• Tidak ada hasil yang ditemukan

PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN VỚI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN VỚI"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

103 ĐA DẠNG SINH HỌC Ở VƯỜN QUỐC GIA HOÀNG LIÊN VỚI

PHÁT TRIỂN DU LỊCH SINH THÁI Ở TÂY BẮC VIỆT NAM

Nguyễn Thị Thu Hà* Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Vườn Quốc gia Hoàng Liên được thành lập năm 2002 với nhiều loài sinh vật đặc hữu và phong phú, nhất là với thực vật. Sự đa dạng sinh học này có giá trị cao với đời sống con người nhất là với hoạt động du lịch. Ngày nay, du lịch sinh thái đang được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương. Vì vậy nghiên cứu đa dạng sinh học và văn hóa bản địa ở Tây Bắc Việt Nam trong các vườn Quốc gia và khu bảo tồn thiên nhiên có ý nghĩa tích cực cho việc phát triển du lịch sinh thái (DLST) Tây Bắc.

Từ khóa: Đa dạng sinh học, vườn quốc gia, du lịch sinh thái, Hoàng Liên Sơn, Tây Bắc

MỞ ĐẦU*

Tây Bắc là một phần của vùng Trung du miền núi Bắc Bộ của Việt Nam, bao gồm các tỉnh:

Hòa Bình, Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và Điện Biên. Toàn vùng có diện tích 5,64 triệu ha. Đây là vùng có điều kiện tự nhiên đặc biệt, là một trong những vùng còn giữ được vẻ hoang sơ tự nhiên vốn có của vùng rừng núi. Ở đây có vườn Quốc gia Hoàng Liên và một số khu bảo tồn thiên nhiên có ý nghĩa lớn không chỉ của riêng vùng mà còn có ý nghĩa quốc gia.

Vườn Quốc gia Hoàng Liên Sơn có diện tích 29.845 ha thuộc tỉnh Lào Cai. Trong đó có dãy Phan xi păng là dãy cao nhất Việt Nam (3.143m) được ngăn cách bởi khối núi Pu Khao Luông, Pa Ta Leng, Tao Phong Chan…

ở phía Tây Bắc. Phía Bắc và Đông Bắc là khối Tayang Phing. Ranh giới phía Đông là thung lũng mường Hoa Hồ. Phía Tây là bồn địa Than Uyên. Phía Nam đổ xuống các bậc thấp dưới 1500 m của Hoàng Liên. Vì vậy có thể lấy giới hạn của các hệ sinh thái núi cao Phan xi păng là từ 1500 m trở lên. Đây cũng là ngưỡng biến đổi nhiệt ẩm được các nhà khoa học công nhận [2]

Phương pháp nghiên cứu: Tác giả bài báo đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như:

*Tel: 0973 402465, Email: [email protected]

Phương pháp thu thập, tổng hợp, xử lí tài liệu; Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp số liệu thống kê; Phương pháp thực địa.

NỘI DUNG

Cơ sở phân hóa hệ sinh thái núi cao Phan xi păng và vườn Quốc gia (VQG) Hoàng Liên Quan hệ sinh vật núi cao Phan xi păng có lịch sử phát triển khá dài và trải qua nhiều biến cố thăng trầm trong lịch sử tiến hóa chung của tự nhiên Việt Nam. Nhiều công trình nghiên cứu Cổ địa lý đã đề cập đến lịch sử tiến hóa chung của nó trong suốt nửa đầu Đệ Tam vào thời kỳ Paleogen, lãnh thổ Việt Nam ở vào giai đoạn yên tĩnh về kiến tạo. Sau khi lãnh thổ lục địa được biến đổi sau các pha xâm nhập của chu kỳ tạo sơn Kimmeri. Lãnh thổ bước vào giai đoạn san bằng bề mặt bởi các quá trình ngoại sinh. Kết quả đã tạo ra bề mặt san bằng cổ trên hầu khắp lãnh thổ. Các bề mặt này thấy rõ nhất ở khối Phan xi păng.

Trên các bề mặt san bằng Paleogen đã phát triển mạnh các quần thể sinh vật nhiệt đới ẩm ướt thường xanh phong phú và đa dạng mà dấu tích còn nằm trong các trầm tích hữu cơ ở địa bàn Than Uyên. Sự giá lạnh chung trên toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến quần thể sinh vật trên lãnh thổ, tuy băng hà không ảnh hưởng trực tiếp đến lãnh thổ nước ta. Song khí hậu lạnh đã làm biến đổi đến các quần hệ sinh vật nhiệt đới Việt Nam và Phan xi păng.

