nghiệp của kiểm toán viên trong kiểm toán báo cáo tài chính - Nghiên cứu tại thành phố Hà Nội, Việt Nam
Factors affecting auditors’ professional skepticism in financial statement audit - Study in Ha Noi, Viet Nam
Abstract: Maintaining appropriate professional skepticism is important for an auditor when performing a financial statement audit. To bring critical recommendations from this study, we used the database provided by 163 audit staff and auditors in Hanoi city. The research method of in-depth interview and data analysis through SPSS 26.0 was used to reach the proposed research objectives. The result shows that factors affecting professional skepticism include: auditor competence, auditor personality (positively impact on professional skepticism); relationship between auditors and clients and time pressure (negatively impact on professional skepticism). Since then, the research gives solutions to maintain and enhance the professional skepticism of auditors in Ha Noi, Vietnam.
Keywords: auditor competence, audit fee, auditor personality, financial statement audit, professional skepticism, time pressure.
* Corresponding author.
E-mail address: [email protected] (Hieu Trung Hoang) [email protected] (Kien Danh Nguyen) [email protected] (Duong The Nguyen) [email protected] (Son Ngoc Vu) [email protected] (Dat Vu Hoang) [email protected] (Anh Thi Lan Nguyen) Organization of all: National Economics University (NEU)
- Hoàng Trung Hiếu - Nguyễn Danh Kiên - Nguyễn Thế Dương - - Vũ Ngọc Sơn - Hoàng Vũ Đạt - Nguyễn Thị Lan Anh -
Đại học Kinh tế Quốc dân
Ngày nhận: 15/04/2021 - Ngày nhận bản sửa: 05/05/2021 - Ngày duyệt đăng: 19/05/2021
Tóm tắt: Duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp phù hợp là một yêu cầu quan trọng đối với kiểm toán viên khi thực hiện kiểm toán báo cáo tài chính. Để đưa ra được những khuyến nghị quan trọng từ nghiên cứu này, nhóm tác giả đã sử dụng cơ sở dữ liệu được cung cấp bởi 163 trợ lý kiểm toán và kiểm toán viên đang hành nghề kiểm toán trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phương pháp phỏng vấn sâu chuyên gia và phân tích dữ liệu thông qua phần mềm SPSS 26.0 được sử dụng để đạt được mục tiêu nghiên cứu đã đề ra. Kết quả nghiên cứu cho thấy các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ hoài nghi nghề nghiệp bao gồm: năng lực cá nhân, đặc điểm của kiểm toán viên (tác động cùng chiều đến thái độ hoài nghi nghề nghiệp); mối quan hệ giữa kiểm toán viên và khách hàng và áp lực thời gian (tác động ngược chiều đến thái độ
hoài nghi nghề nghiệp). Từ đó nghiên cứu đưa ra những giải pháp nhằm duy trì và nâng cao thái độ hoài nghi nghề nghiệp của kiểm toán viên tại Hà Nội, Việt Nam.
Từ khóa: áp lực thời gian, đặc điểm cá nhân, kiểm toán báo cáo tài chính, năng lực kiểm toán viên, phí kiểm toán, thái độ hoài nghi nghề nghiệp.
1. Giới thiệu
Theo thông cáo báo chí năm 2013 được phát hành bởi Ủy ban Chứng khoán và Sàn giao dịch Hoa Kỳ (SEC), một trường hợp liên quan đến việc kiểm toán viên (KTV) không có đủ tính hoài nghi trong việc xác minh các tuyên bố của Ban giám đốc công ty. Cụ thể là hai KTV của Công ty KPMG đã bị cáo buộc vi phạm khi thực hiện kiểm toán ngân hàng TierOne, có trụ sở tại Nebraska, đã che giấu khoản vay hàng triệu USD từ các nhà đầu tư trong thời kỳ khủng hoảng tài chính năm 2008. SEC cho rằng hai KTV đã không xem xét kỹ lưỡng ước tính của Ban giám đốc về khoản dự phòng cho vay, cho thuê của TierOne. Cụ thể là hai KTV trên dựa vào các thông tin, công bố lỗi thời của Ban giám đốc và sau đó đưa ra ý kiến chấp nhận toàn phần về kiểm soát nội bộ, báo cáo tài chính (BCTC) năm 2008 của TierOne (SEC, 2013). Qua đó thấy được tầm quan trọng của việc KTV duy trì thái độ hoài nghi nghề nghiệp (HNNN) xuyên suốt cuộc kiểm toán. Mặc dù vậy, những nghiên cứu về lĩnh vực này chưa được thực hiện theo một khuôn khổ, khái niệm và cách thức đo lường rõ ràng (Hurtt, 2010).
Bên cạnh đó, Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam số 200 (VSA 200) yêu cầu KTV phải thực hiện xét đoán chuyên môn và luôn duy trì thái độ HNNN trong suốt quá trình kiểm toán (Bộ Tài chính, 2012). Nhưng KTV nên duy trì thái độ HNNN ở mức độ nào là phù hợp và làm thế nào để xác định mức độ đó thì Chuẩn mực vẫn chưa đề cập tới. Vì vậy, nghiên cứu này tổng hợp những công bố đã có, từ đó phát triển đi sâu phân tích làm rõ
tầm quan trọng của thái độ HNNN trong cuộc kiểm toán BCTC cũng như xác định các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN của KTV, cụ thể là trợ lý kiểm toán và KTV đang hành nghề trên địa bàn Hà Nội.
2. Tổng quan nghiên cứu và cơ sở lý thuyết 2.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu Các công trình nghiên cứu trên thế giới Nelson (2009) đã đưa ra cái nhìn tổng quan về một mô hình cơ bản bao gồm các nhân tố mà ông cho rằng nó ảnh hưởng trực tiếp tới thái độ HNNN của KTV. Các nhân tố tác động bao gồm đặc điểm cá nhân, kiến thức, động cơ, sự xét đoán của KTV, hành động dựa trên thái độ HNNN.
Hurtt (2013) cùng các đồng nghiệp của mình đã mở rộng nghiên cứu của Nelson (2009). Họ nghiên cứu thực nghiệm đối với các công ty kiểm toán (CTKT) lớn ở Mỹ, Thụy Điển, Úc,… và đề xuất một mô hình mới bao gồm các nhân tố như đặc điểm của KTV, đặc điểm của khách hàng, đặc điểm của bằng chứng kiểm toán, đặc điểm của môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến thái độ HNNN.
