• Tidak ada hasil yang ditemukan

Phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực trong mổ

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực trong mổ"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

PHẪU THUẬT NỘI SOI KẾT HỢP TÁN SỎI ĐIỆN THỦY LỰC TRONG MỔ ĐIỀU TRỊ SỎI ĐƯỜNG MẬT CHÍNH

TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƯƠNG CẦN THƠ

Nguyễn Khắc Nam1*, Nguyễn Văn Lâm2 1. Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ 2. Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ

*Email: [email protected]

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Phẫu thuật để điều trị sỏi ống mật chủ là mổ mở ống mật chủ lấy sỏi và dẫn lưu đường mật. Theo xu thế phát triển của y học, nhiều trung tâm đã ứng dụng phẫu thuật nội soi vào điều trị sỏi đường mật chính kết hợp với tán sỏi trong mổ. Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và đánh giá kết quả điều trị sỏi đường mật chính bằng phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực trong mổ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: chúng tôi thực hiện nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu cho 44 trường hợp sỏi đường mật chính được phẫu thuật nội soi và tán sỏi điện thủy lực từ tháng 03 năm 2018 đến tháng 05 năm 2019 tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ. Kết quả: Tỷ lệ mổ nội soi thành công 97,7%, có 1 trường hợp chuyển mổ mở. Thời gian mổ trung bình: 208,9 ± 63,6 phút. Tỷ lệ sạch sỏi 52,3%.

Nội soi đường mật ống mềm trong mổ lấy sỏi, tán sỏi có hiệu quả sạch sỏi ở thì đầu cao ở nhóm chỉ có sỏi ngoài gan 94,1%. Tỷ lệ biến chứng 6,9%, không có tử vong. Thời gian phục hồi lưu thông ruột sau mổ trung bình 2,3 ± 0,9 ngày. Thời gian hậu phẫu trung bình: 9,6 ± 3,4 ngày. Kết quả sớm sau mổ: tốt 52,3%, trung bình 45,4% và 2,3% kết quả xấu. Kết luận: phẫu thuật nội soi điều trị sỏi đường mật chính có hỗ trợ soi đường mật trong mổ là phương pháp hiệu quả, an toàn.

Từ khóa: Phẫu thuật nội soi, sỏi mật, sỏi đường mật chính

ABSTRACT

LAPAROSCOPIC COMMON BILE DUCT EXPLORATION COMBINED WITH ELECTROHYDRAULIC LITHOTRIPSY FOR TREATMENT OF BILIARY

STONES

AT CAN THO CENTRAL HOSPITAL

Nguyen Khac Nam1*, Nguyen Van Lam2 1. Can Tho Central Hospital 2. Can Tho University of Medicine and Pharmacy Background: Surgery to treat a common bile duct stone is to open a common bile duct to remove stones and drain the bile ducts. Following the development trend of medicine, many centers have applied laparoscopic surgery combined with lithotripsy in surgery to treat common biliary tract stones. Objectives:

To describe clinical and subclinical characteristics. To evaluate the results of treatment of biliary tract stones by laparoscopic surgery combined with electrohydraulic lithotripsy in surgery., Materials and methods: From March 2018 to May 2019, 44 patients were undergone laparoscopic common bile duct exploration combined with electrohydraulic lithotripsy. We performed a prospective cross-sectional study on 44 cases of biliary tract stones undergoing endoscopic surgery combined with electrohydraulic lithotripsy from March 2018 to May 2019 at Can Tho central hospital. Results: Laparoscopy was done in most cases. The rate of conversion to open surgery was 2,3%. Mean operating time was 208 minutes. The rate of stones- clearance was 52,3%. Choledochectomy with electrohydraulic lithotripsy for extrahepatic stones was 94,1%. Morbidity rate was 6,9%. The mean time of gas out was 2,3 days. Length of postoperative time was 9,6 ± 3,4 days. The early results were good 52,3%, immediate 45,4%, bad 2,3%, respectively. Conclusion:

Laparoscopic management of common bile duct stones is an efficient and safe method.

Keywords: Laparoscopy, biliary stones, common bile duct stones

(2)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Sỏi đường mật là một bệnh lý thường gặp và khá phổ biến ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới. Ở Mỹ, tỷ lệ sỏi mật ở người nam giới da trắng là 8,6%, nữ giới là 16,6%, ở châu Âu tỷ lệ cao hơn một chút ở khoảng 20%, ở châu Á tỷ lệ sỏi mật khoảng 5,3% đối với nam, 13,9%

đối với nữ, riêng một số vùng ở châu Phi tỷ lệ sỏi mật rất thấp, dưới 5% [7].

