• Tidak ada hasil yang ditemukan

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DUNG DỊCH TRUYỀN TĨNH MẠCH TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HẢI PHÒNG

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DUNG DỊCH TRUYỀN TĨNH MẠCH TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HẢI PHÒNG"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DUNG DỊCH TRUYỀN TĨNH MẠCH TẠI KHOA HỒI SỨC CẤP CỨU

BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HẢI PHÒNG

Trịnh Thị Lý*, Phùng Văn Duyên*

TÓM TẮT29

Đánh giá thực trạng sử dụng dung dịch truyền tĩnh mạch tại Khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải Phòng, chúng tôi đã phân tích hồi cứu 120 bệnh án của 120 bệnh nhân, kết quả như sau: Gần 3/4 số bệnh nhân là người cao tuổi và người già. Bệnh nhân tái nhập viện là 5,83%. Bệnh nhân chuyển viện là 10,83%. Rất ít bệnh nhân được can thiệp kỹ thuật hồi sức cấp cứu. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch là 87,5%. Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất là NaCl 0,9% với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được truyền. 2/3 số bệnh nhân được truyền dịch liên quan đến việc sử dụng thuốc. Gần 1/3 số bệnh nhân được truyền dịch với mục đích dự phòng sốc giảm thể tích. Ngày nằm viện trung bình là 6,96 ngày, ngày truyền dịch trung bình là 6,14 ngày. 11,43% bệnh nhân được truyền dịch không cần thiết. Dung dịch ringer lactat được sử dụng khá khiêm tốn. Một số trường hợp truyền dung dịch glucose chưa đúng chỉ định. Một số bệnh nhân có chế độ ăn giảm muối nhưng vẫn được truyền dung dịch mặn (để pha thuốc). Một số dung dịch ưu trương và thuốc vận mạch chưa được truyền qua tĩnh mạch trung tâm.

Từ khóa: dung dịch truyền tĩnh mạch, khoa hồi sức cấp cứu

*Trường Đại học Y Dược Hải Phòng Chịu trách nhiệm chính: Trịnh Thị Lý Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 20.3.2021

Ngày phản biện khoa học: 20.4.2021

SUMMARY

RESEARCH OF THE CURRENT SITUATION OF USING SOLUTION FOR INTRAVENOUS INFUSION AT

EMERGENCY MEDICINE DEPARTMENT OF HAIPHONG MEDICAL UNIVERSITY HOSPITAL

Assessing the current situation of using solution for intravenous infusion at Emergency Medicine Department of Hai Phong Medical University Hospital, we have had the retrospective analysis of 120 medical records of 120 patients with the following results: Nearly three quarters of the patients were elderly;

Patients re-hospitalized were 5.83%. Hospital transfer patients were 10.83%. Very few patients received emergency resuscitation techniques. The proportion of patients receiving infusion was 87.5%. The most commonly used solution was NaCl 0.9% in the proportion of 84.76% of patients receiving the infusion. Two third of patients received the infusion involved the drug use. Almost one third of patients received infusion to prevent hypovolemic shock. The average day of hospitalization was 6.96 days, the average day of infusion was 6.14 days. 11.43% of patients received unnecessary infusion. Ringer lactate solution is rarely used.

Some cases of infusion of glucose solution were not indicated. Some patients are on a low-salt diet but still receive saline solution (to make medicine). Some hypertonic and vasopressors solution have not been administered through central vein.

(2)

Key words: solution for intravenous infusion, Emergency Medicine Department

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Truyền dịch là một liệu pháp điều trị mà hầu hết các khoa lâm sàng đều thực hiện, đặc biệt là các khoa hồi sức cấp cứu, nơi mà các dung dịch được sử dụng phổ biến nhất cho những tình huống cấp cứu, bệnh nặng và nguy kịch.

Khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng là đơn vị tiếp nhận những bệnh nhân mắc các bệnh cấp cứu, bệnh nặng hoặc bệnh diễn biến phức tạp. Đa số bệnh nhân nằm viện tại khoa này được truyền dịch và truyền dịch dài ngày. Để góp phần sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch một cách an toàn và hiệu quả, chúng tôi nghiên cứu đề tài này với 2 mục tiêu sau đây:

1. Mô tả thực trạng truyền dịch tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng từ tháng 01/2020 đến tháng 4/2020.

