• Tidak ada hasil yang ditemukan

ý niệm về cảm xúc trong thành ngữ, tục ngữ tiếng việt

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "ý niệm về cảm xúc trong thành ngữ, tục ngữ tiếng việt"

Copied!
5
0
0

Teks penuh

(1)

TỪ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, sô 1 (69), 1-2021 153

Ý NIỆM VỀ CẢM XÚC TRONG THÀNH NGỮ, TỤC NGỮ TIẾNG VIỆT

NGÔ TUYẾT PHƯỢNG *

Tóm tắt: Theo quan điểm tri nhận luận, ẩn dụ là một công cụ hữu hiệu để con người ý niệm hoá các khái niệm trừu tượng. Ân dụ tri nhận là hình thái tư duy của con người về thế giới, trong đó, một tập hợp các thuộc tính và tri thức ở miền nguồn được kích hoạt đế làm sáng tỏ miền đích vốn trừu tượng, mơ hồ. Từ lý thuyết của ngôn ngữ học tri nhận, bài viết nghiên cứu mô hình ẩn dụ cấu trúc của “Ý niệm về cảm xúc trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt”, là các suy niệm có nền tảng kinh nghiệm về sự hoạt động cùa cơ thể con người và những trải nghiệm sinh học của cơ thê con người mang tính phổ niệm. Từ đó, góp phần lý giải cơ chế tư duy của người Việt về cảm xúc con người bắt nguồn từ những trải nghiệm nghiệm thân.

Từ khóa: Ần dụ cấu trúc, giận, sợ, thành ngữ, tục ngữ.

Abstract: From the standpoint of linguistic learning, metaphor is an means for people to conceptualize abstract notion. The cognitive metaphor is a form of human’s mentality about the world, inside, a set of attributes and knowledge at the domain be activate in order to make the clear codomain, which is equivocal.

From theoretics’ cognitive linguistics, the article content shows structural metaphor of “The concept of promotion for idioms, provers in Vietnamese”, are empirical meditations on the workings of the human body and the human biological experiences of the human body are universal. Since then, contributing to explain the Vietnamese thinking mechanism about human emotions stems from physical experiences.

Keywords: The structure of metaphorical, angry, scared, idioms, proverbs.

1. Dẩn nhập

Trong ba thập niên gần đây, định nghĩa về ẩn dụ đã có sự thay đổi mang tính đột phá khi các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ

còn là một công cụ tri nhận hữu hiệu để con người ý niệm hóa các khái niệm trừu tượng. Ẩn dụ không chỉ còn đon thuần là hình thái ngôn ngữ như quan điểm cấu trúc luận, mà nó còn là hình thái tư duy của con người về thế giới. Tư duy ẩn dụ dựa trên cơ sở các ý niệm. “Ý niệm” (concept), trong tiếng Anh, được Từ điển Tâm lý học Oxford (2008) giải thích là

“một biểu hiện tinh thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể riêng biệt hay một lớp các thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc tính điển dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó, vốn có thể là cụ thể hay là trừu tượng” (Dần theo Lý Toàn Thắng [7, tr.18]).

Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng các đơn vị ngôn ngữ (từ, ngữ, kết cấu) đều biểu đạt các ý niệm và những ý niệm này đều tương ứng với các ý nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ đó. Mỗi khi tạo sinh một phát ngôn, một cách vô thức, con người đã cấu trúc mọi phương diện của kinh nghiệm mà ta có ý định truyền tải và sử dụng quá trình ý niệm hóa cho phát ngôn đó. Ý niệm hóa bao hàm tất cả các quá trình tư duy (hay bất cứ sự trải nghiệm tinh thần nào của con người). Quá trình này chính là quá trình nhận thức của con người trong việc tạo ra ý niệm: các thông tin mà con người tri giác từ thế giới khách quan được tích hợp lại trong một hình ảnh tinh thần đơn lẻ, hình ảnh này, như một thứ ý nghĩa quy ước, được gắn với âm thanh của một ngôn ngữ để diễn đạt cái mảnh thế giới khách

* TS - Trường Đại học Sài Gòn; Email: [email protected]

(2)

quan đó một cách khái quát.

