• Tidak ada hasil yang ditemukan

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN IIIB ĐẠT ĐƯỢC ĐÁP ỨNG HOÀN TOÀN SAU HÓA XẠ TRỊ VÀ ĐIỀU TRỊ CỦNG CỐ VỚI DURVALUMAB

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN IIIB ĐẠT ĐƯỢC ĐÁP ỨNG HOÀN TOÀN SAU HÓA XẠ TRỊ VÀ ĐIỀU TRỊ CỦNG CỐ VỚI DURVALUMAB"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢP UNG THƯ PHỔI GIAI ĐOẠN IIIB ĐẠT ĐƯỢC ĐÁP ỨNG HOÀN TOÀN SAU HÓA XẠ TRỊ

VÀ ĐIỀU TRỊ CỦNG CỐ VỚI DURVALUMAB

Bùi Lê Phước Thu Thảo1, Lê Tấn Đạt1, Fernando Martinez2, Tô Kim Sang1, Đoàn Thái Cang1

TÓM TẮT17

Bài viết này chúng tôi xin chia sẻ ca lâm sàng bệnh nhân nam 51 tuổi ung thư phổi giai đoạn IIIB không mổ được, đã được điều trị bằng hóa xạ trị đồng thời và điều trị củng cố với nhóm thuốc ức chế PD-L1 durvalumab. Trong quá trình điều trị bệnh nhân dung nạp điều trị tốt, các độc tính điều trị chỉ ở độ 1 và 2. Sau khi kết thúc liệu trình điều trị bệnh nhân được đánh giá lại bằng PET CT scan và ghi nhận đạt được đáp ứng hoàn toàn. Số bệnh nhân đạt được đáp ứng hoàn toàn sau điều trị ung thư phổi giai đoạn rất ít gặp theo các mô tả từ các nghiên cứu của các tác giả trước đây. Chúng tôi cũng xem lại y văn về điều trị hiện hành dành cho ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được.

SUMMARY

DURVALUMAB AFTER

CHEMORADIOTHERAPY IN STAGE III NON-SMALL-CELL LUNG

CANCER:

1Bác sĩ điều trị Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Đa khoa Quốc Tế Vinmec Central Park

2Giám đốc Y khoa Trung tâm Ung Bướu Bệnh viện Đa khoa Quốc Tế Vinmec Central Park Chịu trách nhiệm chính: Bùi Lê Phước Thu Thảo Email: [email protected]

Ngày nhận bài: 25/9/2022 Ngày phản biện: 30/9/2022

A CASE REPORT WITH COMPLETE RESPOND AFTER TREATMENT Here, we present the case of a 51-year-old man with unresectable non-small-cell lung cancer stage IIIB who recieved concurrent chemoradiotherapy and PD-L1 inhibitor durvalumab. The patient had tolerated the treatment well with grade 1 - 2 treatment toxicities were seen. Post-treatment evaluation was done by PET-CT scan confirmed that the patient had got the complete respond. There was few patient who had complete respond after treatment was described in previous trials. We also reviewed medical literature and updated the current standard treatment for unresectable non- small-cell lung cancer stage III.

I. GIỚI THIỆU

Ung thư phổi là ung thư thường gặp hàng đầu và cũng là loại ung thư gây tử vong hàng đầu. 50 - 60% ung thư phổi mới chẩn đoán ở giai đoạn tiến triển tại chỗ - tại vùng hoặc di căn xa. Trong đó ung thư phổi không tế bào nhỏ chiếm đa số, phần còn lại là ung thư phổi tế bào nhỏ. Trong bài viết này chúng tôi xin phép chỉ trình bày về ung thư phổi không tế bào nhỏ.

Điều trị phẫu thuật kết hợp với hóa và xạ trị là điều trị có thể trị khỏi dành cho ung thư phổi. Đáng tiếc là chỉ khoảng 15 - 20% bệnh nhân ung thư phổi mới chẩn đoán có thể phẫu thuật được. Do đó vai trò của kết hợp

(2)

điều trị toàn thân và xạ trị càng trở nên rõ rệt đối với điều trị ung thư phổi.

