thức chung bệnh ĐTĐ của Lê Văn Trụ và cộng sự thực hiện tại 6 vùng sinh thái của Việt Nam từ tháng 10/2012 đến tháng 2/2013 chỉ có 0,5% đối tượng tham gia điều tra có kiến thức tốt. 75,5% đối tượng tham gia điều tra có kiến thức rất thấp về chẩn đoán và biến chứng của bệnh [3]. Kết quả nghiên cứu của Dương Đình Chỉnh, Ngô Đức Kỷ tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An năm 2015 cho thấy vẫn có một tỷ lệ bệnh nhân đáng kể chưa hiểu được đầy đủ về bệnh ĐTĐ, cụ thể có 41,1% bệnh nhân hiểu không đúng về bệnh ĐTĐ typ 2 [6]. Qua các nghiên cứu, điều tra nhỏ ta có thể thấy rằng, bệnh nhân thiếu kiến thức, thiếu hiểu biết về bệnh, về thuốc sử dụng đang là một thực trạng đáng lo ngại trên nhiều vùng miền, địa phương.
V. KẾT LUẬN
* Mức độ tuân thủ: Tỷ lệ bệnh nhân tuân thủ thuốc ở mức độ kém là 17,33% mẫu nghiên cứu. Câu hỏi gây ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả tuân thủ dùng thuốc là câu 1, bệnh nhân đã có lúc quên sử dụng thuốc chiếm 58,0%, và câu 7, bệnh nhân thấy phiền khi phải uống thuốc dài ngày chiếm 54,0%.
* Kiến thức của bệnh nhân: Kiến thức của bệnh nhân về thuốc ở mức rất thấp. Điểm trung bình đạt được là 2,20 ± 1,91 điểm. Có 96,0% bệnh nhân không biết tên và tác dụng phụ của thuốc đang sử dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái Hồng Quang (2012). Thực hành lâm sàng bệnh đái tháo đường. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
2. Lê Thị Hương Giang (2013). Thực trạng và một số yếu tố liên quan đến tuân thủ điều trị bệnh ĐTĐ typ 2 của người bệnh đang điều trị ngoại trú tại Bệnh viện 19-8.
3. Trần Việt Hà (2016). Phân tích tình hình sử dụng thuốc và tuân thủ điều trị trên bệnh nhân đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Hải Dương.
4. Dương Đình Chỉnh, Ngô Đức Kỷ (2015). Tìm hiểu kiến thức, thái độ và thực hành của bệnh nhân ĐTĐ typ 2 tại khoa Nội tiết Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An. Tạp chí Y học thực hành, 11: 6 - 8.
5. American Diabetes Association (2014). Diagnosis and Classification of Diabetes Mellitus.
6. World health day (2016). Global report on diabetes.