(2)

104

Cân bằng sinh thái bị phá vỡ cùng với sự lạnh đi của khí hậu toàn cầu là sự hoạt động tạo núi Phan xi păng. Các pha tạo núi khác nhau đã nâng dần độ cao của khối Hoàng Liên Sơn.

Sự chuyển biến của các hệ sinh thái ẩm, nhiệt đới gió mùa được biểu hiện bằng các loại thường xanh họ Đậu hoặc họ Re, họ Dẻ, Đỗ Quyên, họ Thông, họ Bạch Dương… nó tồn tại đến cuối kỷ Plixtoxen. Khí hậu ấm dần lên từ cuối Plixtoxen làm cho các quần thể hệ sinh vật nhiệt đới tiến dần lên phía Bắc, đẩy các quần hệ lan lên theo độ cao chiếm lĩnh không gian đai chân núi. Hệ quả của đấu tranh sinh tồn giữa các quần hệ nhiệt đới và ôn đới ẩm cùng các quần hệ nhiệt đới gió mùa, các loại nhiệt đới thích nghi dần với sự tồn tại của một mùa đông lạnh ở miền khí hậu phía Bắc, trong khi các đại diện sinh vật á nhiệt đới và ôn đới ẩm cũng thích nghi với điều kiện nóng ẩm tạo nên sự pha trộn trong thành phần loài của các quần hệ sinh thái Phan xi păng làm đa dạng phong phú, phức tạp quần hệ sinh vật Hoàng Liên Sơn.

Quần hệ sinh vật đặc hữu

Quần hệ sinh vật Phan xi păng bao gồm: 2024 loài thực vật, thuộc 771 chi, 200 họ, 6 ngành thực vật bậc cao. Động vật có 447 loài, trong đó có 74 loài chim, 253 loài bò sát và 120 loài lưỡng cư [1], [2]. Các đại diện của hệ thực vật nhiệt đới: Họ Cau, Dừa chuối, Ráy, Tai voi, Gừng, Đỏ cọng, họ Tung, họ Cơm vàng, dứa dại, họ Mua, họ Na, họ Thị, họ Nhót, họ Thầu dầu, họ Ngũ gia bì, họ Bóng nước, họ Thạch tùng, họ Bách xanh Dương xỉ mập, Hoa cói, Củ nâu, Sung, Sim, Dung… với nhiều loại Dương xỉ khác nhau như: Dương xỉ thân gỗ xâm nhập và đan xen với các đại diện hệ thực vật nhiệt đới như họ Thích, họ Dẻ, họ Cói, họ Mộc Lan, Hoa hồng, Chắp tay, họ Chuông lẫn các hệ thực vật của hệ ôn đới: Họ Đỗ Quyên, Bạch dương, Dẻ, Kẹn, Mao Lương, Hồ đào, Tử đồng, Anh thảo, Thông… Trong số này các loài sinh thái được xác định chỉ có trong các họ: Họ Dẻ, Mộc lan, Long não, Đỗ quyên,

Bạch dương, Chè, Chắp tay, Thích, Bồ đề, Côm, Hoa hồng, Kẹn, Đào lộn hột, Hồ đào, Hòa thảo, Hoàng đàn, Kim giao, Thông, Bụt mọc, Dương xỉ mộc.

Đối với các hệ sinh thái Phan xi păng ranh giới của các đai cao ở giai đoạn đầu nghiên cứu thống nhất [4]:

+ Ngưỡng độ cao 1500 m gần như có sự tương đồng giữa các nhà sinh thái và các nhà nghiên cứu cảnh quan.

+ Ngưỡng 2000 – 2200 m và 2400 m, của các nhà sinh vật tương đồng với ngưỡng ranh giới của các nhà cảnh quan sinh thái.

Theo các nhà cảnh quan và sinh thái học cảnh quan (hệ sinh thái) ở Việt Nam được phân ra thành ba đai cao cùng nhiều á đai, ba đai chính là:

+ Đai nội chí tuyến chân núi từ 0 đến 1500 m.

+ Đai á nhiệt đới trên núi từ 1500 đến 2400 m.

+ Đai ôn đới hơi ẩm đến ẩm ướt trên núi từ 2400 m – 2800 m.

+ Ngưỡng độ cao 2800 m trở lên là ranh giới của cảnh quan sinh thái ẩm ướt trên núi cao.

