• Tidak ada hasil yang ditemukan

Phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Cát Bà

Protected

Academic year: 2023

Membagikan "Phát triển du lịch sinh thái tại vườn quốc gia Cát Bà"

Copied!
76
0
0

Teks penuh

Tổng quan cơ sở lý luận về du lịch sinh thái và mối quan hệ giữa du lịch sinh thái và vườn quốc gia. Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có mối quan hệ mật thiết với thiên nhiên và không thể tránh khỏi những hậu quả tiêu cực.

Hình 1-1: Cấu trúc du lịch sinh thái  Nguồn[ 11]
Hình 1-1: Cấu trúc du lịch sinh thái Nguồn[ 11]

Quan hệ giữa du lịch sinh thái và cộng đồng địa phƣơng

Như vậy, du khách đến tham quan khu di sản dù là môi trường tự nhiên vẫn có những mối quan hệ và tác động tới cộng đồng địa phương. Đây là những tác động văn hóa xã hội - những tác động mang lại cho cộng đồng địa phương do sự tương tác với khách.

Yêu cầu DLST tại vƣờn Quốc Gia

Năng lực vật chất là giới hạn không gian cho mỗi khách du lịch tại một địa điểm du lịch. Mục đích của việc tính toán sức chứa tự nhiên là xác định số lượng du khách tối đa mà địa điểm du lịch có thể tiếp nhận.

Hình 1.2: Mô hình vùng sử dụng du lịch cho VQG
Hình 1.2: Mô hình vùng sử dụng du lịch cho VQG

Kết luận chƣơng 1

Do đó, năng lực du lịch của một khu vực không khó hiểu về mặt lý thuyết nhưng rất khó định lượng. Vì vậy, không có giá trị cố định hay tiêu chuẩn cụ thể nào cho năng lực du lịch. Vì vậy, việc xác định năng lực luôn phải được xem xét, tính toán phù hợp với mục tiêu quản lý và điều kiện thực tế của phương tiện để hạn chế lượng khách dưới mức cho phép.

TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VƢỜN QUỐC GIA CÁT BÀ

Giới thiệu khái quát về Vƣờn Quốc Gia Cát Bà

  • Lịch sử
  • Nhiệm vụ

Vườn quốc gia Cát Bà nằm trong Khu dự trữ sinh quyển thế giới quần đảo Cát Bà. Trong số các loài động vật được ghi vào Sách đỏ Thế giới, Vườn quốc gia có loài voọc mặt trắng là loài đặc hữu của Cát Bà.

Bao phủ toàn bộ đảo Cát Bà là những dãy núi đá vôi có độ cao trung bình 150m so với mực nước biển. Vì nằm trong Vành đai Ma Kết nên Cát Bà cũng như vùng Đông Bắc Việt Nam chịu ảnh hưởng trực tiếp của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Rừng Cát Bà được coi là khu rừng tự nhiên khá độc đáo nằm giữa biển lớn.

Rừng Cát Bà có một kiểu chính là rừng mưa nhiệt đới thường xanh ở vành đai đất thấp. Cát Bà cũng có nhiều loại cây này nhưng kích thước không lớn bằng cây ở Vườn quốc gia Cúc Phương. Trong số các loài động vật ở Cát Bà có nhiều loại động vật có giá trị kinh tế cao như hươu, nai, sơn dương, cầy hương, mèo rừng, nhím, lừa và khỉ.

Hiện nay, trăn, rắn và nhiều loài động vật nguy hiểm khác trên đảo Cát Bà vẫn đang bị săn bắt, đánh bắt một cách bí mật để bán. Nhiều loại động vật hiện có trên đảo Cát Bà là động vật quý hiếm, đặc hữu có giá trị khoa học và đang có nguy cơ tuyệt chủng, đặc biệt là Voọc đầu trắng. Voọc đầu trắng ở Cát Bà có các tên địa phương như Voọc đen, Khỉ đen và Vuốt đen đầu trắng.