Ẩn dụ tri nhận (hay còn gọi là ẩn dụ ý niệm - cognitive/conceptual metaphor) “đó là một trong những hình thức ý niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới” (Dần theo Trần Văn Cơ [1, tr.93]). Theo các nhà ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ là một cơ chế tri nhận nhờ đó những tri giác liên tục, tương tự đã trải qua quá trinh phạm trù hóa được đánh giá lại trong những bối cảnh ý niệm mới. Cơ chế tri nhận của ẩn dụ bao gồm hai miền NGUỒN và ĐÍCH tồn tại tiền giả định trong ý thức của con người, trong đó những thuộc tính của miền NGUỒN được ánh xạ, phóng chiếu lên miền ĐÍCH, cả hai miền NGUỒN và ĐÍCH đều là những ý niệm, được cấu trúc hoá theo mô hình trường-chức năng: trung tâm-ngoại vi, trong đó hạt nhân là khái niệm nằm ở trung tâm, mang tính phổ quát toàn nhân loại, và ngoại vi là những yếu tố ngôn ngữ, văn hóa dân tộc, nằm trong một “khung” hay “nền” văn hóa nhất định mang tính đặc thù. Như vậy, ẩn dụ tri nhận hướng tới khả năng tác động vào lĩnh vực trí tuệ của con người. Vì thế, ngôn ngữ học tri nhận trở thành một bộ phận của khoa học tri nhận, và nó là một bộ môn khoa học liên ngành, gắn bó mật thiết với các khoa học về tâm lý học tri nhận, trí tuệ nhân tạo, văn hóa học, triết học, thần kinh học, đặc biệt là nhân học, với thuyết “Dĩ nhân vi trung” (lấy con người làm trung tâm của vũ trụ).

2. Ẩn dụ cấu trúc (Structure Metaphors) Ẩn dụ cấu trúc là những ẩn dụ tri nhận khi một ý niệm này được cấu trúc hóa về mặt ẩn dụ trong thuật ngữ của một ý niệm khác. Nói cách khác, ẩn dụ cấu trúc là hiện tượng cấu trúc lại ý niệm ở miền đích về mặt nghĩa sau khi nhận được những tri thức mới (những nét thuộc tính mới) do ý niệm ở miền nguồn gán cho (hay ánh xạ lên). Một ví dụ về loại ẩn dụ này đã được Kõvecses (2002) [9] đưa ra phân tích đó là ẩn dụ ý niệm về thời gian được cấu trúc theo sự

vận động và nơi chốn. Cho ẩn dụ ý niệm THỜI GIAN LÀ SỤ CHUYỂN ĐỘNG (TIME IS MOTION), CÓ thể hiểu theo cách thức sau: Chúng ta hiểu thời gian theo một số yếu tổ cơ bản là: đối tượng vận động, vị trí và sự vận động. Điều kiện cần thiết để hiểu được thời gian theo phương thức này là: thời gian hiện tại ở cùng vị trí chỉ xuất của người quan sát. Từ những yếu tố cơ bản và điều kiện cần trên, chúng ta có các ánh xạ sau: Thời gian là sự vật. Thời gian đã qua là sự chuyển động. Tương lai ở phía trước người quan sát; quá khứ nằm phía sau người quan sát. Một vật đang chuyển động thì vật kia đứng yên; vật đứng yên là trung tâm chỉ xuất. Các ánh xạ không chỉ giải thích ý nghĩa của các biểu thức ngôn ngữ thể hiện cho ẩn dụ ý niệm mà còn cung cấp một tổng thể cấu trúc căn bản để từ đó có thể hiểu được ý niệm thời gian. Không có ẩn dụ thì chúng ta khó mà tưởng tượng được ý niệm thời gian là gì. Hầu hết ẩn dụ cấu trúc đều cung cấp loại cấu trúc và hiểu biết về các ý niệm đích của chúng.