Các yếu tố hướng sơn văn, độ cao gây nên những phân hóa khá lớn của các quần hệ sinh vật. Ở các độ cao có sự phân hóa cấp thấp hơn, phụ thuộc vào hướng phơi, sườn dốc và đa dạng địa hình. Do cấu trúc hướng sơn văn có thể thấy 3 hướng phơi như sau:

Khu vực 1 (hướng Đông Bắc): Có hướng phơi chung với hướng Bắc.

Khu vực 2 (hướng Tây Nam): Có hướng phơi Tây Tây Nam.

Khu vực 3 (hướng Đông Đông Nam): Có hướng phơi Đông Nam.

Hướng phơi của các dạng địa hình có tác động ngăn chặn, tụ gió, trở thành nhân tố gây mưa cục bộ của các sườn núi. Có thể nói là nhân tố phân phối lượng mưa trên các sườn khác nhau của các khối núi Hoàng Liên Sơn (gió mùa Tây Nam ẩm ướt vào mùa hè, gió mùa Đông Bắc lạnh, ít ẩm vào mùa đông…).

(3)

105 Khối Phan xi păng nằm ở độ cao từ 1500 m

trở lên cũng chịu ảnh hưởng của hai luồng không khí trên vào hai mùa khác nhau. Vì vậy, hai hướng chính của các luồng gió vào hai mùa (mùa hạ gió hướng Nam, Đông Nam;

mùa đông gió hướng Đông Bắc và Bắc). Mùa hè gió thổi chủ yếu vào hướng Nam, Đông Nam theo thung lũng sông Đà và thung lũng sông Hồng thổi ngược từ biển Đông qua đồng bằng sông Hồng lên. Các luồng không khí này mang nhiệt lượng ẩm, mức độ biến động cao dễ gây mưa tạo nên trên sườn Hoàng Liên Sơn một vùng mưa lớn.

Sự phân hóa hệ sinh thái của Hoàng Liên Sơn tạo nên nét độc đáo đối với khách du lịch Hệ sinh thái VQG Hoàng Liên có sự phân hóa rất đa dạng và phong phú.

- Phân hóa theo độ cao:

+ Đai quần hệ thực vật nhiệt đới ở độ cao dưới 1500 m.

+ Đai quần hệ thực vật hỗn giao á nhiệt đới, ôn đới và nhiệt đới tồn tại ở độ cao 1600 – 2500 m.

+ Đai quần hệ thực vật á nhiệt đới ở độ cao 2600 – 2800 m.

+ Đai quần hệ thực vật núi cao trên 2800 m.

Hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng thường xanh sườn Tây Nam chân núi Phan xi păng:

Giới động vật thuộc họ Cu li, họ Khỉ, họ Chồn, họ Cầy, họ Mèo, các loài thuộc họ gặm nhấm. Chim có họ Chim trĩ, họ đớp mồi. Các loài bò sát gồm Rắn lục. Các loài ếch nhái:

Cóc nhà, Ếch núi, Nghóe, Ếch tây… ở ranh giới trên có loài ếch xanh.

Hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng, cây lá kim ẩm á nhiệt đới chân núi sườn Tây Nam Phan xi păng: Trong hệ này quần hệ sinh vật có Pơ mu, thông vàng (họ Kim giao). Giới động vật trong rừng có phong phú hơn về các loại gặm nhấm họ sóc và một số loài chim.

Hệ sinh thái trảng cây bụi thứ sinh sườn Tây Nam chân núi Phan xi păng.

Ưu thế ở đây là các loài thuộc họ Dâu tằm, Đơn nem, Cam… rải rác có các loài Sim,

Mua, Thành ngạnh, Đỏ ngọn… Giới động vật chủ yếu là các loài gặm nhấm, bò sát và một số loài chim nhỏ.

Hệ sinh thái nương rẫy sườn Tây Nam chân núi Phan xi păng: Đây là hệ sinh thái nông nghiệp trên sườn dốc chủ yếu là nương lúa, là khu vực đầu nguồn của suối Nậm Mít Noi.

Đai này phân bố từ độ cao 1500 m – 2000 m ở sườn Đông Bắc và từ 1700 m – 2400 m ở sườn Tây Nam. Trong đai này thường gặp các họ thuộc cả ba yếu tố thực vật nhiệt đới, á nhiệt đới và ôn đới trên núi.

Hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng và cây lá kim á nhiệt đới sườn Đông Bắc Phan xi păng: Đặc trưng bởi họ Dẻ, họ Re, Giổi đen họ Chè, Họ Ngũ Gia Bì. Ưu thế là các loài thuộc họ Dẻ, Long Não, Ngọc lan và Pơ mu.

