• Tidak ada hasil yang ditemukan

PDF Vấn Đè Âm Vị Trong Tiếng Việt

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "PDF Vấn Đè Âm Vị Trong Tiếng Việt"

Copied!
4
0
0

Teks penuh

(1)

SÔ 8

NGÔN NGỮ

2021

VẤN ĐÈ ÂM VỊ TRONG TIẾNG VIỆT

ĐOÀN THIÊN THUẬT*

* Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Abstract: Phoneme in Vietnamese canbe unfamiliar to manypeople. It is different fromthe traditional phoneme in bothsizeandfunctions. Thewholesyllable is one phoneme, therefore, it is called phoneme-syllable(syllabophoneme).Especially,it is also a morpheme.

Based on the concept oftraditional phoneme which bears certain criteria, it can be seen that syllable inVietnamese fits with those criteria. This finding has been documented in Chinese studies since 1930 and in Vietnamese studies since 1960s. This finding has attracted attention of researchers in the academia, however, it hasbeendisregardedin practice duetothe prevalence of the Quốc ngữ scripts, whichhasbeen developedbyWesternersto record the traditional phonemes, originally based on the Indo-European language studies. Some intellectuals, due to their limited understanding ofthe concept of traditionalphonemewith its smaller components, havehomogenized phoneme with the traditional phoneme that they perceived. A prejudice brought by the Quốc ngữ scriptsleadstotheunwantedmisunderstanding. The present paper pointsthis out.

Keywords: phoneme, Vietnamese, Quắc ngữscripts, morpheme, syllabeme.

Mỗi ngôn ngữ có bản chất và tính đặc thìi, song để tìm ra sự riêng biệt ấy không phải dễ dàng. Tìm hiểu khái niệm “âm vị” cổ điển hay truyềnthống, đương nhiên cần cặn kẽ vàcả góc khuất của nó,thấy hết cái mà nó bao hàm để ứngdụng vàoviệc nghiêncứu âm vị tiếngViệt.Đó là nguyên tắcvàlà hưóng đi ta lựa chọn. Dưới đâylà những bước đi đểtìm ra Âm vị đặcthùcủa tiếng Việt.

1. “Âm vị” theo truyền thống

về mặt líthuyết ngôn ngữ học đại cương thì “âm vị” là đơn vị khu biệt đơn thuần, ở bậc dưới, còn “hình vị” là đơn vị có nghĩa, thuộc bậc trên trong sự phân chiết hai bậc (double articulation) của ngôn ngữ [11].

Âmvị theo truyền thống hay trong Âmvị họccổ điểnlàkhái niệmxuấtphát từviệc nghiên cứu các ngônngữ Ẩn Âu. Mỗi âm vịlà tổngthể của những nét khu biệtđược thể hiệnđồng thời, nhằm khu biệt nhữngđơn vị có nghĩa. Mỗi âm vị về mặt đồ hình được thể hiện bằng một con chữtrong hệ thống chữViệt Roman. Nhung thực ra không phải chỉ có vậy. Đểkhu biệtcác đơn vịcó nghĩa, ngoài các âmvị cần thiết còncó vấn đềtrật tự các âm vị. Cóhai âm vị/1/ và/i/. Nếu trật tự kếthợp của chúng khácnhau sẽ có những từ khác nhau:/1/ + /i/ = /li/ (lit trong tiếngPháp

(2)

4 I Ngôn ngữ số 8 năm 2021

có nghĩa là “cái giường”). Còn /i/ + /1/ = /il/ (z7 trongtiếngPháp là“nó” - đại từ nhàn xưng, ngôi thứ3, số ít, giống đực).Âmvị đặt theo trật tựtrước sau giả định bản chất tuyến tính của âm vị.

Mỗiâm vị phải là một âmđoạn(segment).