Westermann (2014) công nhận quan điểm của Nelson (2009) và Hurtt (2013) về các nhân tố ảnh hưởng thái độ HNNN (mối quan hệ giữa đặc điểm cá nhân và môi trường bên ngoài). Mục tiêu của nghiên cứu là để mở rộng những nền tảng trước đây bằng cách đưa ra một cái nhìn đa dạng và sâu sắc hơn về trách nhiệm giải trình của KTV (Peecher, 2013) có thể thúc đẩy hoặc suy giảm HNNN của KTV.
Persellin (2014) thu thập quan điểm của KTV về khối lượng công việc hiện nay và mối liên hệ giữa khối lượng công việc, chất lượng kiểm toán (CLKT) và sự hài lòng trong công việc. Kết quả khảo sát cho thấy, chất lượng cuộc kiểm toán bắt đầu giảm sút khi mỗi tuần các KTV làm việc quá 5 giờ (so với mức qui định) và thực tế họ thường làm việc quá 20 giờ vào “mùa kiểm toán”.
Khi được hỏi về những tác động xấu của tình trạng quá tải khối lượng công việc, 34% người phản hồi đều cho rằng thái độ HNNN không được đảm bảo xuyên suốt cuộc kiểm toán.
Kim và Trotman (2014) chỉ ra rằng KTV có thái độ HNNN cao hơn khi họ được mong đợi để biện minh cho quá trình xét đoán của mình thay vì các xét đoán cuối cùng của họ. Ngoài ra, thái độ HNNN của KTV nhiều kinh nghiệm sẽ thấp hơn KTV có ít kinh nghiệm khi KTV phải chịu trách nhiệm giải trình.
Hawkins (2017) đã khẳng định KTV với mức hiện diện xã hội cao khi tương tác với khách hàng có ít hành động cụ thể xuất phát từ sự hoài nghi hơn những KTV với mức hiện diện xã hội thấp, hay có thể cho rằng thái độ HNNN ở mức thấp.
Các công trình nghiên cứu tại Việt Nam Phan Thanh Hải (2020) đã tìm hiểu về các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN và CLKT tại Việt Nam trên nền dữ liệu được cung cấp trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 6/2018 bởi 513 KTV. Thông qua kiểm tra hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha, phân tích nhân tố khám phá EFA, phân tích nhân tố khẳng định CFA trên phần mềm SPSS và kiểm định mô hình mạng trên phần mềm AMOS, kết quả cho thấy tính cách của KTV, thời gian và khối lượng công việc đều ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ HNNN. Thời gian và khối lượng công việc là hai nhân tố tác động thuận chiều và mạnh mẽ nhất đến tính
HNNN. Ngoài ra, các nhân tố: đặc điểm của bằng chứng kiểm toán, các biện pháp khuyến khích của CTKT, kiến thức và kinh nghiệm của KTV mặc dù có ảnh hưởng đến thái độ HNNN nhưng vẫn chưa đạt được mức độ tin cậy về ý nghĩa.
Nguyễn Vĩnh Khương (2020) cũng đã thực hiện nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN nhằm hướng đến CLKT tại CTKT Việt Nam trong khoảng thời gian từ tháng 10/2016 đến tháng 06/2019. Tác giả sử dụng mô hình nghiên cứu với dữ liệu thu thập từ 206 KTV đang làm việc tại các CTKT tại Việt Nam không phải là Big4.
Kết quả nghiên cứu định lượng cho thấy bốn nhân tố bao gồm Năng lực KTV, Đạo đức nghề nghiệp, Động lực cá nhân, Ảnh hưởng cấp trên có tác động thuận chiều đến thái độ HNNN của KTV.
Khoảng trống nghiên cứu
Từ những nghiên cứu nêu trên, nhóm tác giả cho rằng số lượng công trình nghiên cứu tại về các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN của KTV tại Việt Nam vẫn còn ít ỏi, chưa có nghiên cứu nào được thực hiện tại Hà Nội; hơn nữa; vẫn còn tồn tại mâu thuẫn giữa các kết quả nghiên cứu. Vì vậy, nghiên cứu này sẽ xác định và phân tích các nhân tố tác động đến thái độ HNNN của KTV và trợ lý kiểm toán đang hành nghề tại Hà Nội, Việt Nam.
2.2. Cơ sở lý thuyết
Thái độ HNNN là thái độ nghi vấn mà trong đó KTV phải duy trì khi đánh giá các bằng chứng kiểm toán. KTV sử dụng những kiến thức, kĩ năng và kinh nghiệm của mình để thực hiện việc thu thập và đánh giá bằng chứng một cách khách quan và trung thực (Hiệp hội Kế toán viên công chứng Hoa Kỳ- AICPA, 1997). Theo VSA 200, thái độ HNNN là thái độ luôn nghi vấn, cảnh giác đối với những tình huống cụ thể có thể là
dấu hiệu của sai sót do nhầm lẫn hay do gian lận, và đánh giá cẩn trọng đối với các bằng chứng kiểm toán (Bộ Tài chính, 2012).
Theo phần tổng quan các nghiên cứu, mô hình của Nelson (2009) đã phân ra các nhóm nhân tố có ảnh hưởng đến thái độ HNNN, đó là: đặc điểm, kiến thức và động cơ. Mô hình tiếp theo của Hurtt (2013) đã dựa trên Nelson (2009) và mở rộng hơn với bốn nhóm nhân tố là đặc điểm KTV, đặc điểm bằng chứng, đặc điểm khách hàng, và ảnh hưởng yếu tố bên ngoài. Tại Việt Nam, Nguyễn Vĩnh Khương (2020) và Phan Thanh Hải (2020) đã kế thừa và phân loại lại các nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN theo các chủ thể ảnh hưởng trực tiếp đến thái độ HNNN của KTV bao gồm đặc điểm KTV, CTKT, công ty khách hàng và nhân tố bên ngoài. Tuy nhiên, sau khi kiểm định giả thuyết, hai tác giả đều cho rằng nhân tố bên ngoài không có tác động đáng kể đến thái độ HNNN. Qua đó, nhóm tác giả đã quyết định nghiên cứu các nhân tố tiêu biểu thuộc ba nhóm nhân tố chính đó là đặc điểm KTV, CTKT và khách hàng.
Các nhân tố cụ thể trong ba nhóm nhân tố chính là: Năng lực; Đặc điểm cá nhân; Mối quan hệ giữa KTV với khách hàng; Áp lực thời gian; Phí kiểm toán.