Điều trị sỏi đường mật chính có nhiều phương pháp khác nhau như mổ mở ống mật chủ lấy sỏi đơn thuần, có thể kèm theo cắt túi mật, lấy sỏi qua nội soi mật tụy ngược dòng, lấy sỏi mật qua da…

nhằm loại bỏ hết sỏi, hạn chế tái phát, mau hồi phục. Tuy nhiên, đến nay phẫu thuật vẫn chiếm vai trò quan trọng.

Tại Bệnh viên đa khoa Trung Ương Cần Thơ PTNS ổ bụng mở ống mật chủ kết hợp tán sỏi thủy điện lực trong mổ điều trị sỏi đường mật chính đã được thực hiện từ giữa năm 2017 nhưng đến nay vẫn chưa có nghiên cứu nào cho phẫu thuật này được thực hiện. Do đó nhằm đánh giá những thành công, tiến bộ, phạm vi áp dụng PTNS mở ống mật chủ lấy sỏi điều trị sỏi đường mật chính đến đâu? Tỷ lệ sạch sỏi, tai biến biến biến chứng ra sao? Với mong muốn ứng dụng thành công kỹ thuật này, mang lại lợi ích thiết thực cho người bệnh chúng tôi thực hiện đề tài này.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu gồm những bệnh nhân điều trị sỏi đường mật chính bằng phẫu thuật nội soi kết hợp tán sỏi điện thủy lực trong mổ tại Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ từ 03/2018 đến tháng 06/2019.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Qua 44 trường hợp được phẫu thuật, trong đó có 18 nam (40,9%) và 26 nữ (59,1%%). Tuổi trung bình là 56,2 ± 14,4 tuổi, cao nhất 91 tuổi, nhỏ nhất 22 tuổi. Đa số các bệnh nhân trong nghiên cứu đều sinh sống ở nông thôn (chiếm 86,4%) và cao gấp 6 lần số bệnh nhân sống ở thành thị.

Bệnh nhân chiếm tỉ lệ cao là nhóm mất sức lao động 38,6% và nông dân 36,4%. Công nhân viên và nội trợ chiếm tỉ lệ thấp, đều là 6,8%.

Thời gian phẫu thuật trung bình 208,9 ± 63,6 (130 – 400) phút.

Sạch sỏi trước khi ra viện: được đánh giá dựa trên nội soi đường mật trong mổ, siêu âm ổ bụng sau mổ và X-quang đường mật qua Kehr.

Bảng 1. Triệu chứng lâm sàng

Triệu chứng Số BN Tỉ lệ (%)

Đau bụng 43 97,7

+ Thượng vị 3 6,8

+ Hạ sườn P 27 61,4

+ Cả hai 13 29,5

Sốt 7 15,9

Vàng da, vàng mắt 12 27,3

Tiểu sậm màu 1 2,3

Ngứa 2 4,5

Tam chứng Charcot 1 2,3

Đề kháng hạ sườn phải 2 4,5

Bảng 2. Xét nghiệm máu

Chỉ số Số BN Tỷ lệ (%)

Bạch cầu < 10000 23 52,3

≥ 10000 21 47,7

(3)

Trung bình 12.333,2 ± 6351,7 (6.030 – 40.900) Bilirubin TP

Bình thường 17 38,6

Tăng 27 61,4

Trung bình 53,3 ± 63,5 (4,3 - 251,6)

Bilirubin TT

Bình thường 11 25

Tăng 33 75

Trung bình 37,4 ± 48,0 (0,6 – 202,0)

AST Bình thường 14 31,8

Tăng 30 68,2

ALT Bình thường 14 31,8

Tăng 30 68,2

Amylase

Bình thường 20 71,4

Tăng 8 28,6

Không thử 16

Bảng 3. Vị trí sỏi trên siêu âm, cắt lớp vi tính, phẫu thuật Vị trí Siêu âm

n (%)

Phù hợp siêu âm với phẫu thuật

n (%)

CLVT n (%) N=40

Phù hợp CLVT với phẫu thuật n (%) N=40

Phẫu thuật

Sỏi túi mật 27 (61,4) 75% 16

(40)

28

(70) 28 (63,6%)