2. Nhận xét việc sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch tại khoa Hồi sức cấp cứu Bệnh viện Đại học Y Hải Phòng từ tháng 01/2020 đến tháng 4/2020.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

Tất cả bệnh nhân nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải Phòng từ tháng 1/2020 đến tháng 4/2020 bao gồm

120 bệnh nhân với tổng số 120 bệnh án nội trú.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Hồi cứu, mô tả cắt ngang. Thu thập và phân tích dữ liệu theo bệnh án của các bệnh nhân nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu từ tháng 1/2020 đến 4/2020.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 3.1. Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

3.1.1. Đặc điểm tuổi, giới

Tổng số 120 bệnh nhân, trong đó 65 nam (chiếm 54,16%) và 55 nữ (chiếm 45,84%)

Bệnh nhân có tuổi cao nhất là 102 tuổi, thấp nhất là 15 tuổi. Gần 3/4 số bệnh nhân nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu là người cao tuổi và người già.

3.1.2. Ngày nằm viện trung bình

Bệnh nhân có số ngày nằm viện ít nhất là 1 ngày. Bệnh nhân có số ngày nằm viện nhiều nhất là 18 ngày. Số ngày nằm viện trung bình của 1 đợt điều trị chung cho tất cả bệnh nhân là 7,08 ngày. Ngày nằm viện trung bình của bệnh nhân được truyền dịch là 6,96. Ngày nằm viện trung bình của bệnh nhân không được truyền dịch là 7,78. Ngày nằm viện trung bình của khoa Hồi sức cấp cứu tương đồng với một số bệnh viện trên địa bàn thành phố, nhưng ngắn hơn so với khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Kiến An và bệnh viện Việt Tiệp (trên 10 ngày), có lẽ do bệnh lý của khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải Phòng ít phức tạp hơn và tỷ lệ chuyển viện lại cao hơn.

3.1.3. Bệnh chính phải vào nhập viện Bảng 1. Bệnh chính phải vào nhập viện

Tên bệnh Số BN Tỷ lệ %

Viêm phổi 16 13,33

Xuất huyết tiêu hóa (5 có sốc giảm thể tích) 11 9,17

(3)

Tai biến mạch não 12 10,00

COPD đợt cấp 9 7,50

Bệnh mạch vành (1 NMCT có sốc) 6 5,00

Nhiễm khuẩn tiết niệu 6 5,00

Rối loạn nhịp 4 3,33

Ngộ độc thuốc 3 2,50

Tăng áp lực thẩm thấu (2 có sốc) 4 3,33

Viêm tụy cấp 6 5,00

Hạ đường máu 3 2,50

Biến chứng suy thận mạn 4 3,33

Hen phế quản 2 1,67

Hội chứng tiền đình 2 1,67

Phù phổi cấp 2 1,67

Phản vệ độ I 3 2,50

Rối loạn tiền đình 2 1,67

Viêm túi mật hoại tử (1 có sốc) 1 0,83

Nhiễm khuẩn huyết (1 có sốc) 2 1,67

Xơ gan mất bù 2 1,67

Bệnh khác 20 16,67

Nhận xét và bàn luận: Bệnh nhân nhập viện vào khoa Hồi sức cấp cứu chủ yếu thuộc về bệnh học nội khoa, ít gặp bệnh ngoại khoa, sản khoa và nhi khoa. Điều này cũng phù hợp với mô hình bệnh tật tại khoa hồi sức cấp cứu của nhiều bệnh viện trong thành phố (Bệnh viện Kiến An, Bệnh viện Thủy Nguyên, Bệnh viện An Lão…).

3.1.4. Các bệnh hiện mắc Bảng 2. Các bệnh hiện mắc

Các bệnh hiện mắc Số BN Tỷ lệ %

Mắc 1 bệnh chính 11 9,17

Mắc đa bệnh 112 93,33

Có tăng huyết áp 50 41,67

Có đái tháo đường 33 27,50

Có cả tăng huyết áp và đái tháo đường 16 13,33

Các bệnh khác 60 50,00

Nhận xét và bàn luận: Hầu hết bệnh nhân nhập viện tại khoa Hồi sức cấp cứu đều mắc đa bệnh (93,33%), chỉ có 9,71% bệnh nhân mắc 1 bệnh. Bệnh đồng mắc nhiều nhất là tăng huyết áp (gần một nửa số bệnh nhân có tăng huyết áp) và đái tháo đường (trên 1/4 số bệnh nhân có đái tháo đường).

