• Tidak ada hasil yang ditemukan

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản trong hai thập niên qua

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản trong hai thập niên qua"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản trong hai thập niên qua

NGUYẺN QUANG HUY*

*NCS. Học viện Khoa học xã hội

Tóm tắt: Kê từ năm 2007, Nhật Bản chú trọng phát triên kinh tế biên trong đó tập trung phát triên các ngành kinh tế biên truyền thong và các ngành kinh tế biên mới (năng lượng tái tạo, du lịch biển) và chú trọng họp tác quốc tế trong phát triên kinh tế biên.

Trên cơ sờ sử dụng hiệu quả các tiêm năng và lợi thê mang lại từ biên, kinh tê biên Nhật Ban phát triên hiệu quả, là bài học kinh nghiệm đảng tham khao cho các nước đang phát triển, trong đó cỏ Việt Nam.

Từ khóa: Kinh tế biến, chính sách phát triển,Nhật Bản.

1. Vai trò của biển trong phát triển kinh tế Nhật Bản

1.1. Vị trí địa lý chiến lược của Nhật Bản Nhật Bản là một quốc gia biển. Đất nước này có hình vòng cung, nam ở phía Đông của châu Á, phía Tây của Thái Binh Dương, do 4 quần đảo hợp thành, đó là quần đảo Kuril (Chishima), quần đảo Nhật Bân, quần đảo Ryukyu và quần đảo Izu - Ogasawana. Là một quốc gia đảo, đặc điểm vị trí địa lý của Nhật Bản khá đặc biệt, không giáp một quốc gia hoặc lãnh thô đất liền nào. Nhật Bàn được bao quanh bởi một loạt các biển thông nhau: Thái Bình Dương ở phía Đông và phía Nam Nhật Bản, biển Nhật Bản ở phía Tây Bắc, biển Hoa Đông ở phía Tây và biển Okhotsk ở phía Đông Bắc. Do không có điểm vị trí địa lý nào của Nhật Bản cách biên dưới 100 km, mọi nơi trên nước Nhật đều có thê tiếp cận thuận tiện với các nguồn tài nguyên hàng hải. Do đường bờ biển kéo dài, có thể ví quần đảo Nhật Bản là một trong những ngư trường lớn nhất trên thế giới, có thể so sánh với các ngư trường giữa mũi Baja California và cửa sông Columbia (Bắc Mỳ), hoặc giữa mùi Miami và Nova Scotia (Bắc

Mỹ) hoặc giữa quần đảo Canary và Bordeaux (Bắc Phi - Nam Au) (Victoria Lyon Bestor and Theodore C.Bestor, 2011).

1.2. Tài nguyên trong phát triển kinh tế biển về tài nguyên thuỷ sản

Đặc điểm địa lý của Nhật Bản mang lại cho đất nước này sự giàu có về tài nguyên biên. Các dòng hai lưu chảy dọc theo các bờ biến cùa Nhật Ban và sự khác biệt về khí hậu của môi trường khiến những vùng nước này trở thành vùng đánh bắt đa dạng và năng suất hàng đầu trên thế giới. Với khí hậu đa dạng, Nhật Bản có nhiều loại bờ biển khác nhau, từ cát, đá, san hô... và đất nước này tự hào có môi trường biển đa dạng và hệ sinh vật biển phong phú.

về nguồn lợi thuỷ sản, biên Nhật Bản được chia làm tám vùng chính, phù hợp với môi trường sinh sống của các loại thuỷ sản quý hiếm cua đất nước này; Đó là các vùng Hokkado, vùng biển Bắc Nhật Bản, vùng biền Nam Nhật Bản, vùng biền phía Đông Trung Quốc, vùng biển Bắc Thái Bình Dương, vùng biến Trung Thái Binh Dương, vùng biến đâo Seto và vùng biển Nam Thái Bình Dương. Tài nguyên biển của Nhật Bản được biết đến với những loại cá

Những vấn để KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(2)

nôi tiêng như cá voi và cá ngừ. Khu vực ven biển của Nhật Bản hiện đang có khoảng 2.000 loài cá, chiếm khoảng 10% các loài cá nước mặn được biết đến trên thế giới, cùng hàng trăm các loại động vật có vỏ và hầu hết các loại động vật này đều được biết đến trong ấm thực của Nhật Bản (Victoria Lyon Bestor và Theodore Bestor, 2014). Các loài cá quý hiếm sống ở vùng biển lạnh như cá tuyết Thái Bình Dương (Gadus macrocephalus), cá minh thái Alaska (Theragra chalcogramma), cá thu Atka (Pleurogrammus azonus), cua hoàng đế (Paralithodes camtschaticus), bạch tuộc doflein (Paroctopus doíleini)... Ớ các vùng biển ấm, có thể kể đen các loài cá như: cá ngừ vằn (Katsuwonus pelamis), cá cam Nhật Bản (Seriola quinqueradiata), cá thu Nhật Bản (Scomber japonicus), cá sòng Nhật Bản (Trachurus japonicus), tôm hùm gai Nhật Bản (Panulirus japonicus), bạch tuộc (Octopus vulgaris). Ở các vùng ranh giới giữa biển nóng và biển lạnh là một môi trường đa dạng và độc đáo của các nguôn lợi thuỷ sản. ơ biên Nhật Bản, các dòng biển ấm như dòng Tsushima, một nhánh của Kuroshio, và các dòng lạnh như dòng Liman, đan xen nhau trên bề mặt. Mô hình dòng chảy khá phức tạp và ranh giới không rõ ràng giữa các dòng chảy ấm và lạnh. Tại đây, các loài dòng chảy lạnh mở rộng xa hon về phía Nam và các loài dòng chảy ấm di cư xa hơn về phía Bắc so với ở Thái Bình Dương. Đây chính là điều kiện thuận lợi cho nguồn thuỷ sản quý hiêm tăng trưởng và phát triên ở vùng biên sâu.

