VÀI NÉT VỀ CÁC PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN TÌNH VỢ CHỒNG TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM
Ngô Thị Thanh Nga*, Phạm Thị Hồng Vân Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng là tình cảm thiêng liêng cao quý của con người. Chính vì thế mà những ngáng trở của giáo lý phong kiến khắc nghiệt cũng không thể khuất lấp được tình cảm cao đẹp đó. Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến một số phương thức thể hiện tình cảm vợ chồng trong văn học trung đại Việt Nam cụ thể là hai phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của người khác để thể hiện tình cảm vợ chồng). Qua hai phương thức phản ánh này, người đọc phần nào thấy được những tình cảm trân quý thiết tha sâu nặng trong tình vợ chồng đồng thời cũng thấy được sự phong phú của tâm hồn con người Việt Nam dù ở bất kỳ hoàn cảnh sống nào.
Từ khóa: Tình vợ chồng, văn học, Việt Nam trung đại, phương thức, tự bạch.
ĐẶT VẤN ĐỀ *
Văn học viết Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX là nền văn học tồn tại và phát triển trong xã hội phong kiến. Mười thế kỷ văn học này còn được gọi là văn học trung đại (hay văn học cổ). Lực lượng sáng tác chủ yếu là tầng lớp trí thức chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hán học. Quan niệm về văn học của họ là coi trọng mục đích giáo huấn “thi dĩ ngôn chí”, “văn dĩ tải đạo”. Đạo đức Nho gia khuôn nén con người mà chủ yếu là tầng lớp Nho sĩ. Họ phải “khắc kỷ phục lễ”, phải “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”, hay “an bần lạc đạo”...
Để chứng tỏ quyền lực tối cao và phục vụ cho lợi ích của mình, giai cấp phong kiến thống trị áp đặt con người cả thể xác và tâm hồn. Con người bị trói buộc bởi các mối quan hệ, đặc biệt là mối quan hệ nam nữ, quan hệ yêu đương. Việc kết hôn phải do cha mẹ sắp đặt, phải được xã hội thừa nhận.
Có thể nói, lễ giáo phong kiến đã kiềm tỏa tình cảm của con người, không để cho tình cảm riêng tư xuất hiện, đặc biệt là tình yêu đôi lứa. Nhưng lịch sử loài người luôn vận động phát triển. Cùng với quá trình thức tỉnh, trỗi dậy lớn mạnh của con người cá nhân, thì
*Tel: 0982548560; Email: [email protected]
cái “tôi” trong văn học được biểu hiện rõ hơn, tình cảm cá nhân, tình yêu (vốn có nguồn gốc sâu xa từ văn học dân gian) dần đậm nét và định hình trong văn học trung đại. Các nhà nho đã dành những trang thơ văn viết về đời sống riêng tư, về tình cảm vợ chồng thiết tha và cảm động.
NHỮNG PHƯƠNG THỨC THỂ HIỆN CỤ THỂ Các tác giả tự giãi bày câu chuyện của chính mình
Tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng là tình cảm thiêng liêng cao đẹp, chính vì vậy dù có bị ngáng trở và kìm nén bởi lễ giáo thì tình cảm ấy vẫn luôn bền bỉ sống. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, có một bậc đại Nho dám nói lên tình yêu của mình đối với vợ mà không phải mượn câu chuyện tình của người khác. Đó chính là Nguyễn Trãi - một nhân vật lớn ở thế kỷ XV, một nhà chính trị quân sự lỗi lạc, một danh nhân văn hóa thế giới. Qua bài thơ Tiếc cảnh số 10, ông đã gửi nỗi nhớ nhung xen lẫn giận hờn tới người thiếp yêu của mình:
Loàn đan ướm hỏi khách lầu hồng, Đầm ấm thì thương kẻ lạnh lùng.
Ngoài ấy dầu còn áo lẻ,
Cả lòng mượn đắp lấy hơi cùng.