Năng lực KTV được xác định thông qua việc có bằng đại học và có kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm thực tế, giá trị nghề nghiệp, đạo đức và thái độ nghề nghiệp (yêu cầu về năng lực KTV của Liên đoàn Kế toán Quốc tế- IFAC, 2006).
Đặc điểm cá nhân của KTV trong nghiên cứu này tập trung vào: sự cẩn thận, sự tự tin và đạo đức nghề nghiệp. Cẩn thận là sự tập trung vào một hành động hay một vấn đề, cân nhắc tất cả các yếu tố liên quan dù là nhỏ nhất để cho việc thực hiện hành động đó được chính xác và thành công nhất. Sự tự tin của một KTV có thể là tự tin vào các xét đoán trong việc thu thập thông tin và
bằng chứng kiểm toán hoặc có thể là tự tin trong việc đưa ra ý kiến kiểm toán dựa trên các bằng chứng đã thu thập được. Đạo đức nghề nghiệp là các chuẩn mực về nhận thức và hành vi phù hợp với đặc thù của từng lĩnh vực hoạt động nghề nghiệp do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền quy định.
Mối quan hệ của khách hàng có khả năng ảnh hưởng tới những quyết định của KTV cũng như thái độ HNNN của họ. Những nghiên cứu trước đây về mối quan hệ này chủ yếu tập trung vào xem xét sự gắn bó và nhận dạng khách hàng (nhận định của KTV về giá trị, mục tiêu của khách hàng).
Kết quả khi sự gắn bó với khách hàng ở mức độ tốt sẽ ảnh hưởng tới quá trình xét đoán và ra quyết định của KTV (Bamber và Iyer, 2007; Bauer, 2015). Những KTV có sự gắn kết lâu năm với khách hàng sẽ có thể bỏ qua hoặc chấp nhận những thủ thuật kế toán của khách hàng trên những vấn đề mang tính trọng yếu (Bamber và Iyer, 2007; Bauer, 2015).
Áp lực thời gian là khi KTV phải chịu áp lực để có thể hoàn thành nhiệm vụ kiểm toán theo quỹ thời gian đã dự toán (Maulina, 2010). Khi thời gian thay đổi đột ngột theo chiều hướng tiêu cực, KTV sẽ có xu hướng lấy kết quả từ các cuộc kiểm toán năm trước hoặc giảm bớt một số thủ tục kiểm toán để đẩy nhanh tiến độ. Việc này đồng thời sẽ làm giảm thái độ HNNN của KTV trước những rủi ro tiềm tàng (Low và Tan, 2011).
Phí kiểm toán có thể được hiểu là các khoản phí mà KTV được tính cho một quá trình kiểm toán. Asthana và Boone (2012) cho rằng phí kiểm toán giảm mạnh bất thường sẽ khiến xu hướng chấp nhận thỏa thuận với khách hàng về ý kiến kiểm toán tăng lên. Nghiên cứu của Jong-Hag Choi (2010) cho thấy tính độc lập của KTV, CLKT và thái độ HNNN của KTV bị ảnh hưởng bởi phí kiểm toán cao bất thường.
2.3. Mô hình nghiên cứu và xây dựng giả thuyết nghiên cứu
Dựa trên khung lý thuyết và những tổng hợp về các công trình nghiên cứu có liên quan, mô hình nghiên cứu được nhóm xây dựng gồm 5 nhân tố ảnh hưởng đến thái độ HNNN bao gồm: năng lực KTV; đặc điểm cá nhân KTV; mối quan hệ giữa KTV với khách hàng; áp lực thời gian; phí kiểm toán (Hình 1).
2.3.1. Năng lực kiểm toán viên
Xét riêng về từng khía cạnh của năng lực KTV (bao gồm kiến thức, kỹ năng, thái độ, đạo đức nghề nghiệp và kinh nghiệm làm việc), nhóm tác giả đề xuất giả thuyết H1:
Năng lực KTV tác động cùng chiều đến thái độ HNNN.
Về kỹ năng, kiến thức: Wood (2004) cho rằng kiến thức và kỹ năng cao sẽ làm tăng sự tự tin của một KTV; năng lực của KTV thông qua kiến thức và kỹ năng chuyên môn có thể cải thiện thái độ HNNN của họ.
Về thái độ, đạo đức: Enofe và cộng sự
(2015) đã chỉ ra rằng đạo đức nghề nghiệp đóng một vai trò quan trọng trong việc cải thiện thái độ HNNN của KTV. Một số nghiên cứu khác được thực hiện bởi Oktarini và Ramantha (2016), Winantyadi và Waluyo (2014) đều kết luận đạo đức có tác động thuận chiều đến thái độ HNNN của KTV.
Về kinh nghiệm: Anisme (2011), Silalahi (2013) và Putra (2017) đã chứng minh rằng số năm kinh nghiệm kiểm toán là một trong các nhân tố có thể làm tăng thái độ HNNN của một chuyên gia kiểm toán và KTV có nhiều kinh nghiệm hơn sẽ có khả năng cao hơn phát hiện ra gian lận trong BCTC so với KTV có ít kinh nghiệm.
2.3.2. Đặc điểm cá nhân kiểm toán viên Theo Hurtt (2010), một KTV có thái độ HNNN sẵn sàng đưa ra các xét đoán một cách cẩn thận, chậm rãi. Từ đó, dễ dàng nhận thấy được một KTV có đặc điểm cẩn thận trong công việc sẽ luôn đặt câu hỏi hoặc cân nhắc đối với mọi tình huống xảy ra, chứng tỏ rằng KTV càng cẩn thận Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
thì càng có thái độ HNNN cao. Do đó, giả thuyết H2: Đặc điểm cá nhân của KTV tác động cùng chiều đến thái độ HNNN.
2.3.3. Mối quan hệ giữa kiểm toán viên với khách hàng
Một số nghiên cứu trước về “Mối quan hệ giữa KTV với khách hàng” đã kết luận tác động ngược chiều của mối quan hệ này đến thái độ HNNN. Gần đây, nghiên cứu của Bauer (2015) đã xem xét mối quan hệ này tác động đến khả năng xét đoán của KTV và kết luận rằng nếu có mối quan hệ thân thiết với khách hàng và không có bất cứ tác động nào sẽ giúp KTV và khách hàng tiếp tục duy trì hợp đồng. Do đó, sự gắn bó với khách hàng có xu hướng làm giảm thái độ HNNN. Từ đó, giả thuyết H3: Mối quan hệ giữa KTV với khách hàng có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN.