về tài nguyên khoáng sản hiển:

Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ, Nhật Bản thúc đẩy thăm dò khai thác tài nguyên dưới đáy biển. Năm 2015, Nhật Bản phát hiện ra một mỏ quặng khổng lồ dưới đáy biển ngoài khơi quần đảo Nhật Bản, chứa nhiều kim loại có giá trị, trong đó có đồng. Đây là một phát hiện có giá trị bởi các loại khoáng sản này rất hiếm ở Nhật Bản và nước này phải nhập khẩu nhiều khoáng sản để phục vụ phát triển kinh tế.

Nhật Bản cũng mới phát hiện một mỏ khoáng sản đất hiếm dưới đáy biển Thái Bình Dương với độ tập trung của loại khoáng sản quý hiếm này trong đất cao gấp 30 lần so với mỏ ở Trung Quốc. Phát hiện này đang làm thay đổi quan niệm về một quốc gia nghèo tài nguyên như Nhật Bản từ trước đến nay. Các mẫu bùn thu thập được dưới đáy đại dương ở vùng biển gần đảo Minamitori, cách thủ đô Tokyo 2.000 km về phía Đông Nam có chứa lượng đất hiếm cao gấp mười lần so với mầu lấy lên từ đáy biển Hawaii, đạt trừ lượng khoảng 6,8 triệu tấn, đủ cho Nhật Bản sử dụng trong vòng 220 - 230 năm (khoahoc.tv, 2018). Dưới đáy biển Nhật Bản có các bể nước nóng thành phần hàm chứa kẽm, đồng, vàng và kim loại hiếm, phân bổ tại Izu và Okinawa. Chính phủ Nhật Bản đã tiến hành thăm dò các bể nước nóng dưới đáy biển từ năm 2008 xác định các công nghệ cần thiết để đưa các bể nước nóng dưới đáy biển trở thành nguồn khai thác tài nguyên năng lượng.

Đáy biển Nhật Bản đang chứa đựng nguồn khí đốt tự nhiên methan hydrate (hay còn gọi là băng cháy) với trữ lượng lớn. Loại khí đốt này được xác định tồn tại ở một vùng rộng lớn dưới đáy biển sâu xung quanh Nhật Bản, trừ lượng có thể đủ nhu cầu tiêu dùng khí đốt của nước này trong khoảng 100 năm. Nhật Bản là nước đầu tiên trên thế giới khai thác thành công bước đầu về mặt kỳ thuật băng cháy từ năm 2013 ở khu vực biển Thái Bình Dương vùng biển ngoài khơi miền Trung Nhật Bản.

Ngoài ra, với tiềm năng năng lượng từ gió biển, chính phủ Nhật Bản đã thông qua kế hoạch thúc đẩy điện gió ngoài khơi với mục tiêu trước năm 2030 nguồn điện từ gió biển sẽ đạt 100 triệu kWh, trước năm 2040 sẽ đạt từ 300 triệu đến 400 triệu kWh tương đương với công suất của 30 nhà máy nhiệt điện quy mô lớn. Các nơi có tiềm năng về gió biển là khu vực ngoài khơi bờ biển Choshi (tỉnh Chiba), bờ biển Noshiro (tỉnh Mitane), Ogga và Yurihonjo (tỉnh Akita) (tietkiemnangluong.evn.com.vn, (2020).

Những vấn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022 ■■

(3)

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản... Nguyễn Quang Huy 2. Phát triển kỉnh tế biển của Nhật Bản kể

từ năm 2007 đến nay

2.1. Ke hoạch cơ bản về chỉnh sách đại dương Phát triên kinh tê biên cùa Nhật Bàn được chú ý hơn từ năm 2007 khi Luật cơ bản về chính sách đại dương được thông qua (Basic Act on Ocean Policy) nhằm giải quyết các nút thắt trên biên về an ninh, kinh tế, đồng thời nhàm phục vụ cho sự tái phục hồi vị thế của Nhật Bản trong khu vực và trên thế giới.

- Ke hoạch CO' bàn lần I (2008 - 2013). Ke hoạch cơ bản lần I là nhàm cụ the hoá các nội dung chủ yếu trong Luật cơ bản về chính sách đại dương năm 2007. Ke hoạch lần I đề cập đến các nội dung về thúc đẩy phát triên và khai thác nguồn tài nguyên biển; Bảo vệ môi trường biển;

Thúc đây phát triên vùng đặc quyên kinh tê;

Bão đảm an ninh hàng hải; Đảm bảo an toàn, an ninh biền; thúc đẩy nghiên cứu và kháo sát biển; áp dụng các biện pháp kết hợp đối với các vùng duyên hải; Nâng cao nhận thức công chúng về biển; Thúc đấy hợp tác và điều phối quốc tế về biển... Quan điểm xuyên suốt của Ke hoạch cơ bản lần I là tạo sự cân bằng giữa phát triển kinh tế biển và bảo vệ môi trường biển, thúc đẩy nghiên cứu biển, nhấn mạnh vai trò của Chính phủ trong quản lý, phát triển biển, đại dương. Ke hoạch lần I tập trung 6 nội dung cơ bản sau: 1) Đảm bảo hài hoà giữa phát triển và sử dụng biên với việc bảo tôn môi trường biến; 2) Đảm bảo an toàn và an ninh trên biển;

3) Nâng cao kiến thức khoa học về biển; 4) Phát triển các ngành kinh tế biền; 5) Quản trị toàn diện về biển; 6) Hợp tác quốc tế những vấn đề liên quan đến biển.