Nếu chấp nhận khái niệm âm vị nhưvừa trìnhbày thìtrong tiếng Việt, tiếng Hán và mộtsố ngônngữở Đông Nam Á, cái được gọilà âm vị sẽ là âmtiết, nó bao gồm những nét khubiệt và là một âm đoạn, đảm bảo sự đối lập về trật tự trướcsau. Vídụ: xấu mặt(nói ra chỉ tổ xấu mặt) và mặt xấu (cô ta người thỉ đẹp, nhưngmặtxấu). Ỏ đây có điều đáng lưu ý rằng, nếu xấumặt lànhững âm vị thì chúng cũngđồng thờilà đon vị có nghĩa, tức hìnhvị hoặc từ. Như vậy, trong một số ngôn ngữ trong đó có tiếng Việt, âm tiết vừa là âm vị, vừa làhình vị. Tình hình không phải như trong các ngôn ngữẤn Âu,ởđâytacó một thứâmvị khác.

2. Âm vị - âm tiết

Từlâu cácnhà Đông phương học Xô viết như Polivanov [10], Dragunov [6] đã thấyđược điều vừa trình bày và gọi âm vị trong các ngôn ngữ như tiếng Hán là “âm vị - âm tiết” (syllabophoneme) hay “tiết vị” (syllabeme). Những nhà Việt ngữ học ở Việt Nam cũng như nước ngoài vào nhữngnăm60, 70của thếkỉ trước cũng thấyđược ở mứcđộkhácnhau thứ âm vị đặc thù của tiếng Việt. Gordina đã cho rằng âm tiếttiếngViệt gồm có phụ âm đầu và phần còn lại, có thể gồm nhiều âm tố nhưng đó không phải là những âm vị độc lập [7], Nguyễn Quang Hồng trong luậnán Phó tiến sĩđãkhẳngđịnh “tiết vị”là đơn vị cơ bản của tiếngViệt [9].

Sách Ngữ pháp lớp 5 đã dùng “tiếng” thay cho “âm tiết” [5]. Nhưng bản chất tiếng là gì, thì trong sách Ngữpháp tiếng Việt: Tiếng - Từ ghép - Đoán ngữ, Nguyễn Tài cẩnnói rất rõ: “Một Tiếngtrong tiếng Việt, đứng về mặt ngữâm chính là một âm tiết mà đứng về mặt ngữ pháp là một Hình vị” [2]. Hoàng Tuệ vàHoàng Minhcũng khẳng địnhrằng "Âmtiết làđơn vịngôn ngữ học hiện rõ ngay từđầu khi người ta bắttay vào phân tích câu nói,mộtđơnvị được phân giới rất rõtrong ngữ lưubằng đường biên giớingữ âm học trùng khớp với những biên giới hình thái học" [12],Trong bài viết này,hai tác giả cũngđãmiêu tả các thànhtố cấu tạo âm tiết tiếng Việt nhưngchưa được rõ ràng, còn gây cho ngườiđọchiểu lầm. Có lẽ côngtrình miêu tả chi tiếthơn và trọnvẹn phải là sáchNgữ âm tiếng Việt [4], Riêng Nguyễn Quang Hồng, saunhiều nămtích lũy với nhữngbài viết về chức năng và cấutrúc âm tiết tiếng Việtđăng trongcác tạp chíchuyên ngành ở trong và ngoài nước, đã tổng kết từ Âm vận học Trung Hoa đếnhọc thuyết Âm vị học âm tiết trong cuốnsách dày dặn với nhau đề Âm tiếtvà loạihình họcngôn ngữ [3].

3. Âm vị - âm tiết và việc xuất thành những yếu tố nhỏ hon

Như trên đã thấy,nhiều nhà nghiên cứu, nhiềucông trình đã đảm bảo tư cách không gì lay chuyển nổi của thứ âm vị đặc thù trong tiếng Việt. Có lẽ chúngtacó quyền dừng ở đây. Song, để trả lời yêu cầu của thực tếxã hội tabuộcphảitiến thêmbước nữalà phân xuấtcác âm vị - âm tiếtthànhnhũngyếu tố nhỏ honthích úng vớiviệc dạychữ trong nhà trường.