Đối với ung thư phổi giai đoạn III không thể phẫu thuật được. Các nghiên cứu đã cho thấy kết hợp hóa xạ trị cho kết quả tốt hơn xạ trị đơn thuần. Trong đó hóa xạ trị đồng thời được xem là điều trị tiêu chuẩn đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được. Thế nhưng kết quả khi phối hợp hóa xạ trị đến thời điểm này cũng không thực sự khả quan. Chỉ khoảng 15% bệnh nhân đạt được sống còn 5 năm.

II. CA LÂM SÀNG

Bệnh nhân nam, 51 tuổi, tiền căn hút thuốc 1 gói/ ngày trong 15 năm. Bệnh nhân

có triệu chứng ho kéo dài trong 1 tháng, điều trị nội khoa không cải thiện. Bệnh nhân được chỉ định chụp CT scan và phát hiện khối u tại phổi. PET CT scan ghi nhận khối tổn thương ác tính thùy trên phổi phải, bờ đa cung, tua gai, tiếp xúc với mang phổi trung thất, kích thước 50 * 55mm, SUV max 53,4. Nhiều hạch cạnh khí quản, hạch cửa sổ phế chủ, hạch dưới carina, và hạch rốn phổi trái kích thước dmax 25mm, SUV max 39,5. Bệnh nhân được làm sinh thiết xuyên thành sang thương phổi. Giải phẫu bệnh là carcinôm tuyến biệt hóa vừa grad 2 không có đột biến EGFR, bệnh nhân không làm khảo sát PD- L1. Đánh giá chức năng hô hấp ghi nhận bệnh nhân có chức năng hô hấp bình thường.

Hình 1. Tổn thương bướu và hạch ghi nhận trên CT scan và PET scan trước điều trị.

Bệnh nhân được đánh giá giai đoạn IIIB

Hình 2. Kế hoạch xạ trị và phân bố liều của bệnh nhân

(3)

Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ T3N2M0 (giai đoạn IIIB).

Bệnh nhân đã được điều trị với phác đồ hóa xạ trị đồng thời với Carboplatin + Paclitaxel mỗi tuần trong 6 tuần đồng thời với xạ trị 60Gy/30 lần trong 6 tuần bắt đầu từ 5/2021 và kết thúc vào cuối tháng 6/2021.

Bệnh nhân đã được xạ trị bằng kĩ thuật VMAT.

Ngay sau hóa xạ trị đồng thời bệnh nhân được đánh giá đáp ứng 1 phần. Bệnh nhân kết thúc xạ trị vào ngày 30/6/2021 và bắt đầu truyền durvalumab vào ngày 4/7/2021 (5 ngày sau xạ trị).

Hình 3. Đánh giá đáp ứng một phần sau khi kết thúc phác đồ hóa xạ trị đồng thời Bệnh nhân được điều trị duy trì với durvalumab trong 24 đợt kéo dài đến 05/8/2022 bệnh nhân kết thúc đợt hóa trị thứ 25.

Đánh giá lại bằng PET CT ngày 30/7/2022 ghi nhận đáp ứng hoàn toàn trên PET CT như bảng 1. Đánh giá đáp ứng hoàn toàn theo tiêu chuẩn PERCIST 1.0.

Bảng 1. So sánh tổn thương trước và sau điều trị bằng PET CT scan

Tổn thương PET/CT ngày 15/4/2021 SUVmax gan = 2,50

PET CT ngày 11/7/2022 SUL max gan = 2,58 Bướu thùy trên phổi T áp

sát màng phổi trung thất

50 × 55 × 46mm, SUL max = 16,56

Chỉ còn cấu trúc đặc – xơ kèm khí phế thủng, không hấp thu

FDG Vài nốt mờ thùy trên phổi

phải

8 - 16mm, tăng hấp thu

FDG nhẹ Không thay đổi cấu trúc Khối hạch trung thất nhóm

IV trái - V

31 × 33mm, SULmax 12,45

Mất cấu trúc chỉ còn vài dải xơ, không tăng hấp thu FDG Hạch trung thất nhóm IV

phải 18mm, SUL max 9,66 8mm, không tăng hấp thu FDG

(4)

Hình 4. Bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn sau khi kết thúc điều trị đánh giá trên CT và PET CT

III. BÀN LUẬN

3.1. Lựa chọn điều trị

Vai trò của hội đồng chuyên môn ung thư đa chuyên khoa rất quan trọng trong việc chọn lựa điều trị phù hợp đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III.