Trên Đảo Cát Bà; Loài Voọc này sinh sống chủ yếu ở Va Gia (Trà Bầu), Cửa Cái (Việt Hải), Xuân Đàm và các vùng thung lũng. Du khách có thể gặp gỡ và quan sát các loài chim khắp nơi trên đảo Cát Bà.

Đặc điểm kinh tế- xã hội và tài nguyên du lịch nhân văn .1 Dân số

Qua nhiều cuộc khai quật và kết quả phân tích carbon dioxide, người ta thấy rằng người Việt cổ đã có mặt ở đây hơn 6.000 năm trước. Môi trường tự nhiên Cát Hải là cái nôi của con người cổ đại. Các nhà khảo cổ đã khai quật được 17 địa điểm trên đảo Cát Bà, kết quả cho thấy có tới 15 địa điểm có dấu vết của người cổ đại như hang Eo Bua ở xã Hiền Hào, Tung Ba ở Vườn quốc gia, Bồ Đá, Khoan. Mũi thuộc về i.a. Xã Trấn Châu, Áng Giàu thuộc xã Việt Hải.

Cùng với số lượng hiện vật được tìm thấy ở Cái Bèo (Cát Bà) và Bãi Bến (xã Việt Hải), cho thấy văn hóa của người Việt cổ ở đảo Cát Bà rất phát triển và đã tiếp xúc với các nền văn hóa ở Thanh Hóa. Phùng Hóa và văn hóa Nguyễn ở Đông Bắc. Từ những di vật cổ được tìm thấy ở xã Việt Hải cho thấy Việt Hải có dấu vết cư trú của con người từ rất lâu đời và có nền văn hóa lâu đời. Đến với Việt Hải, du khách không chỉ được sống trong một ngôi làng vẫn còn mang dáng dấp của một cộng đồng nguyên thủy mà còn được hòa mình vào không khí sôi động, sôi động của các lễ hội truyền thống nơi đây.

Làng chài Việt Hải và Làng nông lâm nghiệp Việt Hải là những làng nghề truyền thống cũng có thể thu hút khách du lịch.

Từ Hải Phòng, du khách có thể đến Cát Bà bằng đường bộ hoặc đường biển. Từ cổng vườn, du khách đi dọc theo con đường bê tông; Bạn có thể ghé thăm sở thú và vườn thực vật. Du khách có thể chiêm ngưỡng cảnh đẹp của rừng tự nhiên trên núi đá vôi và cảnh biển Cát Bà.

Ngoài con đường này, du khách cũng có thể đi vào động Trung Trang từ đỉnh Ngự Lâm. Từ làng Việt Hải, đi qua đường hầm đến bến cảng (3 km), du khách có thể lên thuyền tham quan vịnh Lan Hạ. Du khách cũng có thể ngủ trưa hoặc nghỉ qua đêm tại làng Việt Hải và tìm hiểu về cuộc sống địa phương.

Trong chuyến đi này, du khách sẽ được tham quan những khu rừng nguyên sinh và ngắm chim. Từ đây, du khách có thể sắp xếp phương tiện di chuyển hoặc thuê xe để trở về trung tâm vườn. Cũng từ vườn du khách có thể thuê xe về Phù Long để tham quan rừng ngập mặn, thời gian chạy xe khoảng 25 phút.

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI TẠI VƢỜN QUỐC GIA CÁT BÀ

Hiện trạng hoạt động du lịch .1 Khách du lịch

Vì vậy có thể thấy, hoạt động quảng bá của Trung tâm DLST nói riêng và Ban quản lý Vườn quốc gia nói chung chưa hiệu quả. Khách du lịch là những nhà nghiên cứu về sinh học, du lịch, môi trường và quản lý, v.v. Khách du lịch có thiên nhiên thuần khiết đến để tìm hiểu về thiên nhiên cũng như các di tích lịch sử và văn hóa của khu vực.

Tóm lại, thành phần khách du lịch tại Vườn quốc gia GCCB rất đa dạng, mỗi loại khách đều có những mục đích khác nhau. Phần lớn khách du lịch là sinh viên và quan chức, mục đích của họ là tham quan, giải trí. Hai trung tâm này có nhiệm vụ tiếp nhận và phục vụ khách du lịch.