2.3.4. Áp lực thời gian
Áp lực phải hoàn thành công việc trong thời gian nhất định khiến KTV phải cân bằng giữa mục tiêu hiệu quả và hiệu lực.
Theo công bố gần đây, Said và Munandar (2018) cho thấy áp lực thời gian càng cao thì việc duy trì thái độ HNNN trong việc phát hiện ra các gian lận càng giảm. Yustina và Gonadi (2019) chỉ ra rằng thời gian có tác động trực tiếp và ngược chiều đến thái độ HNNN. Vì vậy, giả thuyết đưa ra là H4:
Áp lực thời gian có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN.
2.3.5. Phí kiểm toán
Kể từ khi bắt đầu xuất hiện loại hình kiểm toán độc lập, nhiều nhà đầu tư, cơ quan quản lý và các nhà nghiên cứu đã cho rằng KTV khó có thể thực sự độc lập với khách hàng của họ (McGarry, 2012). Vì vậy, phí kiểm toán có thể sẽ ảnh hưởng đến thái độ HNNN của KTV khi thực hiện kiểm toán.
Theo Enofe (2015), phí kiểm toán được
phát hiện có mối quan hệ ngược chiều đáng kể với thái độ HNNN của KTV. Do đó, giả thuyết H5: Phí kiểm toán có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN.
3. Phương pháp nghiên cứu và mô tả mẫu khảo sát
3.1. Phương pháp nghiên cứu định tính Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn các chuyên gia có kinh nghiệm nhiều năm trong lĩnh vực kiểm toán tại Việt Nam. Cụ thể, nhóm sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc với nội dung mang tính chất thăm dò, gợi mở nhằm khám phá ra các nhân tố mới và phương pháp phỏng vấn sâu có cấu trúc để đánh giá tính phù hợp của thang đo nhằm chỉnh sửa lại câu từ, ngữ nghĩa của các câu hỏi sao cho dễ hiểu và phù hợp với bối cảnh kiểm toán tại Việt Nam.
Đối tượng phỏng vấn: Nhóm tác giả đã tiến hành phỏng vấn với 5 giảng viên và nghiên cứu sinh nghiên cứu về kiểm toán và 4 KTV đã và đang tham gia kiểm toán BCTC tại thành phố Hà Nội trong khoảng thời gian từ tháng 12/2020 đến tháng 01/2021.
Quá trình phỏng vấn sẽ kết thúc khi nhóm không thu thập được thêm thông tin mới có giá trị nào nữa, tức là đã bão hòa lý thuyết (V. Bitsch, 2005).
3.2. Phương pháp nghiên cứu định lượng Trên cơ sở thu thập các ý kiến đóng góp, nhóm tác giả đã xây dựng bảng hỏi hoàn chỉnh cho khảo sát định lượng. Bảng hỏi được thiết kế dạng đóng với thang đo Likert 5 cấp độ, yêu cầu người trả lời đưa ra quan điểm của họ về những nhân tố này từ 1-
“Hoàn toàn không đồng ý” đến 5 - “Hoàn toàn đồng ý”.
Dựa trên bảng hỏi khảo sát đã được xây
dựng và điều chỉnh sau khi phỏng vấn các chuyên gia, nhóm tác giả đã tiến hành nghiên cứu định lượng sơ bộ - khảo sát thử nghiệm đối với nhóm 5 KTV đang công tác tại một CTKT trên địa bàn thành phố Hà Nội nhằm mục đích kiểm tra độ tin cậy của thang đo đã thiết kế.
Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 01/2021 đến tháng 3/2021, nhóm tác giả đã thực hiện phương pháp nghiên cứu định lượng chính thức - khảo sát trực tuyến (thông qua công cụ Google Forms) để đánh giá sự phù hợp và ý nghĩa của mô hình, giả thuyết nhằm đo lường mối quan hệ giữa các nhân tố. Cỡ mẫu trong bước này là n = 163. Quá trình phân tích và xử lý được thực hiện trên phần mềm SPSS 26.0.
3.3. Mô tả về mẫu khảo sát
Đối tượng được khảo sát của nghiên cứu là các trợ lý kiểm toán/KTV đã và đang hành nghề trên địa bàn thành phố Hà Nội. Dữ liệu thu về cho thấy có 55 người thuộc giới tính nam, 108 người thuộc giới tính nữ, lần lượt tương ứng chiếm 33,7%, 66,3% trên tổng số 163 mẫu nghiên cứu. Về độ tuổi, các phiếu khảo sát thu thập được cho thấy cơ cấu mẫu tương đối đa dạng, mức tuổi trung bình của mẫu là 24,8 tuổi, độ tuổi thấp nhất của đối tượng là 23, cao nhất là 36 tuổi. Độ tuổi từ 23 đến dưới 26 tuổi chiếm tỷ trọng cao nhất với 75,5%, theo sau đó là nhóm có độ tuổi từ 26 đến dưới 30 tuổi chiếm 20,2% và nhóm từ 30 trở lên chiếm khá thấp (4,3%). Ngoài ra, số người tham gia khảo sát hiện đang làm việc tại công ty Big4 và không phải Big4 lần lượt là 35 và 128 người, chiếm tương ứng 21,5% và 78,5% trong tổng số phản hồi. Phần lớn họ đều có dưới 2 năm kinh nghiệm trong kiểm toán BCTC (74,2%).
4. Kết quả nghiên cứu
Kiểm định độ tin cậy của thang đo Kết quả kiểm định cho thấy tất cả các giá trị Cronbach’s Alpha đều lớn hơn 0,7 tức là các thang đo này đều sử dụng tốt. Tất cả các giá trị tương quan biến tổng đều đạt yêu cầu ≥ 0,3, các thang đo đều đảm bảo độ tin cậy, các đo lường có liên kết với nhau và đóng góp cho sự mô tả chung các nhân tố. Ngoài ra, không có hệ số Cronbach’s Alpha nào lớn hơn 0,95 cho nên không xảy ra hiện tượng đa cộng tuyến. Vì vậy, các nhóm nhân tố đạt đủ điều kiện để dùng cho bước phân tích tiếp theo.
Kiểm định giá trị của các biến (phân tích nhân tố khám phá EFA)
Trong lần đầu tiên phân tích EFA nhóm tác giả đã tiến hành loại biến quan sát DD3 (do biến quan sát này nằm sai nhóm). Sau đó, nhóm tiến hành thực hiện phân tích nhân tố EFA lần 2.