- Ke hoạch cơ bản thực hiện Chính sách đại dương lần II (2013 - 2018). Kế hoạch cơ bản lần II thể hiện sự chủ động cùa Nhật Bản trong thực hiện Chính sách đại dương thông qua bốn mục tiêu cơ bản: 1) Thúc đẩy hợp tác quốc tế và đóng góp tích cực cho cộng đồng quốc tế nhằm xây dựng trật tự quốc tế trên biên tuân thủ theo nguyên tắc của UNCLOS; 2) Phát

triền và sử dụng biển nhàm đạt được sự giàu có và thịnh vượng quốc gia; 3) Từ một quốc gia được biên bảo vệ trở thành một quốc gia chủ động bảo vệ biển; 4) Khám phá biến cả để giải quyết các thách thức từ biên do biến đôi khí hậu toàn cầu, biến đồi môi trường, khan hiếm tài nguyên, đóng góp tích cực cho thế giới trên các lĩnh vực khoa học công nghệ biên (Goverment of Japan, 2013).

- Kê hoạch cơ ban thực hiện Chinh sách đại dnơng lần III (2018 - 2023). Theo quan điềm của Chính phủ Nhật Bàn, đê bảo vệ đại dương và sử dụng đại dương phục vụ mục tiêu phát triển thịnh vượng, các ngành kinh tế cần khuyến khích phát triên trong giai đoạn mới là vận tải biến, thuỷ sản, tài nguyên biên, thương mại hàng hoá trên biển. Chính vì vậy, Ke hoạch lần III tập trung vào 4 lĩnh vực: 1) Thúc đẩy phát triền và sư dụng năng lượng biển và tài nguyên khoáng sân bao gom: Khai thác metan hydrat, sunfua đa kim loại dưới đáy biên, bùn đất hiếm và các nguồn năng lượng khác có nguồn gốc từ đại dương nhằm mục đích tự cung tự cấp phục vụ nhu câu trong nước và xuât khâu; 2) Thúc đây các ngành đóng tàu, và các ngành công nghiệp hàng hải khác. Đây là những ngành cơ sở hạ tầng quan trọng để thúc đẩy việc sử dụng công nghiệp biên của Nhật Bản, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế trong nước và tăng cường cạnh tranh quốc tế; 3) Phát triển vận tải biến bao gồm vận tái đại dương và vận tải ven bờ; 4) Phát triến du lịch biên với các hình thức và lĩnh vực du lịch mới; 5) Phát triền công nghiệp thuỷ sản bền vững, đảm bảo sự quản lý phù họp đối với các nguồn lợi thuỷ sản và đưa thủy sản trở thành nguồn tạo động lực tăng trưởng cho nền kinh tế.

Qua ba lần thực hiện Kế hoạch cơ bản về Chính sách đại dương, các ngành kinh tế Nhật Bản tập trung phát triển bao gồm ba nhóm ngành cơ bản sau đây:

- Nhóm ngành kinh tế truỵên thống cần tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế

Đó là các nhóm ngành vận tải biển, đóng tàu, sản xuất thiết bị hàng hải, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản. Đây là nhóm ngành kinh tế

34 Những vấn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(4)

truyền thống của Nhật Bản, cần tiếp tục ưu tiên phát triển trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và nhu cầu cần tái cơ cấu các ngành này sau nhiều thập niên hoạt động. Các ngành công nghiệp đóng tàu, nuôi trồng và chế biến thuỷ sản được xác định là những ngành tạo nhiều công ăn việc làm cho người dân, có đóng góp quan trọng vào việc hình thành vành đai kinh tế biển và là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp khác trong nước, đảm bảo an ninh kinh tế và an ninh chính trị cúa Nhật Bản. Đe nâng cao tính cạnh tranh của nhóm ngành kinh te truyền thống này, Chính phủ Nhật Bản chủ trương sửa đổi và làm mới các bộ luật, cải cách hệ thống thuế, tăng cường các biện pháp nâng cao tính cạnh tranh của doanh nghiệp, xác định các đối thủ cạnh tranh để xây dựng chiến lược phát triền ngành trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt và phức tạp.

- Nhóm ngành khai thác nguồn tài nguyên biên

Xác định là nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, bao gồm cả tài nguyên năng lượng và nhiều thập kỷ qua phải phụ thuộc vào việc nhập khẩu tài nguyên phục vụ phát triển kinh tế, Nhật Bản chủ động thực hiện việc khai thác các nguồn tài nguyên dưới đáy biến bao gồm các vùng biển khác nhau nằm trong lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế. Ke từ năm 2007, các kế hoạch và chính sách phát triển khai thác tài nguyên biển tập trung chủ yếu vào các ngành: Dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, metan hydrat, năng lượng tái tạo. Theo đánh giá của Chính phủ Nhật Bản, việc xác định các nguồn tài nguyên và năng lượng trên biến và dưới đáy biển là rất cần thiết để đầu tư thăm dò, tìm kiếm, khai thác và đưa vào sử dụng, góp phần cải thiện khả năng tự cung tự cấp năng lượng và tài nguyên trong nước.