Vai trò của hội đồng này đã được chứng minh trong một số nghiên cứu khi cho thấy nhóm bệnh nhân được thảo luận kế hoạch điều trị trong MDT có sống còn cải thiện hơn

Điều này đúng cho cả bệnh nhân ung thư phổi mổ được và ung thư phổi không mổ được[1,2,3].

Riêng đối với ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được, tỉ lệ bệnh nhân nhận được điều trị đa mô thức cũng cao hơn so với không hội chẩn, tỉ lệ bệnh nhân được hóa và xạ trị cao hơn đáng kể ở nhóm được hội chẩn MDT. Vai trò của hội chẩn MDT không chỉ giúp cải thiện thời gian sống

(5)

chí phụ khác cũng cải thiện như: thời gian chờ, sự hài lòng với chất lượng điều trị, việc sử dụng các nguồn lực điều trị hợp lý và kinh tế hơn[1].

Trường hợp ca lâm sàng này đã được thảo luận trong hội đồng chuyên môn ung thư tại BV Vinmec bao gồm bác sĩ chẩn đoán hình ảnh, bác sĩ chẩn đoán hình ảnh can thiệp, bác sĩ giải phẫu bệnh và các bác sĩ chuyên khoa ung bướu. Bệnh nhân được đánh giá giải phẫu bệnh và tình trạng đột biến gene, đánh giá giai đoạn bằng hình ảnh học đầy đủ trước khi có quyết định điều trị.

Đã có sự đồng thuận của hội đồng về kế hoạch điều trị cho bệnh nhân.

3.2. Các vũ khí điều trị dành cho ung thư phổi giai đoạn III không mổ được

3.2.1. Phối hợp hóa xạ trị

Phối hợp hóa và xạ trị được coi là điều trị tiêu chuẩn cho ung thư phổi giai đoạn III không mổ được (unresectable or inoperable).

Xạ trị giúp kiểm soát tại chỗ tại vùng, hóa trị giúp giảm hoặc ngăn ngừa những di căn vi thể và còn đóng vai trò tăng nhạy xạ để tăng hiệu quả của xạ trị. Hóa trị đóng vai trò rất quan trọng trọng điều trị ung thư phổi giai đoạn này, khi kết hợp hóa trị với xạ trị giúp tăng sống còn so với bệnh nhân chăm sóc giảm nhẹ hoặc bệnh nhân chỉ xạ trị đơn thuần.

Hóa trị tuần tự hay hóa xạ trị đồng thời Hóa xạ trị đồng thời đã được chứng minh là hiệu quả hơn hóa xạ trị tuần tự đối với ung thư phổi giai đoạn này và đang là điều trị tiêu chuẩn cho ung thư phổi giai đoạn III. Nghiên cứu RTOG 9410[3] năm 2011 là nghiên cứu then chốt chứng minh vai trò của hóa xạ đồng thời so với hóa xạ trị tuần tự. Trong đó,

nhóm bệnh nhân được hóa xạ trị đồng thời với phân liều tiêu chuẩn cho kết quả sống còn toàn bộ 5 năm cao hơn nhóm bệnh nhân hóa xạ trị tuần tự với cisplatin/ vinblastine (16% so với 10%). Nhóm bệnh nhân hóa xạ đồng thời cũng cho tỉ lệ đáp ứng cao hơn (đạt được 70%). Về độc tính, độc tính cấp độ 3 và các độc tính ngoài huyết học cao hơn so với hóa xạ tuần tự (đặc biệt viêm thực quản cấp) nhưng độc tính muộn không khác biệt giữa 2 nhóm.

Từ nghiên cứu này, hiệu quả của hóa xạ đồng thời sau đó còn được khẳng định trong nhiều thử nghiệm sau đó, và trong cả phân tích hậu kiểm gồm 7 thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên[4]. Tóm lại, hóa xạ đồng thời làm tăng tỉ lệ sống còn toàn bộ sau 5 năm thêm 4,5%, giảm tỉ lệ tái phát tại chỗ tại vùng.