Giới động vật chủ yếu là Khỉ vàng, Khỉ cộc, Vượn, Cầy vòi mướp, Cầy mốc, Cầy mục, Sóc chuột, Sóc bụng đỏ, Sóc đen, Sơn Dương… Đôi nơi có lợn rừng, chim ưng, chim cắt, các loài nhông, rắn sọc.

Hệ sinh thái trảng cây bụi thứ sinh sườn Đông Bắc chuyển tiếp Phan xi păng: Hệ sinh thái này đặc trưng như: Ô rô, Mày tẹo lá cứng có gai.

Hệ sinh thái ruộng nương rẫy: Các hệ sinh thái này có diện tích lớn hơn diện tích đất bằng.

Các hệ sinh thái sườn Tây Nam đai chuyển tiếp từ 1700 – 2400 m.

Hệ sinh thái rừng cây lá rộng thường xanh sườn Tây Nam đai chuyển tiếp Phan xi păng:

Phân bố chủ yếu ở các sườn dốc và phần Đông đỉnh Mang Hoa San do nước mặt thấp, trữ lượng ẩm trong các tầng phong hóa.

Hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng, lá kim đai chuyển tiếp sườn Tây Nam Phan xi păng:

Phân bố của hệ sinh thái này chủ yếu là các phần mặt đỉnh thấp 2000 – 2400 m.

Hệ sinh thái trảng cây bụi thứ hai đai chuyển tiếp sườn Tây Nam Phan xi păng: Gồm một phần diện tích tập trung ở phía trên nông trường Than Uyên. Các hệ sinh thái đai á nhiệt đới trên núi.

(4)

106

Hệ sinh thái rừng này tồn tại trên các mặt đỉnh, các sống của địa hình trên các bề mặt san bằng và các sườn của nó ở độ cao từ 2000 m.

Hệ sinh thái rừng cây lá rộng thường xanh á nhiệt đới trên núi Phan xi păng. Ưu thế là các cây Đỗ quyên, đặc biệt là rừng rêu.

* Hệ sinh thái rừng hỗn giao cây lá rộng, cây lá kim đai nhiệt đới đới trên núi Phan xi păng.

Quần hệ đặc trưng là rừng cây gỗ lùn. Ưu thế là Đỗ quyên xen Dẻ, tùng, Thiết sam trên đất phong hóa từ đá mẹ gralit, đất mùn, chua, tầng mỏng thường xuyên có mây mù.

Trên các hệ này chỉ gặp một số ít loài động vật như Khỉ vàng, Sơn dương, Chuột rừng, một số loài thuộc họ chim ưng, chim cắt và một vài loài ếch núi.

* Hệ sinh thái rừng cây lá kim trên núi cao:

Rừng cây lá kim trên núi cao ưu thế là Dẻ tùng, Thiết sam trên đất phong hóa từ đá mẹ gralit, đất mùn, chua, tầng mỏng, ít mây mù.

Thực vật trong Vườn quốc gia Hoàng Liên Hệ sinh thái rừng Trúc lùn: Phân bố ở độ cao trên 2800 m. Quần hệ thực vật là trúc phất trần trên đỉnh và đường chia nước từ 2800 – 3143 m. Từ độ cao 2800 – Phan xi păng cao 3143 m duy nhất tồn tại trúc phất trần, có thêm loài Sedum lineare thuộc họ bỏng. Các loài thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú trong đó điển hình nhất là các loại cây họ Đỗ Đỗ quyên, Trúc lùn…

Thực vật trong Vườn quốc gia Hoàng Liên ở độ cao 2200 m.

(Nguồn: Nguyễn Văn Triển - Báo Dân Trí) Với hệ sinh thái rừng phong phú như vậy, vườn Quốc gia Hoàng Liên được đánh giá là một trong những trung tâm đa dạng sinh học bậc nhất nước ta.

Mặt khác, nơi đây còn bảo tồn, lưu giữ nhiều nét đẹp văn hóa truyền thống của cộng đồng các dân tộc sống trong vùng lõi và vùng đệm của Vườn Quốc gia đó là các hoạt động ca múa nhạc của người Mông, Dao, Giáy với những nhạc cụ như: Khèn, sáo, kèn, đàn môi; các kiến trúc nhà ở của người dân tộc như: Người Mông ở trên cao, nền nhà thường thấp hơn và kín gió, nguyên liệu làm nhà chủ yếu bằng gỗ, nhà của người Tày ở vùng thấp nên thường là kiến trúc nhà sàn, mái lợp bằng cỏ tranh hay rơm rạ, ngày nay đã được thay bằng ngói.