- Họp tác quốc tế về kinh tế biển

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các ngành kinh tê biên của Nhật Bản được Chính phủ tập trung chú trọng phát triên ra bên ngoài thông qua xuât nhập khâu, chuyên giao công nghệ, hồ trợ tài chính, cho vay lãi

suất thấp, kinh nghiệm quản lý nghề cá, đóng tàu và nhiều chương trình hợp tác kinh tế quốc tế khác với nước ngoài. Các dự án hợp tác kinh tế biến với các nước trong khu vực và trên thế giới sẽ góp phần nâng cao vai trò và vị thế quốc tế của Nhật Bản nói chung và ngành kinh tế biến của Nhật Bản nói riêng.

2.2. Các chính sách quy định và biện pháp thực hiện phát triển kinh tế biển

Kể từ năm 2007, Nhật Bản đã thực hiện nhiều biện pháp phát triển kinh tế biển. Trước hết, đã ban hành nhiều luật và quy định liên quan đên biên và đại dương (Ocean Policy research institute, 2018). Cụ the là:

- Năm 2007: Ban hành Đạo luật khuyến khích du lịch sinh thái (đạo luật số 105, 2007).

- Năm 2008: Ban hành Luật điều hướng tàu thuyền nước ngoài đi qua lãnh hải và biến nội địa; Sửa đối Luật giao thông đường biển; Đệ trình yêu sách thềm lục địa mở rộng cho Uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc.

- Năm 2009: Thực hiện Kế hoạch phát triển tài nguyên khoáng sản và năng lượng biển; thực hiện Luật trừng phạt và các biện pháp chống vi phạm bản quyền; Thực hiện chính sách cơ bản về quản lý và bảo quản đảo ngoài khơi.

- Năm 2010: Thành lập Ban thông tin hàng hải, ban hành Luật bảo quản dòng thuỷ triều thấp, ban hành Luật về các biện pháp đặc biệt liên quan đến kiềm tra hàng hoá, Ke hoạch bảo quản dòng thuỷ triều thấp.

- Năm 2011: Thực hiện chính sách thăm dò và nghiên cứu khoa học về khoáng sản trong các vùng đặc quyền kinh tế; Chiến lược bảo tồn biển; Sửa đổi Luật khai thác khoáng sản biển...

- Năm 2012: Tiếp nhận các khuyến nghị của Uỷ ban ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quôc, ban hành Chính sách thúc đây sử dụng năng lượng tái tạo biển.

- Năm 2013: Thực hiện Luật về các biện pháp đặc biệt liên quan đến an ninh tàu thuyền Nhật Bản tại các khu vực có mức độ vi phạm

Những vấn đề KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI số 3(311) 2022

(5)

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản... Nguyễn Quang Huy quyền lãnh hải cao; Thử nghiệm sản xuất

methane hydrate ngoài khơi với mục đích thương mại hoá; Tiến hành đặt tên cho các hòn đảo biên giới ngoài khơi xa.

- Năm 2015: Thực hiện chính sách cơ bản về bảo tồn và quản lý quần đảo ngoài khơi, thực hiện chính sách Bắc Cực

- Năm 2016: Thực hiện Luật bảo tồn các vùng đảo ngoài khơi xa, quần đảo thiết lập vùng lãnh hải; Thực hiện các biện pháp tăng cường nhận thức về lãnh thồ hàng hải của Nhật Bản.

- Năm 2017: Thử nghiệm sản xuất methane hydtare ở ngoài khơi lần thứ hai nhằm mục đích thương mại hoá phát triển khí methan hydrate;

Ban hành Kế hoạch cơ bản về nghề cá.

Các văn bản quan trọng ban hành quy định cho các hoạt động của ngành thủy sản như: Luật Thuỷ sản năm 1949, sửa đối năm 1962, 2007);

Luật Hợp tác xã thuỷ sản (năm 1948, sửa đôi năm 1962); Luật Đảm bảo Sản xuất Nuôi trồng Thủy sản Ben vừng (1999, sửa đổi năm 2005);

Luật Bào tồn nguồn lợi thuỷ sản (ban hành năm 1951, sửa đồi năm 2007); Luật Bảo tồn và quản lý tài nguyên biên sông (ban hành năm 1996, sửa đổi năm 2001) quy định một hệ thống quản lý tống sản lượng cho phép khai thác (Total Allowable Catch - TAC) hay tổng cường lực khai thác cho phép (Total Allowable Effort - TAE). Luật Đảm bảo sản xuất nuôi trồng thủy sản bền vừng (1999, sửa đồi năm 2005); Luật Cơ bản về Chính sách Thủy sản (2001, sửa đổi năm 2005); Kế hoạch Cơ bản về Chính sách Thủy sản (năm 2002), thay đổi năm năm một lần.

Trong ngành công nghiệp đóng tàu, Nhật Bản đã ban hành một số luật và chính sách sau:

Luật tăng cường năng lực cạnh tranh công nghiệp (Luật số 98, 2013); Bộ chỉ dần thực hiện chính sách đối với ngành công nghiệp đóng tàu để đảm bảo cạnh tranh bền vừng (từ 2003);

Chính sách tổng thể mới cho ngành công nghiệp đóng tàu (ban hành năm 2011).

Trong ngành năng lượng tái tạo, kể từ năm 2013, Chính phủ xây dựng biểu giá hỗ trợ FIT (feed - in tariff) để khuyến khích phát triển các nguồn năng lượng tái tạo; Áp dụng công nghệ

sản xuất hiện đại đề xây dựng nhà máy điện gió nồi ngoài khơi quy mô lớn; Luật khuyến khích điện gió ngoài khơi (Luật số 89 năm 2018);

Luật thúc đẩy sử dụng các vùng biển cho phát triển các cơ sở sản xuất năng lượng sử dụng năng lượng tái tạo ngoài biên (2019).