Mặc dù tỉ lệ sống còn cải thiện nhưng vẫn chưa như kì vọng, hóa xạ đồng thời chưa làm giảm tỉ lệ di căn xa so với hóa xạ tuần tự. Và thực tế cho thấy điều trị ung thư phổi giai đoạn III vẫn còn là một thách thức. Một số thử nghiệm nhằm cải thiện sống còn cho điều trị ung thư phổi giai đoạn này như hóa trị dẫn đầu sau đó hóa xạ đồng thời hay hóa trị củng cố sau hóa xạ đồng thời[5,6] nhưng kết quả không như mong đợi, sống còn toàn bộ lẫn sống còn trung bình không cải thiện.

Tóm lại, hóa xạ đồng thời hiện tại vẫn là điều trị tiêu chuẩn cho bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn III, tuy nhiên cần chọn lựa những bệnh nhân ít bệnh lý đi kèm, thể trạng khá. Đối với những bệnh nhân có khả năng không dung nạp được hóa xạ đồng thời, hóa xạ trị tuần tự vẫn được ưu tiên lựa chọn vì lợi thế của nó so với xạ trị đơn thuần (sống còn

(6)

toàn bộ 5 năm đạt 10% so với 5% của xạ trị đơn thuần).

Ca bệnh báo cáo ở trên đã được điều trị với phác đồ hóa xạ trị đồng thời, được đánh giá là phác đồ lựa chọn ưu tiên ở nhóm bệnh nhân thể trạng khá. Trước khi điều trị bệnh nhân được đánh giá chức năng hô hấp, chức năng tim mạch, chức năng gan và thận đầy đủ.

3.2.2. Vai trò của xạ trị trong phác đồ hóa xạ trị

Xạ trị có vai trò trong kiểm soát bướu tại chỗ tại vùng, tuy nhiên tỉ lệ này đạt được vẫn còn rất thấp. Tăng liều xạ so với liều tiêu chuẩn (60Gy - 63Gy) đã được thử nghiệm cho thấy không cải thiện sống còn mà còn làm tăng độc tính xạ trị. Nghiên cứu RTOG 0617[7] đã cho thấy khi tăng liều xạ lên 74Gy, sống còn trung bình đạt 20.3 tháng so với nhóm xạ trị liều tiêu chuẩn 28.7 tháng kèm theo đó là tỉ lệ độc tính viêm thực quản nặng tăng lên 21% so với 7%. Liều xạ lên tim cao hơn ở nhóm xạ liều cao và đây là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến sống còn ở nhóm nhận liều xạ cao.

Các kĩ thuật xạ trị hiện đại

Xạ trị điều biến cường độ chùm tia (IMRT/VMAT) hiện được áp dụng rộng rãi trong điều trị ung thư phổi. Một số lo ngại đã đặt ra khi bắt đầu áp dụng kĩ thuật này, trong đó đáng kể là lo ngại vùng liều thấp khi thực hiện kĩ thuật này tăng lên, thể tích phổi lành nhận liều xạ (dù là liều thấp) sẽ tăng lên và nguy cơ viêm phổi do xạ sẽ cao hơn. Tuy nhiên, các dữ liệu sau đó đã chứng minh cho thấy xạ trị điều biến cường độ chùm tia cải

độc tính điều trị. Xạ trị điều biến cường độ chùm tia cũng góp phần cải thiện sống còn và chất lượng sống.

Tuy nhiên, xạ trị ung thư phổi là một thách thức với các bác sĩ xạ trị vì tính di động theo nhịp thở của khối u phổi. Trước đây, để đảm bảo việc phát tia xạ chính xác vào khối u, trường chiếu xạ trị phải mở rộng để đảm bảo xạ trị trúng khối u đang di động.

Điều này làm tăng thể tích mô phổi lành bị xạ vào và tăng độc tính của điều trị. Với các phương tiện hiện đại, có thể theo dõi được sự di động lồng ngực và của khối u khi xạ, giúp việc phát tia chính xác, tránh phát tia vào mô lành kế cận.