Kết quả phân tích nhân tố EFA sau khi đã loại bỏ biến quan sát DD3:
- Hệ số 0,5 ≤ KMO = 0,787 ≤ 1 cho thấy việc phân tích các nhân tố là thích hợp. Kiểm định Bartlett cho kết quả là 1.590,469 với Sig.= 0,000 < 0,05 có ý nghĩa thống kê và các biến quan sát có tương quan với nhau trong nhân tố và tổng thể.
- Ngoài ra, từ bảng phân tích có thể thấy được rằng các hệ số tải nhân tố (Factor Loading) đều trên mức 0,5 và giá trị hệ số hội tụ Eigenvalues của các nhân tố này đều lớn hơn 1 cho thấy rằng các biến quan sát có mối quan hệ với nhân tố gốc.
- Tổng phương sai trích của 5 nhóm nhân tố = 71,068% ≥ 50% cho thấy rằng mô hình EFA là phù hợp và 71,068% sự thay đổi của các nhân tố được giải thích bởi các biến quan sát.
Từ bảng tổng hợp trên nhóm tác giả nhận thấy rằng các biến quan sát của thái độ HNNN cho kết quả tốt: Các hệ số tải nhân tố đều thỏa mãn > 0,5 các biến quan sát đều tải về nhân tố. Kết quả của phân tích có sự
Bảng 1. Tổng hợp các biến quan sát đo lường chính thức
Ký hiệu Biến quan sát Nguồn
NL Năng lực của kiểm toán viên
NL1 Tôi am hiểu rõ về chuẩn mực kế toán, kiểm toán Trần Tú Uyên (2020)
NL2 Tôi có khả năng đánh giá rủi ro
NL3 Tôi cập nhật kiến thức tại hội nghề nghiệp đủ số giờ quy định
trở lên Lê Đoàn Minh Đức
(2019) NL4 Tôi có kinh nghiệm và kiến thức chuyên sâu khi thực hiện kiểm
toán cho một số ngành nghề cụ thể DD Đặc điểm cá nhân
DD1 Tôi tự tin vào quyết định vào bản thân
Hurtt (2010) DD2 Tôi thường xuyên đưa ra sự nghi vấn về những điều tôi nhìn
thấy hoặc nghe thấy
DD3 Tôi không muốn đưa ra quyết định cho đến khi tìm thấy tất cả những bằng chứng được cho là phù hợp
DD4 Tôi luôn giữ tính chính trực và khách quan trong mọi cuộc kiểm
toán Nguyễn Vĩnh
Khương (2020) DD5 Tôi tuân thủ những bí mật nghề nghiệp O. M. Ali và A.
Nesrine (2015) KH Mối quan hệ giữa kiểm toán viên với khách hàng
KH1 Tôi cảm thấy khó chịu khi ai đó chỉ trích khách hàng của mình
E. M. Bamber và V.M. Iyer (2007) KH2 Tôi cảm thấy như được khen khi ai đó khen ngợi khách hàng
của mình
KH3 Tôi quan tâm đến suy nghĩ của mọi người về khách hàng của mình
KH4 Tôi cảm thấy thành công của khách hàng chính là thành công của bản thân
TG Áp lực thời gian
TG1 Tôi luôn phải đưa ra quyết định một cách nhanh chóng A. Yustina và S.
Gonadi (2019) TG2 Tôi bị ép buộc làm việc liên tục dưới áp lực của thời gian
TG3 Trong cuộc kiểm toán, tôi không đủ thời gian để giải quyết tất cả
các nghi vấn L. L. Said và A.
Munandar (2018) FE Phí kiểm toán
FE1
Khoản phí mà khách hàng trả cho kiểm toán viên có thể tạo ra mối ràng buộc kinh tế giữa kiểm toán viên và khách hàng, điều này có thể làm giảm tính độc lập và tính tò mò của kiểm toán viên
Enofe (2015) FE2 Mức độ dò xét của kiểm toán viên có thể bị giảm để duy trì mối
quan hệ với khách hàng trả phí kiểm toán rất cao
FE3 Ảnh hưởng của phí kiểm toán đối với thái độ hoài nghi nghề nghiệp chịu tác động bởi quy mô CTKT (Big4 và không phải Big4)
HN Thái độ hoài nghi nghề nghiệp
HN1 Tôi có xu hướng tìm kiếm thêm thông tin để cải thiện việc ra
quyết định trong trường hợp nghi ngờ có sai sót Robinson và cộng sự (2018)
tin cậy cao với hệ số 0,5 ≤ KMO= 0,748 ≤ 1 và Sig.= 0,000 < 0,05. Giá trị hệ số hội tụ Eigenvalue= 2,323 thỏa mãn lớn hơn 1 và tổng phương sai trích = 58,069% cho thấy 58,069% sự thay đổi của nhân tố này được giải thích bởi các biến quan sát. Có thể kết luận rằng nhân tố “Thái độ HNNN”
có khả năng đại diện cho các biến khảo sát ban đầu.
Kiểm định giả thuyết ban đầu
Giả thuyết H1 Năng lực của KTV tác động
cùng chiều đến thái độ HNNN. Kết quả nghiên cứu chỉ ra mối quan hệ giữa Năng lực của KTV và thái độ HNNN của KTV trên địa bàn thành phố Hà Nội có hệ số Beta= 0,510 với mức ý nghĩa thống kê Sig=
0,000< 0,05. Do đó chấp nhận giả thuyết H1. Qua đó có thể thấy Năng lực của KTV ảnh hưởng cùng chiều đến thái độ HNNN của KTV trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Mức độ ảnh hưởng tương đối lớn so với các nhân tố khác, hàm ý rằng tác động của nhân tố năng lực quan trọng hơn so với các yếu tố còn lại.
Giả thuyết H2 Đặc điểm cá nhân của KTV tác động cùng chiều đến thái độ HNNN.
Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy hệ số Beta= 0,163, mức ý nghĩa Sig= 0,011 <
0,05. Do đó giả thuyết H2 được chấp nhận.