(Quốc âm thi tập, Tiếc cảnh số 10) [1, tr. 457]
Nguyễn Thị Lộ là người thiếp yêu mà Nguyễn Trãi dành tình cảm sâu sắc nhất bởi bà không phải là một phụ nữ tầm thường. Nguyễn Thị Lộ là một cô gái quê sắc nước hương trời của làng Hải Triều (Thái Bình). Ở bà hội đủ những phẩm chất tuyệt vời như: vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, sự duyên dáng, thông minh, có học vấn, tài đối đáp sắc sảo, đức hạnh, tính năng động trong mọi công việc... Bà được vua Lê Thái Tông cho vời vào cung, phong chức Lễ nghi học sĩ (dạy lễ nghi cho các cung phi và công chúa). Kể từ đó, Nguyễn Trãi đành phải xa người vợ yêu của mình.
Qua bài Tiếc cảnh số 10, ông muốn gửi nỗi nhớ thương cùng với chút hờn ghen trách móc nhẹ nhàng tới người vợ yêu của mình. Trước người vợ tài sắc, Nguyễn Trãi đã bộc bạch lòng mình một cách chân tình. Ở đây, người đọc không thấy dấu vết gì của một vĩ nhân mà chỉ thấy tình vợ chồng đích thực, trọn vẹn.
Từ thế kỷ XVIII trở đi, những chuyển biến mạnh mẽ của lịch sử, xã hội đã tác động sâu sắc đến đời sống văn học. Tư tưởng dân chủ phát triển tạo điều kiện cho con người cá nhân xuất hiện, nhu cầu giải phóng tình cảm đã trở nên cấp thiết, một trong những tình cảm cần được giải phóng là tình vợ chồng. Tình yêu và hạnh phúc gia đình trở thành một trong những vấn đề chủ yếu của con người thời đại. Lớp nhà nho đương thời không còn coi tình yêu là một điều đáng sợ như các bậc nho sĩ xưa, mà họ luôn coi trọng tình cảm này. Tình yêu trở nên cao đẹp và là cội nguồn của hạnh phúc.
Đề tài tình yêu như có ma lực thu hút hầu hết các tầng lớp xã hội: những sĩ phu đạo mạo, những quan lại trang nghiêm, những tiểu thư khuê các ... đều nói về chuyện tình yêu, tình vợ chồng. Một số thi sĩ không chỉ mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác để biểu đạt tình yêu mà còn trình bày trực tiếp trước công chúng độc giả chuyện tình yêu của chính mình. Đó là Nguyễn Kiều đau quặn lòng trước linh cữu Đoàn Thị Điểm - người vợ yêu của ông, đồng thời cũng là một trong những nữ sĩ tài ba nhất trong lịch sử văn học nước Nam:
Đào chưa quả đã vội khô, Quế đang thơm mà đã rủ!
Rừng sâu bể rộng. Nàng hỡi đi đâu?
Ngọc nát châu chìm, lòng tôi quặn nhớ.
Những muốn:
Chèo thuyền nan, mà sớm phát. Đưa giá liễu để chóng về.
Hẹn lại quê nhà an táng. Dốc đem ý hậu theo đi.
(Văn tế Đoàn Thị Điểm) [2]
Hay là Ngô Thì Sĩ đau khổ, đã phải thốt ra lời cái ý nghĩ day dứt “Nếu sớm biết vì làm quan xa mà phải ly biệt đau khổ đến thế, thì chức vạn hộ hầu có đáng kể gì” trong Khuê ai lục [3.184]; là Phạm Nguyễn Du khóc nức nở:
“Ôi ta với nàng chỉ một, cớ sao đang sum họp phải chia lìa” trong Đoạn trường lục [4.52]; là Hoàng hậu Lê Ngọc Hân bàng hoàng, hụt hẫng “nỗi con côi cút, nỗi mình bơ vơ!” trong Ai tư vãn [5.20]. Ngay cả Tự Đức - vị vua nổi tiếng trong lịch sử triều Nguyễn cũng từng than tiếc, nhớ nhung một người phi yêu dấu chẳng may thác sớm:
Ới Thị Bằng ơi ! đã mất rồi!