(4)

3.1.5. Tình trạng bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp Bảng 3. Tình trạng bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp

Tình trạng bệnh nhân Số BN Tỷ lệ %

Sốc mất máu (do XHTH) 5 4,17

Sốc giảm thể tích (do TALTT) 2 1,67

Sốc tim (do NMCT) 1 0,83

Sốc nhiễm khuẩn 2 1,67

Cơn tăng huyết áp kịch phát 8 6,67

Đột quỵ cấp (loại nhồi máu não) 12 10,00

Mất máu cần truyền máu 9 7,50

Tăng áp lực thẩm thấu do đái tháo đường 5 4,17

Hạ đường máu 4 3,33

Thiếu máu nặng do suy thận mạn 1 0,83

Tổng số 49 40,83

Nhận xét và bàn luận: Trong số 120 bệnh nhân có 49 bệnh nhân cần can thiệp khẩn cấp, chiếm tỷ lệ 40,83%. Đây là những bệnh nhân cần được xử trí nhanh chóng hoặc cần được can thiệp ngay lập tức (can thiệp chẩn đoán và can thiệp điều trị). Số bệnh nhân còn lại thuộc các nhóm bệnh cần chăm sóc tích cực.

3.2. Thực trạng sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch

3.2.1. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch. Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch tại khoa Hồi sức cấp cứu là khá cao, chiếm tỷ lệ 87,5%; có 6 bệnh nhân không cần truyền dịch (5,0%) và 9 bệnh nhân có chống chỉ định truyền dịch (7,50%). Tỷ lệ này cũng tương đồng với các khoa hồi sức của các bệnh viện khác (hầu hết bệnh nhân tại khoa hồi sức cấp cứu bệnh viện Kiến An có truyền dịch).

3.2.2. Các chỉ định truyền dịch Bảng 4. Chỉ định truyền dịch

Chỉ định truyền dịch Số BN Tỷ lệ %

Nâng huyết áp trong sốc giảm thể tích 9/105 8,57

Dự phòng sốc giảm thể tích 33/105 31,43

Nuôi dưỡng đường tĩnh mạch 16/105 15,24

Pha thuốc trong dịch truyền 71/105 67,62

Điều chỉnh rối loạn nước điện giải 1/105 0,95

Điều chỉnh áp lực thẩm thấu 3/105 2,86

Giải độc, lợi tiểu ở bệnh nhân bị ngộ độc 3/105 2,86

Không có bất kỳ lý do gì 12/105 11,43

(5)

Nhận xét: 2/3 số bệnh nhân được truyền dịch liên quan đến việc sử dụng thuốc pha trong dịch truyền. Gần 1/3 số bệnh nhân được truyền dịch với mục đích dự phòng sốc giảm thể tích. 15,24% bệnh nhân được truyền dịch để nuôi dưỡng. 8,57% bệnh nhân được truyền dịch cấp cứu với lượng dịch lớn để hồi phục thể tích tuần hoàn. Các chỉ định truyền dịch khác chỉ gặp rất ít, từ 0% đến 2,86%. 11,43% bệnh nhân được truyền dịch không cần thiết (lạm dụng truyền dịch).

3.2.3. Các loại dung dịch được truyền Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y là dung dịch mặn đẳng trương (NaCl 0,9%) với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được truyền, trong khi đó chỉ có 20,95% bệnh nhân được truyền dung dịch Ringer lactate.

22,86% bệnh nhân được truyền dung dịch Glucose. Các loại dung dịch khác được sử dụng cho bệnh nhân với tỷ lệ thấp từ 0%

đến 3,80%.