3. Ẩn dụ ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT

Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng vấn đề cơ bản của ẩn dụ ý niệm là kinh nghiệm, là những nền tảng kinh nghiệm. Sự chiếu xạ từ miền nguồn lên miền đích là có duyên cớ và do sự tương đồng giữa hai miền nguồn - đích và nhờ vào những tương liên trong kinh nghiệm, vào sự tương đồng cấu trúc trong tri giác, vào những cội rễ sinh học và văn hóa mà cả hai ý niệm cùng bắt nguồn.

Ẩn dụ GIẬN LÀ NHIỆT có nền tảng kinh nghiệm về sự hoạt động của cơ thể con người.

Án dụ này được thể hiện ra trong ngôn ngữ bằng nhiều cách. Vì cái nóng có thể là từ lửa mà cũng có thể là từ một chất lỏng sôi nào đó, cho nên trong tiếng Việt, có cả hai loại biểu đạt ngôn từ cho hai phương diện “lửa” và “chất lỏng” tương ứng với ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT.

Chúng ta vẫn thường gặp các cách nói như:

cặp mắt nảy lửa, những nhận xét nảy lửa, giận sôi máu, tức sôi sùng sục,...

(3)

TỬ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, sổ 1 (69), 1-2021 155 Ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT với không gian miền

nguồn “nhiệt” cung cấp những tri thức về trạng thái xúc giác của con người khi tiếp xúc với thứ vật chất tỏa nhiệt như: cảm thấy nóng, thấy bức bối, thấy muốn òa vỡ, muốn tan chảy, muốn sôi lên, muốn trào ra,... những tri thức từ miền nguồn này phóng chiếu sang miền đích cảm xúc của con người ’’giận”, khiến miền nhận này mang một số nét thuộc tính của miền cho ấy. Có thể hình dung khung tri nhận của ẩn dụ ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT như Bảng 1 dưới đây:

Bảng 1. Khung tri nhận GIẬN LÀ NHIỆT NGUỒN (NHIỆT) ĐÍCH (GIẬN)

Nóng, có thể khiến mọi thứ tan chảy

Sự giận dữ khiến con người ta khó hoặc không thể kiềm chế, có thể thấy nóng, bốc hỏa, nổi cơn thịnh nộ

Có thể sôi sùng sục, hoặc bốc lên, trào lên dữ dội

Sự giận dữ vượt ngưỡng, khiến con người có khả năng mất kiểm soát Có thể gây nổ, phồng

lên, xì ra khi nhiệt độ tăng quá cao

Sự giận dữ giống như chất lỏng trong bình chứa, có thể kích nổ, hoặc trào ra...

Án dụ ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT có gốc rễ trong kinh nghiệm của chúng ta: khi giận thì ta cảm thấy nóng người lên, người dễ bị nổi cáu và khó chịu, khi giận dữ, da mặt do máu dồn lên nhanh và nhiều nên thường có màu đỏ hơn bình thường, kể cả màu mắt, lòng trắng trong mắt thường có xu hướng chuyển sang màu đỏ kết hợp các tia máu xuất hiện vằn lên, khi cơn giận dữ đẩy lên cao trào, mắt sẽ đỏ hơn, trông dữ hơn lúc cân bằng cảm xúc. Vì thế, trong ngôn ngữ đời sống, chúng ta hay bắt gặp các cách nói miêu tả sự giận dữ của con người kiểu như: thét ra lửa, cuộc tranh luận nảy lửa, tức đỏ mặt tía tai, tức sôi sùng sục, giận sôi máu, giận tăng xông lên đinh đầu,... ừong các diễn ngôn này, cơn giận ở miền đích được mang một số nét thuộc tính đặc trưng của miền nguồn “nhiệt”: nóng, sôi, bốc hỏa, nhiệt độ cao, đỏ,... vì thế, có thể nói, ẩn dụ GIẬN LÀ NHIỆT có gốc rễ từ những trải nghiệm nghiệm thân của con người rất rõ.