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Và còn muốn:
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng, Xếp tàn y lại, để dành hơi.
(Khóc Bằng phi) [6]
Có lẽ, đây là hai câu hay nhất, lãng mạn nhất và cảm động nhất trong bài thơ Khóc Bằng phi của vua Tự Đức. Nhân vật trữ tình vì quá nhớ thương người bạn đời nên đập vỡ tấm gương cũ mà nàng đã từng soi để mong tìm thấy bóng nàng trong đó, và xếp chiếc áo cũ mà nàng đã từng mặc, đem cất kỹ để giữ lại dư hương của nàng.
Còn viết về cuộc chia tay “không bao giờ gặp lại” với người vợ cả, Nguyễn Khuyến lại sử dụng ngôn ngữ mộc mạc hơn nhưng vẫn chan chứa nghĩa tình. Câu đối Khóc vợ của Nguyễn Khuyến không chỉ giúp người đọc hình dung ra bức chân dung của người vợ cả lam lũ, suốt
đời chịu thương chịu khó mà còn cho thấy nỗi lòng của nhà thơ khi vợ mất:
Lão cũng đã mừng thay! Nhờ được bà hay lam, hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng, tất tả chân đăm đá chân chiêu, vì lão đỡ đần trong mọi việc;
Bà đi đâu vội bấy! Để cho lão vất vơ vất vưởng, búi tóc củ hành, buông quần lá toạ, gật gù tay đũa chạm tay chén, cùng ai kể lể chuyện trăm năm.
(Khóc vợ) [7, tr. 269-270]
Bà cả là người vợ mà Nguyễn Khuyến vô cùng yêu quý, bởi bà là người kề vai sát cánh cùng chồng vượt qua bao khó khăn thử thách.
Bà lo lắng, gánh vác, đỡ đần mọi việc để chồng an tâm thi cử và chăm lo việc nước. Vì vậy, khi bà mất đi thì ông cũng mất luôn một chỗ dựa tinh thần, khiến ông sống “vất vưởng” một mình nơi trần thế, biết cùng ai
“kể lể chuyện trăm năm”.
Nguyễn Khuyến là một nhà nho sống dưới chế độ phong kiến nên chịu ảnh hưởng của Đạo nho khá nhiều và cũng giống như bao người đàn ông khác trong xã hội cũ, Nguyễn Khuyến có tới bốn bà vợ. Tuy nhiên, ông không thể hiện uy quyền và khuôn họ vào những luật lệ khắt khe mà Nho giáo đề ra đối với người phụ nữ. Vì thấu hiểu nỗi gian truân, vất vả của người phụ nữ nên ông luôn quan tâm, yêu thương, bảo ban vợ cũng như trân trọng, đề cao người bạn đời tri âm tri kỉ của mình. Mặc dù Nguyễn Khuyến dành nhiều tình cảm cho bà cả nhất, song không quá thiên vị ai, ông san sẻ tình cảm của mình cho bốn bà. Ông khóc thương, day dứt ân hận khi người vợ hai mất ở nơi đất khách quê người mà không kịp gặp mặt bà lần cuối (Lữ thấn khốc nội)[8], ông bày tỏ nỗi đau xót khi người vợ tư bất hạnh chết trẻ lại không con (Vãn thiếp Phạm thị)[8], ông đau đớn đến tột độ thương người vợ cả mất đi mà chưa một lần được sống trong cảnh vinh hoa phú quý (Điệu nội)[8]. Nguyễn Khuyến chỉ có 6 tác phẩm viết về người vợ, tuy số lượng không nhiều
nhưng cũng đủ cho thấy ông là một người chồng thương yêu tin tưởng vợ hết mực, luôn đề cao và coi trọng tình nghĩa vợ chồng.
Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Tú Xương có những sáng tác rất cảm động về vợ của mình với sự trân trọng nể vì. Vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn, xuất thân dòng dõi nho gia
“con gái nhà dòng, lấy chồng kẻ chợ”. Bà là người vợ đảm đang chịu khó, quanh năm buôn bán nơi đầu sông cuối bến để nuôi chồng ăn học cùng với đàn con thơ dại. Mọi việc lớn nhỏ trong nhà đều do một tay bà Tú gánh vác. Vì vậy, Tú Xương viết về vợ như một sự tri ân, thể hiện thái độ trân trọng của nhà thơ đối với vợ. Qua các bài Thương vợ, Văn tế sống vợ... Tú Xương đã khắc họa rõ nét và sống động hình ảnh người vợ tảo tần với những nét phẩm chất điển hình của người phụ nữ Việt Nam với những câu thơ cảm động như: “Quanh năm buôn bán ở mom sông/ Nuôi đủ năm con với một chồng/ Lặn lội thân cò khi quãng vắng/ Eo sèo mặt nước buổi đò đông,…” [9, tr. 36].
Như vậy có thể nói, tình cảm vợ chồng là một trong những tình cảm thiêng liêng cao quý vì thế các giáo điều phong kiến cũng không thể khuất lấp được. Các nho sĩ phong kiến, các nhà Nho vốn được đào luyện trong môi trường nho giáo lại chính là những người đã dám bộc bạch trực tiếp tình cảm ấy ở trong thơ. Điều này thật đáng trân trọng.
Mượn câu chuyện của người khác để giãi bày Viết về tình vợ chồng, các nhà nho trung đại không chỉ kể về chuyện tình của chính mình mà họ còn mượn nỗi lòng của kẻ khác, câu chuyện của người khác để biểu đạt tình yêu, khát vọng hạnh phúc của con người. Ở Chuyện người con gái Nam Xương (Truyền kì mạn lục), Nguyễn Dữ ca ngợi sự gắn bó son sắt trong tình cảm vợ chồng giữa Vũ Nương và Trương Sinh. Vợ chồng họ đã từng có thời gian sống hạnh phúc, không để xảy ra chuyện thất hòa. Hạnh phúc đó không chỉ do sự cố gắng của một mình Vũ Nương, mà còn do
Trương Sinh hết lòng chăm chút và nâng niu tổ ấm của mình. Tình cảm của Trương Sinh dành cho Vũ Nương hoàn toàn hồn nhiên, trong sáng và đáng quý. Thế nhưng hạnh phúc của vợ chồng họ quá ngắn ngủi. Nguyên nhân chính và sâu xa dẫn đến vợ chồng âm dương cách biệt là do “tính đa nghi”, “hay ghen” của chồng. Trong tình yêu, ghen tuông là điều khó tránh khỏi. Cơn ghen khiến người chồng mất khả năng kiểm soát hành vi của bản thân, chàng đã “mắng mỏ, nhiếc móc, đánh đuổi” vợ. Khi Vũ Nương quyên sinh, chàng Trương động lòng thương xót tìm vớt thây nàng. Đây là một hành động đáng trân trọng, thể hiện tình cảm của chàng với người vợ bất hạnh. Sống trong sự dằn vặt, hối hận, Trương Sinh đã lập đàn tràng giải oan cho Vũ Nương tại bến Hoàng Giang. Có thể nói, đó là cố gắng cuối cùng của chàng để níu kéo hạnh phúc đã mất, nhưng tất cả đã quá muộn màng.
Qua những truyện viết về tình cảm vợ chồng như Chuyện người con gái Nam Xương, Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu,...
Nguyễn Dữ muốn nhắn gửi tới người đọc một thông điệp: hãy biết trân trọng, xây dựng, bảo vệ tình cảm gia đình, hạnh phúc lứa đôi.