3.2.4. Số ngày truyền dịch trung bình Ngày nằm viện trung bình của 1 bệnh nhân truyền dịch là 6,96 ngày. Ngày truyền dịch trung bình của 1 bệnh nhân được truyền dịch là 6,14 ngày. Như vậy các bệnh nhân được truyền dịch kéo dài từ ngày vào viện đến ngày ra viện (trừ nửa ngày làm thủ tục thanh toán ra viện), mặc dù rất nhiều bệnh nhân có thể ngừng truyền dịch (đã đạt mục đích truyền dịch) nhưng vẫn được truyền dịch.

3.3. Đánh giá việc sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch

3.3.1. Các dung dịch được truyền để phục hồi thể tích tuần hoàn

Tỷ lệ bệnh nhân sốc giảm thể tích được truyền dung dịch NaCl 0,9% là 9/9 bệnh nhân, trong khi đó chỉ có 3/9 bệnh nhân được truyền ringer lactate. Để nâng huyết áp trong sốc giảm thể tích, việc lựa chọn loại dung dịch nào có khả năng lấp đầy lòng mạnh đã được nhiều tác giả khẳng định, đó là các dung dịch tinh thể đẳng trương, có thể là dung dịch NaCl 0,9% hoặc ringer lactate, trong đó vai trò làm đầy lòng mạch của 2 loại này là tương đương, nhưng ringer có lợi thế hơn và an toàn hơn so với dung dịch NaCl 0,9%.

Có 3/9 bệnh nhân được truyền dung dịch glucose để phục hồi thể tích tuần hoàn là chưa phù hợp với khuyến cáo. Các tác giả khuyên rằng không nên sử dụng dung dịch glucose để lấp đầy lòng mạch vì khả năng làm đầy lòng mạch của dung dịch glucose là rất khiêm tốn (truyền 1 lít dung dịch glucose 5% chỉ có 80ml dung dịch được nằm trong lòng mạch, lượng còn lại ra khoảng kẽ và vào trong tế bào) và có thể gây tác dụng bất lợi như phù phổi, phù não.

Trong trường hợp mất nước hoặc mất máu, mặc dù tình trạng toàn thân vẫn tốt, chưa có bất thường về các dấu hiệu sinh tồn, chưa có sốc, nhưng việc truyền dịch là cần thiết để dự phòng sốc giảm thể tích. Các dung dịch tinh thể đẳng trương (ringer lactat và natri clorua 0,9%) là sự lựa chọn tốt nhất để dự phòng sốc giảm thể tích. Tại khoa hồi sức cấp cứu, chỉ có 10/33 bệnh nhân được truyền dung dịch ringer lactate trong khi 33/33 bệnh nhân được truyền dung dịch mặn đẳng trương. 7/33 bệnh nhân được truyền dung dịch glucose để dự phòng sốc giảm thể tích.

(6)

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa hồi sức cấp cứu có 5 ca tăng áp lực thẩm thấu do đái tháo đường. Cả 5/5 trường hợp đều được truyền dung dịch mặn đẳng trương, chỉ có 3/5 trường hợp được truyền dung dịch ringer lactate. Đây là 2 loại dung dịch được sử dụng tốt nhất trong tăng áp lực thẩm thấu. Tuy nhiên, dung dịch ringer lactate là sự lựa chọn ưu tiên hơn bởi vì nó nhược trương hơn so với dung dịch NaCl 0,9% (áp lực thẩm thấu của ringer lactate là 278 trong khi của NaCl 0,9% là 290 mOsmol) và dung dịch nhược trương hơn sẽ làm giảm áp lực thẩm thấu nhanh hơn.

3.3.2. Các dung dịch được truyền để nuôi dưỡng

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa hồi sức cấp cứu có 16 ca có liên quan đến nuôi dưỡng tĩnh mạch do có vấn đề về nuốt hoặc hôn mê. Mục đích của nuôi dưỡng là cung cấp năng lượng (kalo), chất dinh dưỡng (protid, lipid, glucid, vitamin và khoáng chất). Vai trò của dung dịch NaCl 0,9% trong dinh dưỡng rất khiêm tốn, chúng chỉ cung cấp cho cơ thể nước và điện giải (Na, Cl). Mặc dù dung dịch gluose cung cấp năng lượng cho cơ thể nhưng truyền 500ml dung dịch gluose 5% cũng chỉ cung cấp cho cơ thể 100 kcalo. Chính vì vậy, để chăm sóc dinh dưỡng tốt nhất, cần tính toán nhu cầu calo và cân đối chất dinh dưỡng của bệnh nhân để đáp ứng đầy đủ bằng cách cho ăn qua sonde dạ dày. Một lưu ý nữa là khi truyền các dung dịch ưu trương (glucose 10%, 20%, dung dịch acid amin…) cần thiết phải tiêm truyền qua tĩnh mạch trung tâm, không nên truyền qua tĩnh

mạch ngoại vi vì dễ gây tình trạng viêm tĩnh mạch.