Căncứ vào những hiệntượng ngôn ngữ thườnggặp như phép lặp từ, từ láy, hiện tượng iêc hóa {bàn > bàn biếc gì mà như thế này), cách nói lái, quy luật hiệp vần thơ (mà trước hết là ca dao), nghĩa là căn cứvào cảm thức ngôn ngữ của người Việt mà phânxuất âm tiết ra nhũng yếu tố nhỏ hon. Chúng bao gồm trước hếtlà thanhđiệu, âmđầu và phần cònlại, gọi là phần vần. Đó là 3 thànhphầnthuộcbậc I. Sau đó,phần vần lại được phân xuất ra âm đệm, âmchính, âm cuối.

(3)

vấn đề âm vị... |5

Đó lànhũng thànhphần thuộc bậc II. Tóm lại, các yếu tố cấutạonên âm tiết gồm5thành tố được xêp thành 2 bậc. Mỗi thành tố được gọi tên theo vịtrí. Môhình âm tiết - hình vị này là cốđịnh.

Mỗi thànhtố có chức năng riêng và làm thànhmộtđổi hệ. Các âm tiết tức hình thức biểu đạt các hình vị đối lập nhau trong từng đối hệ.

Toántán đối lập nhau trong đối hệ âm đệm. Trong toán có yếu tố tròn môi, trongtán không có đặc trưng ấy. Đấy là một thế đối lập “có - không”, vế “không” có nội dung tiêu cực đượcgọilà “âm vị /zêrô/”. Cũng nhưthế, các âmtiết - hình vị khác đối lập nhau trong đốihệâm cuối. Âmcuối cũng cóthểdo “âmvị /zêrô/” đảm nhiệm.

về thuậtngữ“âm vị” sẽ đượcgiải thích rõ ràng ở trangsau.Ở đây có điều cầnnắm vũng là

“âm vị/zêrô/” không phải là sự vắng mặtcủa 1 thành tố màlàsựthể hiệntiêu cực xét theo một đặc trưng nàođó.

4. Vấn đề âm vị trong chữ quốc ngữ

Người Việt đang sử dụng thứ chữ Latin khá tiện lợi,do các giáo sĩ châu Âuđặt ra với mục đích học tiếng Việt để truyềngiáo, đó là chữQuốc ngữ. Dấu ấn của họ để lại trong chữ viết là cùng 1 âm vị /k/ đượcviết bằng c, k, q để tránh cho họ khỏi đọc nhầm theo cáchđọc chữ viết của họ, v.v... Song,trên đạithểlà mỗi âmvị được ghi bằng mộtcon chữ. Kháiniệm âm vị ở đây là âm vị cổ điển xuất phát từ các ngôn ngữ Ấn Âu. Cho đến trước những năm 60 của thế kỉ trước, nghĩa là trước khi các nhà Việtngữ học phát hiện ratính đặc thù của âm vị - âmtiết của tiếng Việtthìchúng ta,thông quachữQuốc ngữ, đã quá quen thuộcvới kháiniệm âm vịcổ điển.

Đến nay,nhiềungười vẫn giữ khái niệm âm vị cổ điểnvà nhầm lẫn với nhữngthành tố của âm vị - âmtiết. Họ cho rằngtrong âm vị- âm tiết có thểchỉ gồm âm chính và thanh điệu. Cách phát biểu như vậy là căn cứ vào chữ viết (chữ Quốc ngữ) kiểu như (ụsúngỴ Họ quên mất rằng âm vị - âm tiết gồm 5 thành tố cố định, luôn luôn có mặt. Họ đồng nhất“âm vị/zêrô/” với sự vắngmặt của 1 âm vị. cần hiểu rằngtrên chữviết chỉ có 1 nguyên âm và 1 dấu thanh, nhưng khiphát âm thì đó là 1 âm tiết vàâm tiết nàycó nghĩa, đó là 1 hìnhvị hay 1 từ, và họ đang đối mặtvới 1 âm vị - âmtiết. Trongviệc miêu tả âm vị - âm tiết khôngthể làm gì khác honlà chấp nhận đầy đủ các thành tố cấutạo nên nó. Sởdĩngười ta đi tới phân xuất âm tiết thành những yếu tố nhỏ honlànhằm mụcđích thực tiễn trong việcdạy chữ, songcần biết rằngyểu tố nhỏ hơn đó không cógiá trị âm vị. Khinói đến “âm vị /zêrô/” thìthuật ngữ“âm vị” ở đâychỉ có nghĩalâm thời. Trong sách Ngữám tiếng Việt [4] tác giả có đối chiếu các “âm vị” với các con chữ của Quốcngữ, chính là đã dùng thuật ngữ“âm vị”lâm thờikiểu này. Nói khác đi, cóhai thứ âm vị:

một

âm vị chính danh,

đó làâm vị- âm tiết và một

âm vị giả danh

có giá trị lâm thời,tương úng vớinhũng conchữcủachữQuốc ngữ. Trong tiếng Việt không cóâm vị độc lập ngoài âm tiết.

Đen đây mọi vấn đề có liên quan đến âm vị tiếngViệt hầu nhưđã được giải quyết. Trong dạy học, cho đến nay, không có điều gì vavấp. vấn đề là tronghọc thuật các nhà nghiên cứu cần cảnh giácvới chính mình, mỗi khi đề cập đến âm vị - âm tiết: dễ mang theo định kiến của âm vị cổ điển hay truyền thống châu Âuvào và mắcphải nhữngsai phạm khôngđángcó.

(4)

6| Ngôn ngữ sô 8 năm 2021

TÀI LIỆU THAMKHẢO

TiếngViệt

1. NguyễnTàicẩn, Một vài suy nghĩ xung quanh vấnđề quan hệ giữamoocphemvàâmtiếttrong tiếng Việt, Thông báo khoahọcĐại họcTổng hợp, Ngữvăn, 1966.

2. NguyễnTài cẩn, Ngữpháptiếng Việt: Tiếng - Từ ghép - Đoản ngữ, NxbĐại học và Trunghọc chuyên nghiệp, Hà Nội, 1975.

3. Nguyễn Quang Hồng, Ảm tiết vàloại hình ngôn ngữ, Nxb Đại học Quốcgia Thành phốHồ Chí Minh, Thành phố HồChí Minh, 2012.

4. Đoàn Thiện Thuật, Ngữâm tiếng Việt, Nxb Đại họcvà Trung học chuyên nghiệp,Hà Nội, 1977.

5. HoàngTuệ, Nguyễn Tài cẩn, Ngữpháp lớp 5, Hà Nội,1963.

Tiếng Nga và tiếng Pháp

6. HparyHOB NE,ỊTyueaHCKUũ H3bìK, 3armcKHHHCTfflyra BocTOKOBeaeHna AHCCCP, T. VI, MocKBa, 1937.

7. TopAMHa, M.B., oHeKomopbixcnopubix Bonpocax <Ị)OHemuuecKOzo cmpon BbemHOMCKOZO H3biKa, Yn. 3an, JITY 237, V.40, 1960.

8. TopmiHa M. B., Keonpocy oộoHẽMeBO BbemHOMCKOM H3biKe, BonpocbiB3£>iKO3HaHicỉ.Nọ6.M.:HayKa,c.

101-109,1959.

9. Hryen KyanrXoht, cunnaỗeMbi KOK OCHOBHOÙ eờuHUĩịbiH3biKa, ABTopeộepar KaHflimaTCKOH HncepTau.Hn, HHCTMTyr BocTOKOBeneHHH AH CCCP, MocKBa, 1974.

npoo.ie.ua

10. nojiHBaHOB, E.JT,., TpOMMamuKa coepeMeHHOZo KumaũcKoeo R3biKa, MocKBa, Mock. Yh. BocTOKOBeaeHne, 1930.

11. Maritnet, A., Elements de linguistique gẻnérale 3e ed, p. Armand Colin, 1969.

12. Hoàng Tuệ, HoàngMinh, Remarques sur lastructurephonologique du Vietnamien, Etudes Vietnamiens, No 40, Essais Linguistigues, Hà Nội, 1975.

Referensi

Dokumen terkait