Có thể nói, nếu ở thế kỷ XVI, Nguyễn Dữ đã đề cập đến tình vợ chồng nhưng vẫn đậm chất giáo huấn và màu sắc hoang đường kì ảo thì từ thế kỷ XVIII trở đi, các nhà nho viết về tình vợ chồng không còn là thứ tình e ấp, bóng gió, kín đáo mà tình yêu luôn gắn với khát khao hạnh phúc ái ân. Niềm khát khao hạnh phúc ái ân ấy đã được các nhà thơ thể hiện trong những thi phẩm hàng đầu của văn chương thế kỷ XVIII – XIX như: Chinh phụ ngâm khúc (Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm), Truyền kỳ tân phả (Đoàn Thị Điểm), Cung oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều), Truyện Kiều (Nguyễn Du),...
Chinh phụ ngâm khúc là lời than thở bi đát về cuộc sống lẻ loi của người chinh phụ.
Chiến tranh đã làm cho vợ chồng nàng đang sống hạnh phúc phải chia lìa đôi ngả. Người chồng ra đi biền biệt, đến ngày hẹn mà vẫn
không trở về. Nàng sống trong tâm trạng ngóng trông, chờ đợi, khát khao có được một cuộc sống bình thường, vui vẻ hạnh phúc bên người chồng. Năm tháng qua đi, nhớ thương ngày một chất chồng trong lòng người chinh phụ. Nàng tìm đến giấc mộng ái ân với chồng để giải thoát cho nỗi nhớ mong đằng đẵng của mình:
Duy còn hồn mộng được gần, Đêm đêm thường tới giang tân tìm người.
Tìm chàng thuở Dương Ðài lối cũ, Gặp chàng nơi Tương Phố bến xưa.
(Chinh phụ ngâm khúc) [10, tr.55]
Cung oán ngâm khúc là bài ca ai oán của người cung nữ tài sắc lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân nồng nàn thắm thiết nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Nàng đã sống hết mình, yêu hết mình, nhưng tình yêu của thân phận cung nữ đã không giúp nàng tìm được hạnh phúc. Nàng sống trong tâm trạng sầu tủi, buồn bã, nhớ nhung, giận hờn, trách móc, thương cho tuổi xuân xanh của người con gái trôi qua chóng vánh. Nàng khao khát được yêu thương, được hòa hợp về thể xác và tâm hồn với người mình yêu. Nàng thấp thỏm chờ đợi sự đoái hoài của đấng quân vương.
Trong cuộc đời chờ đợi dài dằng dặc của nàng, những giây phút cùng nhà vua chung chăn chung gối được xem như một kỷ niệm lớn. Mỗi khi hồi tưởng lại ngày đầu được nhà vua sủng ái, người cung nữ vẫn còn rạo rực khát khao:
Cái đêm hôm ấy đêm gì,
Bóng dương lồng bóng đồ mi trập trùng.
(Cung oán ngâm khúc) [10, tr.147]
Đâu chỉ có Đăng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều mới viết về niềm khao khát hạnh phúc ái ân của vợ chồng, mà Nguyễn Du cũng đã đề cập tới điều này trong Truyện Kiều. Dưới ngòi bút tài tình của Nguyễn Du, tình cảm vợ chồng Thúy Kiều - Thúc Sinh trong những ngày đầu thật êm ấm và tràn ngập niềm hạnh phúc ái ân, quấn quýt:
Một nhà sum họp trúc mai, Càng sâu nghĩa bể càng dài tình sông.
Hương càng đượm lửa càng nồng, Càng sôi vẻ ngọc càng lồng màu sen.
[11, tr.244]
hay đầy bịn rịn, lưu luyến trong buổi chia tay:
Vầng trăng ai xẻ làm đôi Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
(Truyện Kiều) [11, tr.252]
Như vậy, tình cảm yêu thương, tình vợ chồng nồng ấm, thiết tha của con người không chỉ được phản ánh một cách trực tiếp qua những câu chuyện cảm động của chính các nhân vật trữ tình tự bạch - tác giả mà còn được thể hiện một cách gián tiếp. Các tác giả văn học trung đại đã mượn những nỗi niềm, những câu chuyện của người khác để thể hiện những cung bậc réo rắt của tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng. Có thể nói đây là một trong những âm hưởng đẹp nhất của văn học thời kỳ này.