3.3.3. Các dung dịch được truyền để lợi tiểu giải độc

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa hồi sức cấp cứu có 3 ca bị ngộ độc thuốc ngủ thể nhẹ, bệnh nhân tỉnh táo, tình trạng tòan thân tốt. Việc truyền dịch với mục đích làm tăng lưu lượng máu tới thận, tăng đào thải chất độc qua nước tiểu. Để đạt được mục tiêu đó, dung dịch được lựa chọn tốt nhất vẫn là dung dịch mặn đẳng trương và dung dịch ringer lactate. Dung dịch glucose 5% không phải là dung dịch được lựa chọn để làm tăng lưu lượng máu tới thận. Tuy nhiên 2/3 bệnh nhân vẫn được truyền dung dịch glucose là chưa phù hợp.

3.3.4. Các dung dịch được truyền để pha thuốc

Trong số 105 bệnh nhân được truyền dịch có 71 ca cần phải truyền dịch để pha thuốc, trong đó có 66 bệnh nhân (92,96%) được truyền dung dịch mặn đẳng trương để pha thuốc. Những thuốc pha trong dịch truyền thường gặp là kháng sinh, dãn phế quản, insulin… Trong số 66 bệnh nhân được truyền dung dịch mặn đẳng trương để pha thuốc có 40 bệnh nhân bị bệnh tăng huyết áp (bệnh đi kèm với bệnh chính). Một số bệnh nhân khác cũng có chế độ ăn giảm muối như tim phổi mạn, suy tim, suy thận mạn v.v… cũng được truyền thuốc pha với dung dịch mặn đẳng trương. Khoa hồi sức cấp cứu nên cân nhắc pha thuốc với dung dịch glucose 5% để hạn chế lượng muối đưa vào cơ thể trong những trường hợp này.

3.3.5. Các dung dịch được truyền cho bệnh nhân đột quỵ cấp

(7)

Trong số 120 bệnh nhân nhập viện khoa hồi sức cấp cứu có 12 ca nhập viện vì bị đột quỵ cấp. Khi bị đột quỵ cấp, tế bào não bị thiếu oxy, nếu truyền dung dịch glucose vào trong môi trường thiếu oxy, glucose sẽ chuyển hóa yếm khí tạo ra acid lactic. Acid lactic là một chất độc tính với tế bào não, do vậy sẽ có nguy cơ làm tổn thương não nặng thêm. Trong nghiên cứu này, có 4/12 ca được truyền dung dịch glucose là chưa phù hợp thậm chí có chống chỉ định. Dung dịch ringer lactate là một dung dịch hơi nhược trương so với huyết tương mặc dù nó được xếp vào nhóm đẳng trương. Trong trường hợp có phù não, cần hạn chế truyền loại dung dịch này. Nên cân nhắc 4/12 ca được truyền dung dịch ringer lactate trong nghiên cứu này.

IV. KẾT LUẬN

Qua thu thập và phân tích 120 hồ sơ bệnh án của 120 bệnh nhân điều trị tại khoa Hồi sức cấp cứu bệnh viện Đại học Y Hải Phòng, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

4.1 Đặc điểm chung của nhóm bệnh nhân nghiên cứu

Nam chiếm 54,16%, nữ chiếm 45,84%.

Bênh nhân có tuổi cao nhất là 102 tuổi, thấp nhất là 15 tuổi. Gần 3/4 số bệnh nhân nằm viện tại khoa Hồi sức cấp cứu là người cao tuổi và người già.

Tỷ lệ bệnh nhân tái nhập viện trong 4 tháng là 5,83%. Tỷ lệ bệnh nhân chuyển viện là 10,83%.

Số ngày nằm viện trung bình của 1 đợt điều trị chung cho tất cả bệnh nhân là 7,08 ngày.