Năm 2008, Nhật Bản bắt đầu công bổ Sách trắng về du lịch, đưa ra mục tiêu tông thê phát triển du lịch gắn với bảo vệ môi trường. Sách trắng du lịch 2008 nhấn mạnh, du lịch lệ thuộc nhiều vào nguồn tài nguyên địa phương nên vấn đề bảo vệ môi trường, tạo ra các điếm du lịch hấp dần, bền vũng theo phương châm “là nơi đáng để sống và đáng để tham quan” (White Paper, 2008). Năm 2011, Nhật Bản bắt đầu nhấn mạnh việc phát triển du lịch biển và du lịch sinh thái, trong đó quy định mười hành động ưu tiên trong phát triển du lịch biển, bao gồm: Hạn chế rác thải biến; Du lịch sinh thái; Sử dụng an toàn các khu vực đại dương; Sinh khối; Bảo vệ động vật hoang dã; Cảng an toàn và thân thiện với môi trường. Kế hoạch này đã thu hút lượng khách du lịch đến Nhật Bản tăng đáng kể lên 13,1% trong năm 2012 và 20% vào năm 2013.

3. Một số ngành kỉnh tế biển quan trọng của Nhật Bản

- Công nghiệp đóng tàu

Công nghiệp đóng tàu là hạt nhân của ngành công nghiệp hàng hải Nhật Bản. Vào năm 2015 đơn đặt hàng đóng tàu trên toàn thế giới 1.360 tàu mới, trong đó các doanh nghiệp Nhật Bản nhận được đơn đặt hàng là 362 tàu, chiếm 26,6% thị phần đóng tàu trên thế giới, trong khi Trung Quốc nhận được đơn đặt hàng 452 tàu (chiếm 32,2% thị phần) và Hàn Quốc nhận được 262 tàu, chiếm 19,3% thị phần (Bingqiung Yang, 2018).

Công nghiệp đóng tàu của Nhật Bản tập trung phát triên ở vùng phía Tây nước này. Tại nhiều địa phương miền Tây Nhật Bản, công nghiệp đóng tàu chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế, chiếm tới 30% GDP của tỉnh Imari, 33% ở Marugame; 35% ở Saeki, 35% ở Tamana, 24% ở Imabari và Usuki, 23% ở Nagasaki, thậm chí chiếm tới 81% ở Saiaki.

. --- Những vấn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(6)

Theo đánh giá về thứ hạng ảnh hưởng cùa các ngành công nghiệp ở Nhật Bản năm 2015, công nghiệp đóng tàu đứng vị trí thứ 6 trong tổng số 49 ngành công nghiệp (Shin Otsubo, 2016) bởi nó có tác động lan toả lớn đến nhiều ngành kinh tế khác ở Nhật Bản cũng như thu hút lao động địa phưcmg. Công nghiệp hàng hải của Nhật Bản đang thuộc về sự quản lý cua một số tổ chức như Hiệp hội đóng tàu Nhật Bản (SAJ), Hiệp hội nghiên cứu công nghệ tàu thuỷ Nhật Bản (JSTRA) và Hiệp hội máy móc và thiết bị tàu thuy Nhật Bản (JSMEA).

- Năng lượng tái tạo trên biên

Nhật Bản đã ban hành Chính sách về các sáng kiến thúc đẩy sử dụng năng lượng tái tạo trên biển vào tháng 5 năm 2012. Chính sách này có liên quan đến việc thực hiện các kế hoạch phối hợp với các địa phương để thực hiện phát triển năng lượng tái tạo. So với năng lượng mặt trời và năng lượng gió, năng lượng từ sóng biển ở Nhật Bản được đánh giá là có tiềm năng rất lớn, đặc biệt là ở dòng hải lưu Kuroshio.

Năm 2012, Tổ chức phát triển công nghệ và năng lượng mới (NEDO) đã đánh giá kết quả thực hiện phát triển năng lượng sóng biển và năng lượng thuỳ triều tại một số vùng biển ở Nhật Bản. Thời gian sau đó, Nhật Bản có kế hoạch triển khai một số dự án phát triển năng lượng tái tạo nhằm khai thác nguồn tài nguyên biển. Cụ thể là các dự án sau: 1) Dự án xây dựng tuabin gió trên biển (2011-2015) do Bộ môi trường tiến hành ở đảo Goto tỉnh Nagasaki;

2) Dự án thử nghiệm xây dựng 4 loại máy phát điện từ năng lượng sóng biển và sóng thuỷ triều tại dòng hải lưu Kuroshio Thái Bình Dương do Tổ chức phát triển còng nghệ và năng lượng mới tiến hành. Năm 2016, trong khuôn khổ dự án Phát triển Công nghệ Công nghiệp và Năng lượng Mới của Nhật Bản, Trường Đại học Tokyo kết họp với tập đoàn Mitsui & Co và tập đoàn IHI Corporation đã thực hiện dự án về dòng chảy thủy triều đại dương; 3) Dự án phát triển năng lượng biển sạch tại vùng Tohoku (nơi xảy ra thảm họa tháng 3 năm 2011) để sản xuất điện từ năng lượng sóng biến (giai đoạn 2012 -

2016) nhằm tái thiết khu vực Tohoku sau thảm hoạ động đất và sóng thần (Kinoshita Takeshi, 2012). Dự án sản xuất Hệ thống tuabin thủy triều được thực hiện tại khu vực Okinawase Seto của Thành phố Goshima, Nagasaki nhằm mục đích thiết lập các công nghệ phù họp với môi trường trong nước và các tiêu chuẩn kỳ thuật. Ngày 06/11/2018, Nhật Bản thông qua Luật thúc đẩy sử dụng các vùng biển để phát triển năng lượng tái tạo. Luật này quy định các thủ tục nhằm đảm bảo các lợi ích của các bên trong việc phát triền các cơ sở năng lượng tái tạo trên biên, sử dụng tài nguyên biên trong phát triển năng lượng tái tạo.

- Nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sàn Ngành nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỹ sản trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, có mặt từ lâu đời và ngày càng phát triển hiện đại. Đây là một ngành kinh tế truyền thống, vừa nhằm mục đích nuôi sống người dân, tạo công ăn việc làm, vừa nhàm mục đích xuất khẩu thu lợi nhuận.

Việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào ngành nuôi trồng, đánh bắt và chế biến thuỷ sản được chú trọng từ nhiều thập kỷ qua, từ kỹ thuật đánh bắt cá, kỳ thuật nuôi trồng, đến kỹ thuật bảo quàn chế biến thực phẩm, hệ thống cảng biển chất lượng và nhiều công nghệ phụ trợ khác. Ngày nay, Nhật Bản được đánh giá là có phương tiện và công nghệ đánh bắt cá tiên tiến, hệ thống cảng biển hiện đại bậc nhất thế giới, các công nghệ áp dụng vào nuôi trồng thuỷ sân ngày càng hiện đại, trong đó có sử dụng cả các robot thông minh, khiến cho năng suất nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản ngày càng được nâng cao.

Theo số liệu của Bộ nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản Nhật Bản, năm 2016 sản lượng thuỷ sản và nuôi trồng thuỷ sản đạt 4,36 triệu tấn, trong đó thuỷ sản biển đạt 4,3 triệu tấn, chiếm 98,6% tổng sản lượng thuỷ sản của cả nước. So với các thập kỷ trước đó, sản lượng nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản của Nhật bản giảm rất mạnh, chăng hạn năm 1978 Nhật Bản đạt sản lượng kỷ lục là 5,87 triệu tấn, năm 1984 đạt 12,82 triệu tấn (Cabinet office of Japan, 2018). Nhờ công nghệ hiện đại, năm 2013, xuất khấu thuỷ sân của Nhật Bản đạt

Những vấn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(7)

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản... Nguyễn Quang Huy 221,6 tỷ yên, tăng 30% so với năm trước đó

(Bingqiung Yang, 2018).

- Du lịch biên

Theo Sách trắng du lịch Nhật Bản, năm 2018, Nhật Bản đã đón hơn 31,19 triệu lượt khách quốc tế, tăng 8,7% so với năm 2017, đạt doanh thu gần 42,2 tỷ USD. Trong đó, hơn 50%

du khách đến từ các nước châu Á như Trung Quốc. Còn theo đánh giá cùa McKinsey (2020), từ năm 2011 đến năm 2015, du lịch trong nước của Nhật Bản đã tăng 33% mồi năm, được đánh giá là một trong những nước có du lịch trong nước tăng trương nhanh nhất trên thế giới.

Ngành du lịch Nhật Bản phát triên vượt bậc:

Năm 2015, khách du lịch quốc tế đà đóng góp 3.5 nghìn tỷ Yên (tương đương 35 tỷ USD) cho nền kinh tế Nhật Bản. Chính phu Nhật Bản đặt du lịch trở thành ngành trọng tâm trong chiến lược tăng trưởng kinh tế, thúc đây du lịch biến bằng các biện pháp như nới lóng thị thực, tạo điều kiện thuận lợi cho khách du lịch lưu trú, nâng cấp cơ sở hạ tầng du lịch, xây dựng các thành phổ biển du lịch...

4. Một vài nhận xét, đánh giá

Phát triên kinh tê biên ở Nhật Bản trong hai thập niên qua được đánh giá là khá thành công.

Thứ nhất, hệ thống chính sách nhất quán và có tầng nấc rõ ràng. Khung chính sách giành cho phát triền kinh tế biến được coi là chính sách liên ngành, được ban hành dưới hình thức Luật cơ bản về chính sách đại dương (năm 2007). Kế tiếp là các kế hoạch cơ bản về chính sách đại dương (được ban hành năm năm một lân) nhăm cụ thê hoá chính sách biên cho từng giai đoạn. Tiếp nữa, các chính sách, biện pháp, sách trăng trong từng lình vực cụ thê nhăm cụ thể hoả các kế hoạch năm năm cho tìmg ngành kinh tế biển. Hệ thống chính sách này hướng đến sự phát triển kinh tế biến hiệu quả, đem lại thu nhập và việc làm cho người dân, sử dụng và khai thác biên bền vừng thông qua hợp tác quốc tế và phù hợp với Công ước Liên hợp quốc về luật biển (UNCLOS) năm 1982 và các điều ước quốc tế khác có liên quan. Việc điều chình kế

hoạch, chính sách được thực hiện một cách linh hoạt, đáp ứng yêu cầu của tình hình, tạo thuận lợi cho việc triển khai thực hiện, đôn đốc kiểm tra việc thực hiện kế hoạch.