KẾT LUẬN
Qua các mặt phân tích của vấn đề, chúng tôi nhận thấy, vượt qua những giáo lý “khắc kỷ, phục lễ” khắc nghiệt của lễ giáo phong kiến, các tác giả văn chương trung đại đã thể hiện rất sâu sắc tình cảm vợ chồng qua các sáng tác của mình bằng những phương thức khác nhau.
Trong bài viết này, chúng tôi đề cập đến hai phương thức cơ bản: tự bạch (các tác giả tự giãi bày câu chuyện tình vợ chồng của chính mình) và nhập vai (mượn câu chuyện của người khác để thể hiện tình cảm vợ chồng).
Qua hai phương thức phản ánh này, những cung bậc và sắc thái khác nhau trong tình cảm vợ chồng đã phản ánh sự phong phú của tâm
hồn con người Việt Nam. Từ những bài thơ nhỏ lẻ mang ý vị tình yêu của Nguyễn Trãi đến những truyện ca ngợi tình nghĩa vợ chồng trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, cho thấy chủ đề tình vợ chồng dần dần đậm nét và định hình trong văn học trung đại. Từ thế kỷ XVIII trở đi, với sự phát triển mạnh mẽ của tư tưởng nhân đạo, tinh thần dân chủ, chủ đề tình yêu nói chung, tình vợ chồng nói riêng đã nở rộ góp phần làm nên sự phong phú, đa diện của văn học Việt Nam thời trung đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Sử học (1969), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Phạm Trọng Chánh (2015), Mối tình Nguyễn Kiều và Đoàn Thị Điểm, Nguồn Chimviet.free.fr, truy cập ngày 14/04/2018.
3. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ – Những chặng đường thơ văn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Phạm Nguyễn Du (2001), Đoạn trường lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
6.http://www.thivien.net/TựĐứchoàngđế/KhócBằn gphi/poemS5saLcceaEp6YRNqcwaKrQ.
7. Lại Văn Hùng (giới thiệu và tuyển chọn) (2009), Nguyễn Khuyến tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam.
8. http://www.thivien.net/ Nhóm bài thơ: Thơ chữ Hán (Nguyễn Khuyến)
9. Vũ Văn Sỹ, Đoàn Ánh Dương (tuyển chọn và giới thiệu) (2009), Trần Tế Xương tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt Nam.
10. Lương Văn Đang - Nguyễn Thạch Giang - Nguyễn Lộc (1994), Những khúc ngâm chọn lọc, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Du, Truyện Kiều (1975), Hà Huy Giáp giới thiệu, Nguyễn Thạch Giang khảo đính và chú thích, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
SUMMARY
A BRIEF DESCRIPTION OF THE MODES OF EXPRESSING CONJUGAL SENTIMENTS IN THE VIETNAM MEDIEVAL LITERATURE
Ngo Thi Thanh Nga*, Pham Thi Hong Van TNU - University of Education
Love in general, the conjugal sentiments in particular is the noble spirit of human beings.
Therefore, the hindrances of the harsh feudal doctrine can not be hidden by such sentiments. In this article, we discuss some of the modes in which couples express feelings in the VietNam medieval literatute, namely two basic ways: self-disclosure (self-confessed authors her husband) and role play (borrowing stories of other people to express their feelings for the couple). Through these two modes of reflection, the reader is able to see the deeply cherished feelings of deep conjugal sentiments, at the same time to see the richness of the human soul in each age.
Keywords: Conjugal sentiments, Viet Nam medieval, literature, mode, self-disclosure.
Ngày nhận bài: 16/4/2018; Ngày phản biện: 06/5/2018; Ngày duyệt đăng: 29/6/2018
*Tel: 0982548560; Email: [email protected]