Hầu hết bệnh nhân mắc đa bệnh (chiếm

93,33%). Bệnh đồng mắc nhiều nhất là tăng huyết áp, đái tháo đường.

4.2 Thực trạng sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch

Tỷ lệ bệnh nhân được truyền dịch là 87,5%. Khoảng 2/3 số bệnh nhân được truyền dịch liên quan đến việc sử dụng thuốc (pha thuốc). Gần 1/3 số bệnh nhân được truyền dịch với mục đích dự phòng sốc giảm thể tích. 15,24% bệnh nhân được truyền dịch để nuôi dưỡng. 8,57% bệnh nhân phải truyền dịch cấp cứu với lượng dịch lớn để hồi phục thể tích tuần hoàn. Các chỉ định truyền dịch khác rất ít, từ 0% đến 2,86%.

Dung dịch được sử dụng phổ biến nhất là dung dịch mặn đẳng trương (NaCl 0,9%) với tỷ lệ 84,76% bệnh nhân được truyền.

22,86% bệnh nhân được truyền dung dịch Glucose. 20,95% bệnh nhân được truyền dung dịch Ringer lactate.

4.3 Nhận xét về việc sử dụng các dung dịch truyền tĩnh mạch

Ngày truyền dịch trung bình của 1 bệnh nhân được truyền dịch là 6,14 ngày trong khi ngày nằm viện trung bình của 1 bệnh nhân truyền dịch là 6,96 ngày.

11,43% bệnh nhân được truyền dịch không cần thiết (lạm dụng truyền dịch).

Để làm đầy mạch máu, có 9/9 bệnh nhân được sử dụng dung dịch NaCl 0,9% nhưng chỉ có 3/9 bệnh nhân được sử dụng dung dịch ringer lactate, trong khi dung dịch ringer lactat có tác dụng tương đương và có nhiều ưu thế hơn.

Việc lựa chọn loại dịch truyền trong một số tình huống lâm sàng là chưa phù hợp: 3/9 bệnh nhân được truyền dung dịch glucose

(8)

để phục hồi thể tích tuần hoàn; 7/33 bệnh nhân được truyền dung dịch glucose để dự phòng sốc giảm thể tích; 4/12 bệnh nhân đột quỵ cấp được truyền dung dịch glucose; 2/3 bệnh nhân được truyền dung dịch glucose với mục đích làm tăng lưu lượng máu tới thận.

Một số dung dịch ưu trương và thuốc vận mạch (Dopamin, dobutamin) chưa được truyền qua tĩnh mạch trung tâm (hiện tại truyền qua tĩnh mạch ngoại vi).

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Quyết định số 1493/2015/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc ban hành tài liệu chuyên môn hướng dẫn chẩn đoán và xử trí hồi sức tích cực, tr 179-193.

2. Trường Đại học Dược Hà Nội (2007), Dược lâm sàng và điều trị, Nhà xuất bản Y học 2007.

3. Alena Lira, Michael R Pinsky (2014),

“Choices in fluid type and volume during resuscitation: impact on patient outcomes”,

Ann Intensive Care.Published 2014 Dec 4; 4:

38. PMID: 25625012, PMCID:

PMC4298675.

4. Anil Kumar Gangwar, S.C.Chaudhary M.D (2015),“Intravenous fluid therapy”, Daily fluid balance, Published in: Health &

Medicine, on Nov 8, 2015.

5. Marik PE et al (2011). “Hemodynamic parameters to guide fluid therapy”, Annals of Intensive Care, 2011, 1:1 PMID: 21906322, PMCID: PMC3159904.

6. Rasouli M (2016), “Basic concepts and practical equations on osmolality:

biochemical approach”, Clin Biochem. 2016;

49(12): 936-41. PubMed PMID: 27343561.

7. Raghunathan K, Shaw AD, Bagshaw SM (2013), “Fluids are drugs: type, dose and toxicity”, CurrOpinCrit Care, ; 19,(4):

290-8. PubMed PMID: 23817025

8. RoyalCollege of Physicians (UK),

Intravenous Fluid Therapy in Adults in Hospital”, NICE Clinical Guidelines, 2013 Dec, No. 174.

Referensi

Dokumen terkait