Trong thành ngữ, tục ngữ, ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT xuất hiện 40 lần (chiếm 5,7%), và xuất hiện ở cả ba dạng biểu hiện: nhiệt là “lửa”;

nhiệt là ở dạng “chất lỏng nóng trong một vật chứa” và nhiệt là một dạng “vật chất nóng trong một vật chứa”. Ở dạng thức “nhiệt” là lửa, ta có ý niệm bậc dưới GIẬN LÀ LỬA với các biểu thức ngôn ngữ như: Tưới dầu vào lửa, nóng như lửa đốt, nộ khỉ xung thiên, chảy gan cháy ruột, thét ra lửa,... mô tả cảm xúc giận dữ của con người như lửa, hoàn toàn căn cứ vào kinh nghiệm thân thể của con người khi xuất hiện cảm xúc giận dữ: cảm thấy nóng, nhiệt độ thân nhiệt gia tăng, cảm giác như muốn bùng cháy dữ dội, muốn giải tỏa, nếu muốn giải tỏa cần phải tác động để hạ nhiệt xuống, đây hoàn toàn là những phản ứng sinh học của cơ thể, và ý niệm này có thể xem là phổ quát ở mọi dân tộc, mọi nền văn hóa.

Ở dạng thức nhiệt là “chất lỏng nóng trong một vật chứa”, ta có ý niệm bậc dưới GIẬN LÀ CHẤT LỎNG NÓNG TRONG MỘT VẬT CHỨA, trong thành ngữ, tục ngữ xuất hiện nhiều ở dạng thức này với các biểu thức ẩn dụ kiểu như: tức sôi máu, giận sôi máu, tức sôi tiết, tức sôi sùng sục, bầm gan sôi máu, tức lộn tiết, tức lộn ruột, sôi gan nối mật,... sở dĩ ông cha ta xem cảm xúc giận dữ của con người như một thứ chất lỏng nóng trong một vật chứa là do xuất phát từ tư duy ý niệm CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA. Con người là một thực thể độc lập, chứa trong cơ thể các bộ phận lục phủ ngũ tạng để tạo thành một cồ máy hoàn chỉnh, vận hành sự sống. Trong cơ thể con người chứa tim, gan, phổi, ruột... và chứa máu, huyết tương, nước để duy trì sự sống và trao đổi chất với thế giới bên ngoài. Cảm xúc của con người có gắn bó mật thiết với tì vị và các cơ quan nội tạng, đặc biệt là gan và mật. Khi diễn tả ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT, nhiệt độ cơ thể gia tăng do hiệu ứng của cảm xúc giận dữ mang lại đã đưa đến hệ quả là các chất lỏng trong vật chứa “con người” cũng sinh nhiệt, tăng nhiệt và khi đẩy đến đỉnh điểm, vượt ngưỡng, nó sẽ

“sôi”, “sôi sùng sục”, “trào” (lộn) ra khỏi vật chứa. Khi đã miêu tả cơn giận đến mức giống

(4)

như chất lỏng sôi trong một vật chứa là muốn nói đến mức độ tối đa của cơn giận, không thể kìm chế, mà cần được giải tỏa tức thời.

Với ý niệm GIẬN LÀ NHIỆT, trong thành ngữ, tục ngữ có một dạng thức biểu hiện của nhiệt là “vật chất nóng trong một vật chứa”.