Với tiềm năng dồi dào, du lịch của Sa Pa đã xây dựng và phát triển nhiều loại hình du lịch phong phú, từ nghỉ dưỡng đến du lịch sinh thái, thể thao mạo hiểm, du lịch văn hóa cộng đồng đến du lịch tổng hợp MICE, tổ chức hội nghị, hội thảo. Bên cạnh việc lưu giữ nhiều nét văn hóa đặc sắc của các dân tộc thiểu số, lôi cuốn du khách trong nước và ngoài nước, tỉnh Lào Cai cũng mở ra những cơ chế khuyến khích, mời gọi đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch. Ðảng bộ và chính quyền huyện đã thảo luận và thông qua chương trình phát

(5)

107 triển du lịch bền vững giai đoạn 2006 - 2010

với các dự án cụ thể. Các sự kiện và hoạt động nằm trong chương trình “Du lịch về cội nguồn” phối hợp ba tỉnh như “Tuần văn hóa du lịch Sa Pa”, “Chương trình leo núi, khám phá Phan Xi Păng”, v.v được tổ chức hằng năm đã và đang dần tạo thành một thương hiệu sản phẩm độc đáo của du lịch địa phương. Ngoài ra còn có nhiều hoạt động lễ hội, giao lưu văn hóa nghệ thuật của đồng bào dân tộc thiểu số độc đáo và hấp dẫn như: Hội xòe của dân tộc Tày tại xã Thanh Phú; hội hát Then tại xã Bản Hồ; hội hát giao duyên của dân tộc Dao tại xã Tả Phìn; hội Gầu Tào của dân tộc Mông tại xã San Xả Hồ; hội xuống đồng của dân tộc Dáy tại xã Tả Van... Chính quyền Sa Pa và ngành du lịch còn tăng cường lắp đặt bổ sung các biển thông tin chỉ dẫn tuyến, điểm du lịch trên địa bàn; thực hiện đầu tư nâng cấp điểm du lịch Thác Bạc, hang động Tả Phìn, chợ văn hóa Tả Phìn; tổ chức hội nghị các nhà đầu tư du lịch kinh doanh lưu trú và lữ hành; xây dựng và quản lý hiệu quả kinh doanh các tua, tuyến du lịch, mở chợ đêm Sa Pa và chợ văn hóa du lịch Tả Phìn; hướng dẫn xây dựng, nâng cao năng lực du lịch cộng đồng tại xã Tả Van, Bản Hồ, Nậm Sài...

Đến với Vườn Quốc gia Hoàng Liên, là du khách đến với môi trường du lịch sinh thái hấp dẫn. Tại đây, du khách sẽ cảm nhận được khoảnh khắc giao mùa xuân - hạ - thu - đông chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ; được thấy những tia nắng xuyên qua từng tán lá rậm rạp, xuyên qua những làn sương mù chiếu xuống những thảm cỏ tranh tươi tốt; được ngắm nhìn những khóm trúc lùn đung đưa mỗi khi có những cơn gió tràn qua... tất cả đều để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng du khách, nhưng có lẽ ấn tượng nhất vẫn là cảm giác được ngủ lại qua đêm trên lưng chừng núi để hòa mình vào thiên nhiên hùng vĩ của dãy Hoàng Liên Sơn, nghe tiếng suối chảy róc rách, tiếng thác chảy ào ào... và trong không gian bao la, rộng lớn này, du khách thấy mình thật nhỏ bé. Bên cạnh đó, du khách cũng có thể tham gia

chương trình du lịch bản làng: Đến và nghỉ luôn tại nhà của người dân tộc, du khách sẽ cùng chủ nhà làm những công việc trong gia đình, buổi tối tập trung tại nhà văn hóa cộng đồng để giao lưu văn hóa - văn nghệ. Du khách cũng có thể cùng người dân nơi đây chơi các môn thể thao truyền thống như: Đẩy gậy, bắn cung, kéo co, đi cà kheo… hay đi tham quan bản làng, cối giã gạo, các khu ruộng bậc thang, các nương chàm... của người dân tộc. Đặc biệt, nơi đây còn có giải leo núi

“Chinh phục đỉnh Phan xi păng” với qui mô cấp quốc gia cho các vận động viên trong và ngoài nước. Hằng năm thu hút hàng triệu khách du lịch, nhất là du khách nước ngoài, những nhà nghiên cứu sinh vật học, những nhà khoa học.