Kĩ thuật điều trị áp dụng cho ca lâm sàng này là xạ trị cung tròn điều biến thể tích - VMAT kết hợp kiểm soát nhịp thở. Bệnh nhân được hướng dẫn hít thở sâu và giữ nhịp thở trong thời gian khoảng 20s, các thể tích xạ được xác định với hình ảnh mô phỏng khi bệnh nhân đang hít sâu nín thở. Khi xạ trị bệnh nhân cũng được theo dõi nhịp thở, và tia xạ phát ra khi bệnh nhân đang hít sâu và giữ nhịp thở, hay còn gọi là xạ trị hít sâu nín thở (Deep Inspiration Breath Hold). Kĩ thuật VMAT giúp giảm liều xạ lên mô phổi lành tim và các cơ quan lân cận, cải thiện sự phân bố liều vào khối u. Kết hợp với việc kiểm soát nhịp thở, giúp giảm thể tích phổi lành nằm trong thể tích đích, tăng tính chính xác của xạ trị. Tại Vinmec chúng tôi còn sử dụng hệ thống kiểm soát quang học bề mặt (OSMS Optical Surface Monitor System) giúp theo dõi sự di lệch trên bề mặt da bệnh nhân theo thời gian thực trong lúc đang xạ trị, nhằm tăng tính chính xác của chùm tia xạ giúp tăng

(7)

gian hóa xạ trị không ghi nhận độc tính điều trị độ 3 - 4, bệnh nhân có tình trạng viêm thực quản độ 2, nuốt đau nhẹ làm ảnh hưởng đến chế độ ăn. Bệnh nhân có triệu chứng của viêm phổi do xạ độ 2. Bệnh nhân có giảm bạch cầu và tiểu cầu trong quá trình hóa xạ trị độ 1.

3.2.3. Điều trị gì sau hóa xạ trị để cải thiện sống còn?

Có thể thấy mặc dù đã có rất nhiều cố gắng nhưng các nhà lâm sàng vẫn chưa giúp bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn này cải thiện đáng kể sống còn. Tỉ lệ sống còn sau 5 năm với hóa xạ trị đồng thời chỉ đạt được khoảng 15% - 20%.

Các phương pháp hóa trị củng cố sau hóa xạ đồng thời cũng không chứng minh cho thấy cải thiện sống còn. Ở những bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn IIIA có thể phẫu thuật được sau hóa xạ trị đồng thời cho thấy phẫu thuật có cải thiện không đáng kể tỉ lệ sống còn toàn bộ, và một trong những lý do được các tác giả đưa ra liên quan đến biến chứng sau mổ cắt phổi (pneumonectomy) gây các vấn đề hô hấp cho bệnh nhân[10].

3.2.4. Vai trò của liệu pháp miễn dịch sau hóa xạ trị ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III

Tính đến hiện tại, phác đồ điều trị chuẩn cho bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn III không phẫu thuật được có thể trạng khá là hóa xạ trị đồng thời. Kết quả vẫn còn chưa như mong đợi, chỉ khoảng 15 - 30% bệnh nhân đạt được sống còn sau 5%, với trung vị thời gian sống còn chưa khi nào vượt quá 28 tháng.

Liệu pháp điều trị ức chế thụ thể PD-1 và PD-L1 (immune checkpoint inhibitor

targeting programmed death 1 và programmed death ligand 1) cho thấy hiệu quả trong một số loại ung thư, trong đó có cả ung thư phổi không tế bào nhỏ. Durvalumab là kháng thể đơn dòng có ái lực và tính chọn lọc cao, gắn kết vào thụ thể PD-L1, ngăn không cho PD-L1 đến gắn kết và PD-1 và CD80, giúp lympho T sẽ nhận ra và tiêu diệt tế bào khối u.

Một số nghiên cứu tiền lâm sàng cho thấy quá trình hóa xạ trị có thể điều hòa tăng biểu hiện PD-L1 trên bề mặt khối u và việc khóa thụ thể này bằng thuốc có thể duy trì phản ứng miễn dịch kéo dài của cơ thể với tế bào khối u.

Nghiên cứu PACIFIC[11] là thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên phase 3 đánh giá vai trò của nhóm thuốc ức chế PD-L1 durvalumab trên bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III, không mổ được, bệnh không tiến triển sau hóa xạ trị đồng thời.

Nghiên cứu này thực hiện trên những bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được có thể trạng khá, ECOG 0-1. Bệnh nhân sau khi kết thúc hóa xạ trị đông thời với liều xạ 60 - 66Gy, nếu không tiến triển sẽ được phân nhóm ngẫu nhiên thành 2 nhóm, nhóm điều trị duy trì với durvalumab và nhóm chứng điều trị với giả dược, việc truyền thuốc sẽ được thực hiện trong vòng 42 ngày sau khi kết thúc xạ trị và kéo dài trong 12 tháng sau đó.