Cũng xuất phát từ ý niệm bậc trên CON NGƯỜI LÀ VẬT CHỨA mà xuất hiện ý niệm bậc dưới GIẬN LÀ VẬT CHẤT NÓNG TRONG MỘT VẬT CHỨA. Trong thành ngữ, tục ngữ, cảm xúc giận dữ được thể hiện ở dạng ý niệm phái sinh này là nhiều nhất hai dạng biểu hiện: nhiệt khiến cho vật chất nóng trong vật chứa bị xả ra, kiểu như áp suất bị nén đến độ căng là phải “nổ”,

“lộn”, “phồng”, “xì”, “lòi” ra; và dạng biểu hiện thứ hai là hiệu ứng do sinh nhiệt khiến cho các vật chất trong vật chứa bị “cháy”,

“bầm”, “nóng”, “đốt”, “đỏ” lên. Dạng thức thứ nhất với các diễn ngữ ẩn dụ như: tức nổ đom đóm, tức nổ con ngươi, tức nô ruột, tức lộn ruột, tức lộn mề, tức lòi con ngươi, tức lộn tiết, phồng mang trợn mắt, nộ khỉ xung thiên,... các vật chất trong vật chứa chính là các cơ quan nội tạng: mắt, con ngươi, ruột, mề,...được chứa đựng trong vật chứa “con người”, vì thế, nó tương tác với cảm xúc cũng vốn là vật được chứa đựng trong vật chứa “con người”. Ở dạng thức thứ hai, ta bắt gặp các diễn ngữ ẩn dụ như:

cháy gan cháy ruột, nóng gan nóng phổi, bầm gan tím ruột, nóng ruột nóng gan, mặt đỏ tía tai, mặt đỏ như vang, mặt đỏ như gạch cua nướng, mặt đỏ như miếng tiết, mặt đỏ như gà chọi,... các vật chất trong vật chứa “con người”

bị tăng nhiệt do cơn giận mang lại khiến có các hiệu ứng như: cháy, nóng, đỏ,... đây là các hiệu ứng biểu lộ của cơ thể con người theo cơ chế sinh học tự nhiên, rất dễ nhận thấy ở một người khi có cảm xúc giận dữ.

4. Ẩn dụ ý niệm sợ LÀ LẠNH

Ý niệm SỌ LÀ LẠNH vốn xuất phát từ những trải nghiệm sinh học của cơ thể, và là ý niệm mang tính phổ quát ở mọi nền văn hóa, nó vốn bắt nguồn từ cơ chế sinh học của cơ thể nên vì vậy, nó không chịu sự chi phối bởi các yếu tố

văn hóa, chính trị, hay tôn giáo của mỗi cộng đồng ngôn ngữ, nó là ý niệm mang tính phổ niệm.

Ý niệm SỢ LÀ LẠNH với không gian miền nguồn “lạnh” cung cấp những tri thức về trạng thái xúc giác của con người khi tiếp xúc với nhiệt độ thấp như: con người cảm giác lạnh, ớn lạnh, thấy sởn da gà, cảm giác muốn đông cứng, da dẻ tái nhợt, tím tái, tê buốt... những tri thức từ miền nguồn này phóng chiếu sang miền đích cảm xúc của con người ”sợ”, khiến miền nhận này mang một số nét thuộc tính của miền cho ấy. Có thể hình dung khung tri nhận của ẩn

Bảng 2. Khung tri nhận sợ LẢ LẠNH NGUỒN (LẠNH) ĐÍCH (SỢ) Lạnh, có thể ớn

lạnh, nổi da gà, tím tái

Sự sợ hãi khiến con người ta thấy ớn lạnh, sởn da gà, tái nhợt Thấy dựng lông tóc,

lạnh sống lưng, tê buốt, da và môi nhợt nhạt, tái mét

Sự sợ hãi khiến con người ta hồi hộp, lo âu, tím tái, chân tay cơ bắp rụng rời

Thấy run rẩy, lạnh cóng

Sự sợ hãi khiến con người run rẩy, lo lắng, bất an

dụ ý niệm sợ LÀ LẠNH như Bảng 2 dưới đây:

Ý niệm SỢ LÀ LẠNH bắt nguồn từ trải nghiệm phản xạ sinh học của cơ thể con người, khi con người nảy sinh cảm xúc sợ hãi, cơ chế sinh học của con người sẽ tự điều tiết hành vi và những hiển lộ bên ngoài như: cảm thấy ớn lạnh, có thể ớn lạnh dọc sống lưng, cảm giác hồi hộp, âu lo, máu dồn đến tim chậm hơn và nhiều lúc tim có cảm giác bị dồn nén ức chế, da sẽ chuyển sang màu tái, từ tai tái đến tái mét, môi chuyển từ màu hồng sang nhợt nhạt, tùy theo mức độ của sự sợ hãi. Cái ớn lạnh do cảm xúc sợ hãi đưa đến kéo theo các hiện tượng sởn da gà, dựng tóc gáy, lỗ chân lông dựng lên, lạnh, các cơ bắp nhão ra, rụng rời,...

Trong kho tàng thành ngữ, tục ngữ, các biểu thức ẩn dụ thể hiện ý niệm sợ LÀ LẠNH xuất hiện 32 lần (chiếm 4,6%) với các biểu hiện khá phong phú như: sợ xanh mặt, sợ rùng mình, sợ

(5)

TỬ ĐIỂN HỌC & BÁCH KHOA THƯ, sổ 1 (69), 1-2021

cóng chân, chân tay rụng rời, lạnh xương sống, mặt cắt không ra máu, chân tay rụng rời, rợn tóc gáy, sởn da gà,... Khi sợ hãi, cơ thể chuyển từ trạng thái ấm nóng sang lạnh là do mạch bị co thắt, trống ngực có thể đánh nhiều hơn bình thường nhưng mạch co thắt lại, huyết áp tụt thấp cho nên dẫn đến hiện tượng chân tay run lẩy bẩy, cóng chân tay. Thành ngữ có nhiều biểu thức ẩn dụ miêu tả hiện tượng này:

chân tay rụng rời, nhũn như con chi chi. Vì lạnh nên da tái đi và nhìn xanh xao, mức độ sợ hãi càng cao thì màu xanh càng thể hiện đậm đặc, và thành ngữ có những biểu thức ẩn dụ chỉ mức độ sợ hãi qua màu xanh của nước da như;

mặt như chàm đổ, mặt xanh như đít nhái, sợ tái xanh tái tía, sợ xanh mắt, mặt xanh như tàu lá, mặt mày tái mét, tái xanh tái xám, mặt xanh nanh vàng,... có khi, mức độ sợ hãi khiến cơ thể lạnh (do hạ huyết áp) và nước da có thể chuyển từ xanh tái sang trắng bệch: mặt trắng dã như thằng đốt nhà, hoặc chuyển sang màu vàng ệch: mặt vàng như nghệ, mặt vàng đối lấy mặt xanh, chưa đảnh được người mặt đỏ như vang, đánh được người mặt vàng như nghệ,...

Có thể thấy rằng, ẩn dụ ý niệm sợ LÀ LẠNH có gốc rễ kinh nghiệm từ những trải nghiệm của bản thân, từ những phản xạ sinh lý thần kinh của cơ thể. Chính các cơ sở khoa học của một kiểu loại cảm xúc mang tính tiêu cực này đã cung cấp tri thức cho các biểu thức ẩn dụ trong thành ngừ và tục ngữ Việt.

5. Kết luận

Các mô hình ẩn dụ cấu trúc chủ yếu là các suy niệm về cuộc đời, con người, chúng đều tuân theo quy luật ánh xạ đơn tuyến từ miền nguồn sang miền đích, trong đó, các thuộc tính của miền nguồn được chiếu xạ lên miền đích

157 và thể hiện rõ đặc điểm tính bộ phận của quá trình ý niệm hóa. Những thuộc tính căn bản của các miền nguồn được lựa chọn để chiếu xạ lên miền đích xuất phát từ cội rễ văn hóa và đặc trưng tư duy của người Việt. Có thể nhận thấy vô vàn mối liên tưởng sâu xa trong thế giới tư duy, trong kinh nghiệm và nhận thức về đời sống của dân gian đã được thể hiện qua những xúc cảm muôn màu của trí tưởng tượng, tạo nên những mối liên hệ đầy bất ngờ, thú vị giữa đời sống xã hội và thế giới con người trong thành ngữ, tục ngữ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Trần Văn Cơ, Ngôn ngữ học tri nhận (Ghi chép và suy nghĩ), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007.