Cùng với sự phát triển của du lịch, lực lượng lao động địa phương làm việc trong các cơ sở lưu trú tăng nhanh, hướng dẫn du lịch cũng tăng nhanh, qua đó từng bước nâng cao đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân. Năm 2016, tổng lượt khách đến tham quan, du lịch tại Lào Cai là 2.769.821 lượt, Trong đó, khách quốc tế là 750.778 lượt, khách nội địa là 2.019.043 lượt. Tổng thu du lịch năm 2016 ước đạt 6.405 tỷ đồng, tăng 37% so với năm 2015.

Du khách đi theo các tua du lịch tham quan các làng, bản lên tới hơn 10.000 đoàn, với hơn 50.000 lượt khách. Ðây đã và đang là một nguồn tạo việc làm và thu nhập cho nông dân ở các xã phát triển du lịch làng, bản, du lịch cộng đồng.

Ðể tiếp tục khai thác hiệu quả và phát triển du lịch tương xứng tiềm năng, chính quyền và ngành du lịch Lào Cai cũng như Sa Pa đang tiếp tục nỗ lực xây dựng, tạo điều kiện và môi trường thu hút đầu tư, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn; không ngừng cải thiện và nâng cấp cơ sở hạ tầng, nhất là hạ tầng du lịch; chú trọng phát triển du lịch làng, bản, du lịch cộng đồng; tuyên truyền nâng cao nhận thức về du lịch trong nhân dân cũng như chính quyền,

(6)

108

từng bước tăng cường quản lý, thúc đẩy tính chuyên nghiệp trong lĩnh vực dịch vụ phục vụ du khách.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu đa dạng sinh học ở Tây Bắc là việc làm rất cần thiết, có ý nghĩa tích cực cho việc phục vụ cho việc phát triển du lịch sinh thái tại các tuyến điểm, các vườn Quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên. Trong tương lai gần Tây Bắc sẽ trở thành một vị trí du lịch quan trọng ở Việt Nam với nhiều loại hình du lịch mà du lịch sinh thái sẽ là trọng điểm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Nghĩa Thìn (1996), “Tính đa dạng hệ thực vật Fansipan, ngọn núi cao nhất của Việt Nam”, Báo cáo Hội thảo khoa học Khoa học - Kỹ thuật và Kinh tế lâm nghiệp trường Đại học Khoa học Tự nhiên Hà Nội, tr. 104-108.

2. Trần Huy Thái, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (1995), Bước đầu nghiên cứu hệ động, thực vật và tài nguyên sinh vật vùng Phan xi păng, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội.

3. Thái Văn Trừng (1974), Thảm thực vật rừng Việt Nam, Nxb Hà Nội.

4. Nguyễn Văn Vinh và N. N. K. (1996) Các yếu tố cấu thành và phân hóa các hệ sinh thái Phan xi păng, Nxb Hà Nội.

5. Nguyễn Quốc Trị (2003), “Bảo vệ đa dạng sinh học ở Vườn Quốc Gia Hoàng Liên”, Tạp chí Nông nghiệp và phát triển nông thôn, số 9, tr. 1164-1166

SUMMARY

BIODIVERSITY IN HOANG LIEN SON NATIONAL PARK WITH ECOLOGICAL TOURISM IN WESTERN NORTH VIETNAM

Nguyen Thi Thu Ha* TNU- University of Education Hoang Lien National Park was established in 2002 with many species of endemism and abundant in plants. This biodiversity is of high value to human life, especially with tourism. Nowadays, ecotours is the interest of many scientists and leaders at all levels from central to local levels. So the study of biodiversity and indigenous culture in North Vietnam in the national parks and nature reserves have the positive meaning for the development of ecological tourism North West.

Fanxipan ecosystems diversity is the result of a mixing of many vegetation vestiges (tropical, subtropical and temperate). It constitutes a basic to track the natural development history of viet nam and serves likewise economic objectives, among which the promiment allsided trourism.

Key words: biodiversity, national park, ecological tourism, Hoang Lien Son, Tay Bac

Ngày nhận bài: 01/9/2017; Ngày phản biện: 10/10/2017; Ngày duyệt đăng: 16/10/2017

*Tel: 0973 402465, Email: [email protected]

Referensi

Dokumen terkait