Theo kết quả mới nhất được công bố vào tháng 4/2022 sau thời gian theo dõi 5 năm, sống còn toàn bộ sau 5 năm đạt được 42,9%

ở nhóm dùng durvalumab so với 33,4% ở nhóm giả dược, trong đó sống còn không bênh tiến triển đạt 33% so với 19%[12].

(8)

Nghiên cứu này đã trở thành nghiên cứu then chốt và có thể giúp thay đổi điều trị tiêu chuẩn cho ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn III không mổ được.

Khi phân tích dưới nhóm ghi nhận durvalumab có lợi cho bệnh nhân về sống còn toàn bộ OS cho tất cả các nhóm bất kể tình trạng bộc lộ thụ thể PD-L1 ngoại trừ nhóm bệnh nhân có PD-L1 < 1%. Tuy nhiên durvalumab vẫn mang lại lợi ích về sống còn không bệnh tiến triển cho nhóm bệnh nhân này.

Về độc tính của phác đồ điều trị với durvalumab, độc tính độ 3 - 4 gặp ở 29%

bệnh nhân. Trong đó độc tính độ 3 - 4 thường gặp nhất là viêm phổi (gặp ở 4,4%

bệnh nhân điều trị với durvalumab và 3,8%

bệnh nhân điều trị giả dược). Tiêu chảy cũng là một độc tính thường gặp tuy nhiên đa số ở grad 1 - 2.

Quay trở lại ca lâm sàng đã mô tả phía trên. Sau khi kết thúc liệu trình hóa xạ trị bệnh nhân được bắt đầu ngay với phác đồ điều trị hỗ trợ với thuốc kháng PD-L1 durvalumab. Trong thời gian điều trị bệnh nhân không ghi nhận độc tính nào độ 3 - 4.

Bệnh nhân có tình trạng viêm phổi độ 2, chán ăn độ 1. Sau khi chấm dứt điều trị hỗ trợ với durvalumab, bệnh nhân được đánh giá đáp ứng bằng PET CT scan, so sánh kết quả với phim PET trước điều trị bệnh nhân được đánh giá đáp ứng hoàn toàn. Tỉ lệ đạt được đáp ứng hoàn toàn trong các nghiên cứu điều trị durvalumab sau hóa xạ trị đồng thời cho bệnh nhân ung thư phổi giai đoạn III khá thấp. Trong nghiên cứu PACIFIC đáp ứng hoàn toàn sau phác đồ điều trị chỉ gặp ở

hoàn toàn này của chúng tôi được xem là ít gặp.

IV. KẾT LUẬN

Điều trị ung thư phổi giai đoạn tiến triển tại chỗ tại vùng thực sự là một thách thức cho các bác sĩ ung thư học, cả bác sĩ xạ trị và bác sĩ hóa trị ung thư. Việc kết hợp hóa xạ trị là tiêu chuẩn điều trị cho những trường hợp ung thư phổi giai đoạn III không mổ được.

Việc điều trị hỗ trợ sau khi kết thúc hóa xạ trị bằng nhóm thuốc kháng PD-L1 mở ra một cơ hội mới cho bệnh nhân, khi phác đồ này cho thấy cải thiện sống còn toàn bộ và sống còn không bệnh tiến triển. Ca lâm sàng được mô tả ở trên cho thấy bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị, dung nạp điều trị tốt.

Tỉ lệ bệnh nhân đạt đáp ứng hoàn toàn sau điều trị không nhiều ở các nghiên cứu, do đó ở trường hợp này hi vọng đây là tín hiệu tiên lượng thuận lợi cho bệnh nhân về mặt sống còn dù thời gian theo dõi chưa đủ lâu.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bydder S. The impact of case discussion at a multidisciplinary team meeting on the treatment and survival of patients with inoperable non-small cell lung cancer.

Internal Medicine Journal 39(2009) 838–848.

2. Boxer, M.M., Vinod, S.K., Shafiq, J. and Duggan, K.J. (2011), Do multidisciplinary team meetings make a difference in the management of lung cancer?. Cancer, 117:

5112-5120.

3. Curran WJ, Paulus R, et al. Sequential vs.

concurrent chemoradiation for stage III non- small cell lung cancer: randomized phase III trial RTOG 9410. J Natl Cancer Inst.