Đẻ thực hiện hệ thống chính sách phát triển kinh tế biển, Nhật Bàn thành lập các cơ quan chỉ đạo và điều phối có liên quan, đứng đầu là thủ tướng, tiếp theo đó là hội đồng tư vấn quốc gia, tiếp đen là uy ban xúc tiến kế hoạch, tiếp theo đó là các ban liên quan như ban dự án thúc đây các ngành kinh tế biển, ban dự án phát triến nguồn nhân lực biền, ban dự án duy trì và bào vệ môi trường biên, ban an ninh biển. Sự phân công một cách độc lập, trực tiếp cúa các ban/ngành trong hệ thống quan lý thực hiện chính sách biên đã đảm bao cho việc triên khai đông bộ, tông thê các biện pháp thực hiện, phân định rõ vai trò trực tiếp tham gia và vai trò phối họp của nhiều bộ, ngành ờ cấp trung ương và cấp địa phương trong thực hiện chính sách phát triên kinh tế biên, về cơ bản, hệ thống quan lý thực hiện chính sách kinh tế biến của Nhật Bán mang tính tổng họp, kết hợp chiều dọc và chiều ngang. Nhật Bản chú trọng thiết lập bộ máy thực thi chinh sách kinh tế biên, quy định rõ chức năng và nhiệm vụ cụ thê của các cơ quan chức năng, bộ, ngành, địa phương, các tô chức xã hội, các doanh nghiệp, các họp tác xã, các viện nghiên cứu, các trường đại học và nâng cao nhận thức cùa người dân trong xã hội vê biên, phát triên kinh tê biên, tăng cường họp tác quốc tế. Chính sách kinh tế biển cùa Nhật Bản được hình thành một cách hoàn chình, có sự cân bằng giữa phát triển kinh tế biên với bảo vệ môi trường biên, có sự ưu tiên cơ bản giữa tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế của các ngành kinh tế biển truyền thống với các ngành công nghiệp mới sừ dụng tài nguyên biên.

Chính sách kinh te biển của Nhật Bản cũng chú trọng đến thúc đay nghiên cứu khoa học về biến, tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực (trong nước và ngoài nước) đê đàm bảo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế biển.

Thứ hai, trong các ngành nghề truyền thống, ngành đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản của Nhật Bản được chính phù chú trọng phát triên. Nghê

38---Những vấn đề KINH TẾ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(8)

cá của Nhật Bản được phân thành ba vùng:

vùng đặc quyền kinh tế (EEZ), vùng ngoài khơi và vùng ven bờ; Chia thành các vùng khác nhau và áp dụng hệ thống quyền đánh bắt cá khác nhau để dễ dàng quàn lý, đồng thời đàm bảo nguồn tài nguyên thuỷ sản, hạn chế khai thác quá mức gây cạn kiện nguồn tài nguyên. Nhờ hệ thống chính sách chặt chẽ, Nhật Bản đã thiết lập và củng cố được hệ thống đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản dựa vào cộng đồng; Thiết lập chuồi cung ứng hoàn chinh trong ngành nuôi trồng, khai thác và chế biến thuỷ sản. Các nhà khoa học được huy động vào việc tư vấn, hoạch định chính sách cho Chính phú về nhiều vấn đề như cung cấp dự báo về nguồn tài nguyên thuỷ sản, các vấn đề môi trường ảnh hưởng đến sản lượng thuỷ sản, xây dựng chiến lược phát triên cho các hợp tác xã thuỷ sản, phát triển công nghệ mới trong chế biến và bảo quản thuỷ sản.

về chính sách phát triển ngành thuý sản, những thay đối gần đây của Nhật Bản, đặc biệt là việc cải cách chính sách thuy sàn năm 2018 cho thấy Chính phủ Nhật Bản bắt đầu xây dựng một chiến lược toàn diện cho sự tăng trưởng của các ngành nuôi trồng thuỷ sân có vỏ và rong biển, từ sản xuất kinh doanh và phát triển.

Thứ ba, Nhật Bản đã và đang đầu tư lớn cho phát triên nãng lượng tái tạo trên biên. Sau trận động đất mạnh nhất trong lịch sừ Nhật Bản vào ngày 11/3/2011, Nhật Ban quyết định chuyển hướng cơ cấu điện năng lượng của quốc gia mình, dừng vận hành tất cả các nhà máy điện hạt nhân - nơi đóng góp tới 30% sán lượng điện quốc gia, để tập trung vào phát triển nhiệt điện và năng lượng tái tạo. Tháng 5/2011, Chính phủ Nhật Bàn chuyển trọng tâm cùa chính sách năng lượng từ điện hạt nhân và các nguồn nhiên liệu hóa thạch sang các nguồn năng lượng tái tạo như điện mặt trời, điện gió và năng lượng sinh khối. Kế hoạch phát triển năng lượng tái tạo của Nhật Bản trong thời gian qua được Bộ kinh tế, thương mại và công nghiệp Nhật Bản (METI) đánh giá và xem xét lại theo từng giai đoạn, từ 3 đến 4 năm một lần. Điều này là rất

quan trọng đến đánh giá lại cơ cấu các nguồn năng lượng, từ đó có chiến lược phát triển năng lượng trong giai đoạn tiếp theo, đáp ứng các tiêu chí giám lượng khí thải CƠ2, giảm tỷ trọng điện hạt nhân trong cơ cấu nguồn năng lượng sản xuất cua quốc gia, tăng tỷ trọng các nguồn năng lượng mới, đánh giá và dự báo những tác hại cho môi trường tự nhiên gây ra (động đất, thiên tai), có kế hoạch đầu tư công nghệ để giảm giá thành các nguồn năng lượng, ưu tiên đảm bao an ninh năng lượng quốc gia, đàm bảo các chính sách cho vay vốn, ưu đãi thuế, đầu tư cơ sớ hạ tầng kết nối điện với lưới điện quốc gia, giảm chi phí sàn xuất và tăng hiệu suất sử dụng các nguồn năng lượng tái tạo từ biển.