Ký hiệu Biến quan sát Nguồn
HN2 Tôi luôn giữ tư cách nghề nghiệp của bản thân Nguyễn Vĩnh Khương (2020) HN3 Tôi luôn cảm thấy rằng việc thu thập thêm bằng chứng thích
hợp sẽ cho tôi cơ hội tốt hơn để đưa ra kết luận chính xác cho vụ việc
Robinson và cộng sự (2018)
HN4 Trong mọi cuộc kiểm toán, tôi dành nhiều thời gian hơn cho việc ra quyết định
Robinson và cộng sự (2018), Hurtt (2010)
Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp Bảng 2. Thống kê mẫu được khảo sát
Chỉ tiêu Số lượng
(người) Tỷ lệ (%)
Giới tính 163 100
Nam 55 33,7
Nữ 108 66,3
Kinh nghiệm làm
việc 163 100
Dưới 2 năm 121 74,2
Từ 2 năm đến dưới
5 năm 27 16,6
Từ 5 năm trở lên 15 9,2
Độ tuổi (tuổi) 163 100
Từ 23 đến dưới 26 123 75,5 Từ 26 đến dưới 30 33 20,2 Từ 26 đến dưới 30 7 4,3
Công ty làm việc 163 100
Big4 35 21,5
Không phải Big4 128 78,5 Nguồn: Nhóm tác giả tự tổng hợp
Bảng 3. Tổng hợp hệ số Cronbach’s Alpha các nhóm nhân tố
Nhóm nhân tố Ký hiệu Hệ số Cronbach’s
Alpha
Năng lực KTV NL 0,816
Đặc điểm cá nhân
KTV DD 0,738
Mối quan hệ giữa
KTV với khách hàng KH 0,860
Áp lực thời gian TG 0,887
Phí kiểm toán FE 0,875
Thái độ HNNN HN 0,756
Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dữ liệu bằng SPSS 26 và tổng hợp lại
Từ đó có thể kết luận rằng Đặc điểm cá nhân của KTV tác động cùng chiều đến thái độ HNNN của KTV trên địa bàn thành phố Hà Nội. Điều này chứng tỏ các đặc điểm cá nhân của một KTV như sự tự tin, tính cẩn thận và tư cách đạo đức càng tốt thì thái độ hoài nghi sẽ có xu hướng tăng.
Giả thuyết H3 Mối quan hệ giữa KTV với khách hàng có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN. Kết quả kiểm định giả thuyết cho thấy hệ số Beta= - 0,132 với mức ý nghĩa thống kê Sig= 0,033 < 0,05. Vậy nên giả thuyết H3 được chấp nhận. Điều đó
thể hiện rằng quan hệ giữa KTV với khách hàng càng mạnh thì thái độ HNNN của họ càng có xu hướng giảm.
Giả thuyết H4 Áp lực thời gian có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN. Kết quả kiểm định mối quan hệ giữa áp lực thời gian và thái độ HNNN cho thấy hệ số Beta= -0,153 với mức ý nghĩa thống kê Sig= 0,015 < 0,05. Do đó giả thuyết H4 được chấp nhận. Điều này đã chỉ ra, áp lực thời gian của cuộc kiểm toán càng lớn thì sẽ có tác động không tốt đến thái độ HNNN của KTV.
Bảng 4. Tổng hợp các hệ số phân tích nhân tố EFA của biến độc lập sau khi điều chỉnh
Biến quan sát Nhóm nhân tố
1 2 3 4 5
KH3 ,899
KH2 ,783
KH4 ,765
KH1 ,762
NL2 ,793
NL4 ,765
NL3 ,717
NL1 ,680
TG1 ,898
TG2 ,837
TG3 ,816
FE2 ,909
FE1 ,875
FE3 ,873
DD4 ,760
DD5 ,727
DD2 ,679
DD1 ,637
Eigenvalue 5,515 3,074 1,722 1,372 1,109
Tổng phương
sai trích 71,068 %
KMO = 0,787 Sig = 0,000
Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dữ liệu bằng SPSS 26 và tổng hợp lại
Nhân tố mức phí kiểm toán bị loại bỏ khi kiểm định hệ số tương quan. Do đó, giả thuyết H5 Phí kiểm toán có tác động ngược chiều đến thái độ HNNN không được xem xét đến trong mô hình.
5. Kết luận và hàm ý 5.1. Kết luận
Kết quả nghiên cứu cho thấy các giả thuyết nghiên cứu sau được chấp nhận: Năng lực KTV tác động cùng chiều đến thái độ HNNN của KTV; Đặc điểm cá nhân tác động cùng chiều đến thái độ HNNN của
KTV; Mối quan hệ giữa KTV và khách hàng tác động ngược chiều đến thái độ HNNN của KTV; Áp lực thời gian tác động ngược chiều đến thái độ HNNN của KTV.
5.2. Hàm ý và chính sách
- Đối với KTV/Nhóm kiểm toán
Thứ nhất, đảm bảo KTV duy trì thái độ HNNN hợp lý trong suốt cuộc kiểm toán.
Các trưởng nhóm kiểm toán cần có các giám sát kịp thời và thích hợp. Thứ hai, KTV phải luôn tập trung cao độ và tuân theo các chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp,
các quy định của pháp luật. KTV cần tham gia vào các lớp đào tạo bồi dưỡng do Bộ Tài Chính, Hội nghề nghiệp tổ chức. Thứ ba, KTV/Nhóm kiểm toán cần có ý thức nâng cao kiến thức nghề nghiệp nhằm duy trì sự uy tín nghề nghiệp của mình cũng như của CTKT.
- Đối với CTKT
Thứ nhất, xây dựng chính sách tuyển dụng phù hợp, đưa ra các yêu cầu về thái độ HNNN phù hợp với công ty. Trong quá trình tuyển dụng, các CTKT cần phải nêu rõ tầm quan trọng của các đặc điểm thái độ HNNN với chọn lọc những ứng cử viên có thái độ HNNN phù hợp với chính sách của Bảng 5. Kết quả phân tích nhân tố EFA
biến phụ thuộc
Biến quan sát Hệ số tải
HN1 0,792
HN2 0,790
HN3 0,782
HN4 0,677
Phương sai trích 58,069%
Eigenvalue 2,323
KMO 0,748
Sig. 0,000
Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dữ liệu bằng SPSS 26 và tổng hợp lại
Bảng 6. Kết quả kiểm định giả thuyết
Mã Giả thuyết Hệ số hồi
quy Mức ý
nghĩa Kết luận H1 Năng lực của KTV tác động cùng chiều đến thái
độ HNNN 0,510 0,000 Chấp nhận
H2 Đặc điểm cá nhân của KTV tác động cùng chiều
đến thái độ HNNN 0,163 0,011 Chấp nhận
H3 Mối quan hệ giữa KTV với khách hàng có tác
động ngược chiều đến thái độ HNNN -0,132 0,033 Chấp nhận H4 Áp lực thời gian có tác động ngược chiều đến thái
độ HNNN -0,153 0,015 Chấp nhận
H5 Phí kiểm toán có tác động ngược chiều đến thái
độ HNNN Loại bỏ từ bước kiểm định hệ số
tương quan
Nguồn: Nhóm tác giả phân tích dữ liệu bằng SPSS 26 và tổng hợp lại
công ty.