(9)

4. Aupérin A, Le Péchoux C, et al. Meta- analysis of concomitant versus sequential radiochemotherapy in locally advanced non- small-cell lung cancer. J Clin Oncol.

2010;28:2181–2190.

5. Vokes EE, Herndon JE, Kelley MJ, et al.

Induction chemotherapy followed by chemoradiotherapy compared with chemoradiotherapy alone for regionally advanced unresectable stage III Non-small- cell lung cancer: Cancer and Leukemia Group B. J Clin Oncol. 2007;25:1698–1704.

6. Belani CP, Choy H, et al. Combined chemoradiotherapy regimens of paclitaxel and carboplatin for locally advanced non- small-cell lung cancer: a randomized phase II locally advanced multi-modality protocol. J Clin Oncol. 2005;23:5883–5891

7. Bradley JD, Paulus R, et al. Standard-dose versus high-dose conformal radiotherapy with concurrent and consolidation carboplatin plus paclitaxel with or without cetuximab for patients with stage IIIA or IIIB non-small-cell lung cancer (RTOG 0617): a randomised, two-by-two factorial phase 3 study. Lancet Oncol. 2015;16:187–199.

8. Mauguen A, Le Péchoux C, et al.

Hyperfractionated or accelerated radiotherapy in lung cancer: an individual patient data meta-analysis. J Clin Oncol. 2012;30:2788–2797.

9. Jegadeesh N, Liu Y, et al. Evaluating Intensity-Modulated Radiation Therapy in Locally Advanced Non-Small-Cell Lung Cancer: Results From the National Cancer Data Base. Clin Lung Cancer. 2016;17:398–

405.

10. Albain KS et al. Radiotherapy plus chemotherapy with or without surgical resection for stage III non-small-cell lung cancer: a phase III randomised controlled trial. Lancet 2009; 374: 379–86.

11. Scott J. Antonia, M.D., Ph.D., Augusto Villegas, M.D et al. Durvalumab after Chemoradiotherapy in Stage III Non–Small- Cell Lung Cancer. N Engl J Med 2017;

377:1919-1929.

12. David R Spigel, Corinne Faivre – Finn et al. Five-Year Survival Outcomes From the PACIFIC Trial: Durvalumab After Chemoradiotherapy in Stage III Non-Small- Cell Lung Cancer. Clin Oncol. 2022 Apr 20;40(12):1301-1311.

Referensi

Dokumen terkait

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 28 bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn muộn được điều trị pembrolizumab đơn chất tại bệnh viện K, chúng tôi rút ra kết luận: thuốc

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÚ GIAI ĐOẠN I-III TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI Trịnh Lê Huy1, Mai Thị Kim Ngân2 TÓM TẮT63 Mục tiêu: Đánh giá kết quả điều trị và tìm hiểu một

Tiêu chuẩn lựa chọn bệnh nhân: Bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phổi không tế bào nhỏ bằng lâm sàng, cận lâm sàng với kết quả giải phẫu bệnh trước mổ hoặc sinh thiết tức thì trong mổ và

Vì vậy chúng tôi thực hiện nghiên cứu do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu “Kết quả điều trị ung thư lưỡi giai đoạn T1- 2N1M0 bằng phẫu thuật kết hợp hoá xạ đồng thời tại Bệnh viện K”

Chính vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này nhằm mục tiêu: Đánh giá kết quả bước đầu của phẫu thuật nội soi cắt thùy phổi, nạo vét hạch trong điều trị UTPKTBN giai đoạn I, II, IIIA

Kết luận: phác đồ Pemetrexed-Carboplatin điều trị BN cao tuổi ung thư biểu mô tuyến của phổi giai đoạn IV cho tỷ lệ đáp ứng và dung nạp thuốc tương tự các nhóm tuổi khác.. Từ khóa: Ung

KẾT LUẬN Qua nghiên cứu trên 36 bệnh nhân của chúng tôi cho thấy phác đồ Platinum - Etoposide đem lại hiệu quả cao trong điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ giai đoạn lan tràn, các tác

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ BƯỚC MỘT PEMBROLIZUMAB TRONG UNG THƯ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ GIAI ĐOẠN IV TẠI BỆNH VIỆN HỮU NGHỊ VÀ BỆNH VIỆN K Mai Thanh Huyền¹, Bs Phạm Thị Hằng² TÓM