Trong lộ trình phát triên năng lượng tái tạo “phi hạt nhân”, Nhật Bàn đã thành công trong thiết kế chính sách năng lượng mới đa dạng và đa lớp, trong đó bao gồm năng lượng tái tạo, khí hoá lỏng, điện than, điện hạt nhân, dầu mỏ. Ke hoạch năng lượng lần thứ 5 của Nhật Bản (tầm nhìn 2030 đến 2050), Nhật Bản hướng đến phát triển năng lượng tái tạo dựa trên triết lý 3 E + s, viết tắt của các từ an toàn (safety), an ninh năng lượng (energy sercurity), môi trường (enviroment), hiệu quả kinh tế (economic effeciency). Có thể thấy, Nhật Ban đang hướng đến việc thiết lập một cấu trúc cung cầu năng lượng bền vững, ít đem lại gánh nặng kinh tế và thân thiện với môi trường (Trần Chí Thành, 2018). Việc xây dựng cấu trúc năng lượng đa lớp và đa dạng giúp Nhật Bản tránh phụ thuộc quá nhiều vào một loại hình năng lượng tái tạo, mà còn tận dụng được thế mạnh của các nguồn năng lượng tái tạo khác.

Thứ tư, Nhật Bản được biết đến với ngành công nghiệp đóng tàu phát triển nhất, nhì thế giới với các tập đoàn đóng tàu nôi tiếng thế giới như Imabari, Mitsubishi, Namura Zosensho, Oshima, Tsuneishi, Universal... Công nghiệp đóng tàu là hạt nhân quan trọng của cụm công nghiệp hàng hải Nhật Bản, cung cấp các sản phâm và dịch vụ quan trọng ở thượng nguôn và hạ nguồn, được phát triển từ thiết kế thiết bị

Những vấn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THÉ GIỚI số 3(311) 2022

(9)

Phát triển kinh tế biển ở Nhật Bản... Nguyễn Quang Huy linh kiện đến các cơ sở lắp ráp cuối cùng, phát

triển mạnh ra bình diện quốc tế với mạng lưới sản xuất và thầu phụ rộng lớn toàn thế giới. Cho đến nay, Nhật Bản có hơn 1.000 nhà máy đóng tàu, chú yếu là các tập đoàn thuộc sở hữu tư nhân. Ngành công nghiệp đóng tàu có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế biển, có mối quan hệ liên kết rất quan trọng đối với các ngành công nghiệp khác. Mặc dù trong những năm gần đây, công nghiệp đóng tàu Nhật Bán phải đối mặt với những khó khăn về việc mất dan thị phần kế cả số lượng tàu và giá trị sàn xuất, xuất khâu và ngành đóng tàu Nhật Bản đang phải cạnh tranh với Hàn Quốc, Trung Quốc về năng suất lao động, tiền lương, giá

thành xuất khâu, nhưng trong phân khúc thị trường Nhật Bản vẫn đang đứng đầu về việc sản xuất các loại tàu mới, có công nghệ hiện đại và thích ứng với thời đại 4.0. Hiệu quả về mặt chính sách đối với ngành công nghiệp đóng tàu rất khó đánh giá, tuy nhiên cũng phai nhìn nhận Chính phủ Nhật Bán đã sử dụng một hệ thống chính sách bài bàn, tập trung đầu tư theo thị trường mục tiêu, phát triển lực lượng lao động kỳ năng cao, có sự liên kết phối hợp chặt chẽ giữa chính phu - doanh nghiệp và nhà khoa học trong nghiên cứu và sản xuất các loại tàu đáp ứng yêu cầu đặt hàng trong nước và nước ngoài, sử dụng các biện pháp tài chính tiền tệ thích hợp để phát triển ngành này trong thời gian qua* Tài liệu tham khảo:

1. Bingqiung Yang (2018): Japan's Marine economic development and competition with China, CCAMRL Science, Vol 25, No 2, 83-95

2. Cabinet office of Japan (2018): White paper on Fisheries: Summary, FT 2018 fisheries policy, Japan.

3. Kinoshita Takeshi (2012): The potential of marine energy, Nippon.com, 21/9/2012, 4. Ocean Policy research institute (2018): White paper on the oceans and ocean policy

in Japan, Sasakawa peace foundation

5. Shin Otsubo (2016): Maritime cluster in Japan - Shipbuilding and WP6, Maritime Bureau, Ministry of land, infrastructure, transport and tourism (MLIT), Japan.

6. Tran Chí Thành (2018): Chính sách năng lượng Nhật Bàn: xác định cấu trúc điện năng tương lai, Tạp chí Tia sáng, 29/10/2018.

7. Victoria Lyon Bestor and Theodore c. Bestor (2011): Japan and the Sea, Routledge Handbook of Japanese Culture and Society.

8. Victoria Lyon Bestor và Theodore Bestor (2014): Japan and the Sea, Education About Asia, Vol 19, No 2.

9. White Paper on Tourism in Japan, 2008, https://www.mlit.go.jp/kankocho/en/pdf/whitepaper_tourism_2008.pdf

Thông tin tác giả:

NCS. NGUYÊN QUANG HUY NCS. Học viện Khoa học xã hội

Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam Email: tranglinhda@gmail. com

40---Những vắn đề KINH TÉ VÀ CHÍNH TRỊ THẾ GIỚI số 3(311) 2022

Referensi

Dokumen terkait

Chức năng của Liên hiệp HTXNN Nhật Bản là cung cấp các chương trình đào tạo để tăng việc sử dụng công nghệ trong nông nghiệp, tăng cường hợp tác nhằm nâng cao mức sống và mở rộng các

Đó là quá trình chuyển từ nền kinh tế cơ bản là khép kín sang nền kinh tế mở đối với khu vực và thế giới, kết hợp tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công