Hai là, cải thiện điều kiện làm việc của KTV. CTKT phải đưa ra các phương pháp kiểm toán thích hợp, các biện pháp giúp KTV đem lại hiệu quả như phương pháp kiểm toán chuyên sâu theo hướng tiếp cận rủi ro sẽ cần sự hỗ trợ từ hiệp hội (như VACPA).
Ba là, khuyến khích KTV đạt được các chứng chỉ nghề nghiệp quốc tế. Việc có được chứng chỉ hành nghề giúp cho KTV nâng cao kiến thức, trình độ chuyên môn từ đó duy trì được thái độ HNNN thích hợp trong cuộc kiểm toán.
Bốn là, đào tạo và hỗ trợ cho KTV tham gia các khóa đào tạo nâng cao trình độ. CTKT nên thường xuyên tổ chức các lớp đào tạo bồi dưỡng hoặc tạo điều kiện để KTV tham gia vào các lớp đào tạo bồi dưỡng do Bộ Tài chính, Hiệp hội nghề nghiệp tổ chức để KTV liên tục bổ sung kiến thức chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, luật và các quy định có liên quan.
Năm là, xây dựng quy trình đánh giá kết quả làm việc của KTV. CTKT nên có các quy trình đánh giá kết quả làm việc. Đảm bảo nhân viên hiểu rằng thái độ HNNN cần được nhấn mạnh trong quá trình đánh giá kết quả hoạt động cũng như ảnh hưởng đến những chính sách khuyến khích nhân viên.
- Đối với Bộ Tài chính:
Cần tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động kiểm toán độc lập và thực hiện công tác kiểm soát chất lượng từ bên ngoài các CTKT Việt Nam nhằm ngày càng làm tăng CLKT. Phối hợp cùng với Ủy ban chứng khoán Nhà nước cũng như Hội nghề nghiệp (VACPA) để thực hiện công tác kiểm soát chất lượng từ bên ngoài đối với hoạt động kiểm toán độc lập có hiệu quả tốt hơn.
- Đối với Hội nghề nghiệp - VACPA:
VACPA tiếp tục cập nhật kiến thức mới, nâng cao chất lượng dịch vụ đào tạo hơn
nữa để KTV có thể hiểu rõ bản chất thái độ HNNN.
- Đối với sinh viên:
Các sinh viên ngành kiểm toán nên nhận thức được tầm quan trọng của thái độ HNNN thông qua các buổi học ngay khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Đối với sinh viên, việc rèn luyện thái độ HNNN là rất khó bởi trường đại học không phải là một môi trường làm việc thực tế. Vì vậy, sinh viên nên chủ động cập nhật các thông tin về kinh tế- xã hội và đồng thời tích cực tham gia các khóa học đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ kế toán- kiểm toán trong thực tế để có thể củng cố nền tảng cho công việc sau này.
5.3. Hạn chế nghiên cứu
Thứ nhất, mẫu nghiên cứu định tính có thể chưa mang tính chất đại diện cho tổng thể và có thể bỏ sót các nhân tố ảnh hưởng tới thái độ HNNN của KTV khi tham gia kiểm toán BCTC. Thứ hai, về mẫu nghiên cứu định lượng, nhóm thực hiện khảo sát trực tuyến, số lượng phản hồi còn chưa cao.
Thứ ba, mối tương quan giữa nhân tố FE và HN là không có ý nghĩa. Mô hình hồi quy giải thích được 55,9% sự biến động của biến phụ thuộc, tỷ lệ này cho thấy vẫn còn nhiều yếu tố khác có ảnh hưởng đến thái độ HNNN của KTV mà mô hình chưa giải thích được.
5.4. Hướng nghiên cứu trong tương lai Thứ nhất, các nghiên cứu sau nên cẩn trọng khi lựa chọn mẫu khảo sát, nên chọn mẫu có tính đại diện, tính khách quan hơn và có thể tạo ra các câu hỏi bẫy để dễ dàng loại bỏ các khảo sát làm nhiễu kết quả. Thứ hai, kết hợp nghiên cứu định tính và định lượng trong một nghiên cứu có điều kiện thời gian cũng như điều kiện không gian lớn hơn. ■
Tài liệu tham khảo
Ali, O. & Nesrine, A. (2015), ‘Factors Affecting Auditor Independence in Tunisia: The Perceptions of Financial Analysts’, Journal of Finance and Accounting, 3(3). 42-49.
American Institute of Certified Public Accountants, (1997), Due Care in the Performance of Work. Statement on Auditing Standards No. 1, New York.
Anisme, Y., Abidin, Z. & Cristina (2011). ‘Faktor yang Mempengaruhi Sikap Skeptisme Profesional Seorang Auditor pada Kantor Akuntan Publik di Sumatera’, Pekbis, 3(2). 490–497.
Asthana, S.C. & Boone, J.P. (2012), ‘Abnormal Audit Fee and Audit Quality’, AUDITING: A Journal of Practice &
Theory, 31(3). 1–22.
Bamber, E.M. & Iyer, V.M. (2007), ‘Auditors’ Identification with Their Clients and Its Effect on Auditors’ Objectivity’, AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 26(2). 1–24.
Bauer, T.D. (2015), ‘The Effects of Client Identity Strength and Professional Identity Salience on Auditor Judgments’, The Accounting Review, 90(1). 95–114.
Bitsch, V. (2005), ‘Qualitative Research: A Grounded Theory Example and Evaluation Criteria’, Journal of Agribusiness, 23. 75-91.
Bộ Tài chính, (2012), Thông tư 214/2012/TT-BTC ban hành ngày 06/12/2012 về hệ thống chuẩn mực kiểm toán Việt Brazel, J. F., Jackson, S. B., Schaefer, T. J. & Stewart, B. W. (2016), ‘The Outcome Effect and Professional Nam.
Skepticism’, The Accounting Review, 91(6).