[2] Trần Văn Cơ, Khảo luận - Ẩn dụ tri nhận, Nxb.

Lao động - Xã hội, Tp. Hồ Chí Minh, 2009.

[3] Nguyễn Văn Khang, Nguyễn Như Ý, Phan Xuân Thành, Từ điển thành ngữ Việt Nam, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 1994.

[4] Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên), Nguyễn Thúy Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân, Kho tàng tục ngữ người Việt, 2 tập, Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2002

[5] Nguyễn Lực, Lương Văn Đang, Thành ngữ tiếng Việt, Nxb. Khoa học xã hội, Tái bản lần 3, Hà Nội, 2009.

[6] Triệu Diễm Phương, Dần luận ngôn ngữ học tri nhận, Đào Thị Hà Ninh dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nọi, 2011.

[7] Lý Toàn Thắng, Ngôn ngữ học tri nhận - từ lý thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt, (tái bản, có sửa chữa, bổ sung), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009.

[8] Lý Toàn Thắng - Ly Lan, Chiếu xạ trong các ẩn dụ ý niệm về tình cảm, Từ điển học và Bách khoa thư, số 6, 2011.

[9] Kốvecses z., Metaphor: A practical Introduction, Oxford University, 2002.

[10] Lakoff George & Johnson Mark, Metaphors we live by, London: The university of Chicago press, 2003.

Referensi

Dokumen terkait

Một số nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã nghiên cứu nhiều vấn đề của lý thuyết ngôn ngữ học tạo sinh ở những khía cạnh tích cực, trong đó Nguyễn Thiện Giáp tiếp cận ngôn ngữ học tạo sinh ở

ở trong câu có thể thay thế cho một từ, ở vị trí các từ hoặc có thể kết hợp với từ để tạo câu mà còn về ý nghĩa, thành ngữ là một đơn vị định danh - gọi tên một sự vật, hiện tượng, một

NGÔN NGỮ & ĐỜI SỐNG Số 5 223-2014 38 Ẩn dụ, trong từ điển tiếng Anh hiện đại của Nhà xuất bản Longman, được định nghĩa là “một cách thức miêu tả một cái gì đó bằng cách so sánh nó

Kết quả nghiên cứu cho thấy những định nghĩa về khái niệm tục ngữ trong giới học thuật Trung Quốc và Việt Nam tương đối giống nhau, nhưng về loại hình tục ngữ thì khác nhau rất nhiều

Liên hệ hình thái - cấu trúc của các thành ngữ so sánh ngang bằng trong tiếng Anh với các thành ngữ so sánh ngang bằng trong tiếng Việt Các nhà Việt ngữ học Trương ðông San 1974,

mà các thành viên đang chia sẻ; hai là, ngôn ngữ là hiện thân của thực tại văn hóa bởi vì, các thành viên của cộng đồng cũng còn tạo ra kinh nghiệm thông qua ngôn ngữ nữa; họ cấp ý

Tính cách của người Thái Người Thái với các nét tính cách như tốt bụng, hay giúp đỡ người khác được phản ánh đậm nét trong các câu thành ngữ, tục ngữ.. Phần lớn các câu thành ngữ, tục

Việc kết hợp quá trình dạy nghĩa của từ và quá trình dạy ẩn dụ cần được quan tâm hơn trong giảng dạy ngoại ngữ nhằm nâng cao nhận thức của người học về vốn từ chuyên ngành, nâng cao