Nhân viên trung tâm có thể cung cấp thông tin về cơ sở vật chất, hoạt động du lịch và giá cả dịch vụ bất cứ lúc nào. Với số lượng kiểm lâm đông đảo (hơn 33% của Đại học Nông Lâm), Trung tâm Du lịch sinh thái và Giáo dục môi trường chỉ có duy nhất một nhân viên chuyên ngành du lịch. Trình độ ngoại ngữ của nhân viên phục vụ du lịch được chú trọng và phát huy.

Bảng  3-2: Các đơn vị thuộc VQGCB
Bảng 3-2: Các đơn vị thuộc VQGCB

Đánh giá hoạt động du lịch dƣới góc độ du lịch sinh thái .1 Hiện trạng khai thác tuyến, điểm du lịch

Số lượng khách du lịch tìm hiểu thông tin từ hướng dẫn viên du lịch và quảng cáo chiếm tỷ lệ nhỏ. Vì vậy, hầu hết khách du lịch không có nhiều thông tin về Vườn quốc gia trước khi đến thăm hoặc khi rời đi. Hoạt động giáo dục môi trường thông qua trao đổi giữa du khách và nhân viên Vườn quốc gia về môi trường và bảo tồn.

Các hoạt động du lịch tập trung ở khu vực trung tâm trên đỉnh vườn, gần nơi bảo vệ hệ sinh thái. Số lượng người tham gia hoạt động du lịch còn ít và hạn chế. Tuy nhiên, sự tham gia của người dân địa phương vào các hoạt động du lịch ở vùng đệm của VQG là không đáng kể.

Hầu hết người dân đều mong muốn du lịch mở rộng, chào đón du khách và có cơ hội tham gia các hoạt động du lịch. Hoạt động giáo dục môi trường và giải thích cho khách du lịch chưa hiệu quả. Tỷ lệ du khách được hướng dẫn khi tham quan Vườn quốc gia không nhiều, du khách chủ yếu tự quan sát và tìm hiểu.

Các giải pháp phát triển du lịch

Làm thế nào để khai thác và bảo vệ tài nguyên du lịch vườn quốc gia? Với các phương tiện liên lạc này, tuyến đường sẽ trở thành tuyến du lịch “tự túc” dành cho du khách du lịch sinh thái. Ngoài việc đào tạo đội ngũ nhân viên, cần đào tạo các hướng dẫn viên du lịch tiếp xúc trực tiếp với khách du lịch.

Ngoài ra, cần chú trọng đào tạo đội ngũ người dân địa phương có tay nghề cao để họ có thể trở thành người hướng dẫn cho các hoạt động du lịch sinh thái trên mảnh đất của mình. Các giải pháp trên đều xuất phát từ thực trạng phát triển hoạt động du lịch sinh thái ở Vườn quốc gia Cát Bà. Du lịch sinh thái là loại hình du lịch hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, được xây dựng trên cơ sở các khu vực thiên nhiên hấp dẫn.

Vì vậy, thị trường cung cấp dịch vụ du lịch rất lớn và số lượng du khách tiềm năng cao. Vườn quốc gia GCB là khu vực có tiềm năng thu hút khách du lịch và phát triển du lịch sinh thái. Tuy nhiên, các hoạt động du lịch này cần được phân bổ công bằng trong khu vực nghiên cứu.

Gambar

Hình 1-1: Cấu trúc du lịch sinh thái  Nguồn[ 11]
Hình 1.2: Mô hình vùng sử dụng du lịch cho VQG
Bảng 3- 1: Số lƣợng khách du lịch đến tham quan VQGCB
Bảng  3-2: Các đơn vị thuộc VQGCB

Referensi

Dokumen terkait

Dự án GTZ - Phát triển du lịch đường mòn sinh thái suối Nước Mọoc; Dự án KFW - Hỗ trợ phát triển vùng đệm; Dự án Counterpart - Phát triển du lịch cộng đồng tại thôn Chày Lập; Dự án xây