Choi, J.-H., Kim, J.-B. & Zang, Y. (2010), ‘Do Abnormally High Audit Fees Impair Audit Quality?’, AUDITING: A Journal of Practice & Theory, 29(2). 115–140.
Enofe, A.O., Ukpebor, I. & Ogbomo, N. (2015), ‘The Effect Of Accounting Ethics In Improving Auditor Professional Skepticism’, International Journal of Advanced Academic Research – Social Sciences and Education, 1(2).
Hawkins, E.M. (2017), ‘When Auditors’ Skeptical Judgments do not lead to Skeptical Actions’, doctoral dissertation, retrieved on April 24th 2021, from < https://scholarcommons.sc.edu/etd/4281 >.
Hurtt, R.K. (2010), ‘Development of a scale to measure professional skepticism. Auditing: A Journal of Practice &
Theory’, 29(1). 149-171.
Hurtt, R.K., Brown-Liburd, H., Earley, C.E. & Krishnamoorthy, G. (2013), ‘Research on Auditor Professional Skepticism: Literature Synthesis and Opportunities for Future Research’, AUDITING: A Journal of Practice &
Theory, 32(1). 45-97.
IFAC, (2006), Basis for Conclusions: IES 8 - Competence Requirements for Audit Professionals.
Kim, S., & Trotman, K.T. (2014), ‘The comparative effect of process and outcome accountability in enhancing professional scepticism’, Accounting & Finance, 55(4). 1015–1040.
Lê Đoàn Minh Đức (2019), ‘Các nhân tố tác động đến tính độc lập của kiểm toán viên- Nghiên cứu trong kiểm toán báo cáo tài chính tại Việt Nam’, luận án tiến sĩ, thành phố Hồ Chí Minh.
Low, K.Y. & Tan, H.T. (2011), ‘Does time constraint lead to poorer audit performance? Effects of forewarning of impending time constraints and instructions’, Auditing: A Journal of Practice & Theory, 30(4). 173-190.
Maulina, M., Anggraini, R. & Anwar, C. (2010), ‘Pengaruh Tekanan Waktu dan Tindakan Supervisi terhadap Penghentian Prematur atas Prosedur Audit’, Simposium Nasional Akuntansi XIII, Purwokerto, Indonesia.
McGarry, D. (2012), ‘Independence, Professional Skepticism, and the Financial Statement Audit’, Spring report 2012.
Nelson, M.W. (2009), ‘A model and literature review of professional skepticism in auditing. AUDITING: A Journal of Practice & Theory’, 28(2). 1-34.
Nguyễn Thị Phước (2018), ‘Thái độ hoài nghi nghề nghiệp của kiểm toán viên’, Tạp chí kế toán kiểm toán.
Nguyễn Vĩnh Khương (2020), ‘Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Thái Độ Hoài Nghi Nghề Nghiệp Hướng Đến Chất Lượng Kiểm Toán: Nghiên Cứu Tại Việt Nam’, luận án tiến sĩ, thành phố Hồ Chí Minh.
Oktarini, K. & Ramantha, I.W. (2016), ‘Pengaruh pengalaman kerja dan kepatuhan terhadap kode etik pada kualitas audit melalui skeptisisme profesional auditor’, E-Jurnal Akuntansi Universitas Udayana.
Peecher, M.E., Solomon, I. & Trotman, K.T. (2013), ‘An accountability framework for financial statement auditors and related research questions’, Accounting, Organizations and Society, 38(8). 596–620.
Persellin, J., Schmidt, J.J. & Wilkins, M.S. (2014), ‘Auditor Perceptions of Audit Workloads, Audit Quality, and the Auditing Profession’, SSRN Electronic Journal.
Phan Thanh Hai, Le Duc Toan, Nguyen Le Dinh Quy & Nguyen Thanh Tung (2020), ‘Research Factors Affecting Professional Skepticism and Audit Quality: Evidence in Vietnam’, International Journal of Innovation, Creativity and Change, 13(1).
Putra, P.T.A.S. (2017), ‘Pengalaman Auditor Aparat Pengawas Intern Pemerintah (APIP) Terhadap Pendeteksian Fraud Dengan Skeptisisme Profesional Sebagai Variabel Intervening Pada Perwakilan BPKP Provinsi
Kepulauan RIAU’, Coopetition, 3(1). 67–83.
Quadackers, L., Groot, T. & Wright, A. (2014), ‘Auditors’ Professional Skepticism: Neutrality versus Presumptive Doubt’, Contemporary Accounting Research, 31. 639–657.
Robinson, S.N., Curtis, M.B. & Robertson, J.C. (2018), ‘Disentangling the trait and state components of professional skepticism: Specifying a process for state scale development’, Auditing: A Journal of Practice and Theory, 37(1).
215-235.
Said, L.L., Munandar, A. (2018), ‘The influence of auditor’s professional skepticism and competence on fraud detection: The role of time budget pressure’, Jurnal Akuntansi dan Keuangan Indonesia, 15(1). 104-120.
Silalahi, S.P. (2013), ‘Pengaruh etika, kompetensi, pengalaman audit dan risiko audit terhadap skeptisisme Profesional Auditor’, Jurnal Ekonomi, 21(3).
Tran Tu Uyen (2020), ‘Factors Affecting the Audit Quality of Financial Statements of Listed Businesses’, VNU Journal of Science: Economics and Business, 36(1). 34-48
U.S. Securities and Exchange Commission (2013), SEC Charges Two KPMG Auditors for Failed Audit of Nebraska Bank Hiding Loan Losses During Financial Crisis, retrieved on April 13th 2021, from <https://www.sec.gov/
news/press-release/2013-2013-2htm>.
Westermann, K., Cohen, J. & Trompeter, G. (2014), ‘The influence of accountability on professional skepticism’, Working Paper, Florida International University, Boston College and University of Central Florida.
Winantyadi, N. & Waluyo, I. (2014), ‘Pengaruh pengalaman, keahlian, situasi audit, dan etika terhadap skeptisisme profesional auditor (Studi kasus pada KAP di Provinsi Daerah Istimewa Yogyakarta)’, Jurnal Nominal, 3(1).
Wood, David, A. (2004), ‘Increasing value through internal and external auditor coordination’, The IIA Research Foundation.
Yustina, A.I., Gonadi, S.A. (2019), ‘The Negative Effect of Time Budget Pressure to Auditor Independence and Professional Skepticism’, Jurnal Akuntansi dan Keuangan, 21(1). 38-48.