Sỏi OMC 43 (97,7) 97,7% 29 (72,5) 29

(72,5) 44 (100%)

Sỏi gan

phải 28 (63,6) 72,7% 15 (37,5) 29

(72,5) 25 (56,8%)

Sỏi gan trái 26 (59,1) 72,7% 14 (35) 26

65% 27 (61,4%)

Bảng 4. Kết quả sạch sỏi

Kết quả Số TH Tỉ lệ (%)

Sót sỏi 21 47,7

Sạch sỏi 23 52,3

Tổng 44 100

Bảng 5. Biến chứng sau mổ

Biến chứng Số TH Tỉ lệ (%)

Nhiễm trùng vết mổ 1 2,3

Mất ngủ, suy nhược thần kinh 1 2,3

Suy tim, rung nhĩ 1 2,3

Không 41 93,1

Tổng 44 100

IV. BÀN LUẬN

Bệnh sỏi mật có thể gặp ở nhiều lứa tuổi khác nhau, nữ mắc bệnh nhiều hơn nam giới. Một nghiên cứu bệnh sỏi mật tại Bệnh viện Việt Đức 5773 TH cả sỏi túi mật và sỏi đường mật chính thấy tỷ lệ nam chiếm 45%, nữ 55% [4]. Theo Petelin J.B. (2003) tỷ lệ PTNS mở OMC lấy sỏi ở nữ gấp 2 lần nam giới [13].

Triệu chứng lâm sàng của sỏi đường mật chính rất đa dạng, phổ biến nhất là đau bụng. Vị trí đau

(4)

có thể là vùng hạ sườn phải hoặc thượng vị. Các nghiên cứu trong nước cũng thấy rằng triệu chứng đau bụng là thường gặp nhất. Về tiền sử có 8 TH đã phẫu thuật sỏi đường mật, trong đó có 2 TH đã mổ sỏi mật 2 lần. Tiền sử phẫu thuật mở OMC lấy sỏi 10/46 TH chiếm 21,8% và 2/46 (4,3%) TH có tiền sử phẫu thuật cắt túi mật. Tiền sử phẫu thuật vùng bụng trong nghiên cứu Nguyễn Hoàng Bắc (2007) 15,8%, Trần Mạnh Hùng (2012) 6,6% [1], [3] [5] [1].

Siêu âm là một phương tiện rẻ tiền, dễ thực hiện, có thể thực hiện nhiều lần, đánh giá được sơ bộ tình trạng đường mật. Khi đối chiếu kết quả siêu âm trước mổ với kết quả phẫu thuật thì mức độ phù hợp siêu âm chẩn đoán sỏi OMC chính xác cao nhất 97,7%, sỏi túi mật 75%, sỏi gan phải và sỏi gan trái 72,7%. Đối chiếu sự phù hợp giữa kết quả chụp CLVT và phẫu thuật kết quả phù hợp vị trí sỏi OMC là 72,5%, sỏi túi mật 70%, sỏi gan phải 56,8%, gan trái 65%.

Chúng tôi có 16/44 TH sỏi ngoài gan: sỏi OMC kèm sỏi túi mật và tiến hành PTNS mở OMC lấy sỏi đường mật chính và cắt túi mật cho kết quả tốt. Chúng tôi nhận thấy rằng PTNS lấy sỏi OMC và cắt túi mật một thì là một phương pháp lựa chọn hợp lý cho điều trị sỏi OMC kèm theo sỏi túi mật.

Tại cơ sở chúng tôi thực hiện ERCP lấy sỏi những trường hợp sỏi OMC < 20mm. Chúng tôi thực hiện PTNS cho 17 TH sỏi OMC đơn thuần kết quả tốt. Vì vậy, chúng tôi chỉ định PTNS thay ERCP lấy sỏi cho các TH sỏi OMC đơn thuần có kích thước sỏi ≥ 20mm.

Do đặc điểm sỏi đường mật chính ở nước Âu Mỹ khác với Việt Nam nên các nghiên cứu ở nước ngoài về PTNS điều trị sỏi đường mật chính ở bệnh nhân mổ lại ít đề cập đến. Li L.B. và CS (2008) PTNS điều trị sỏi mật mổ lại cho 39 TH thất bại hoặc không thực hiện ERCP lấy sỏi được. Kết quả tỷ lệ thành công 97%, thời gian mổ 135 phút, thời gian nằm viện 4 ngày, không tai biến liên quan đặt trocar, 1 TH tai biến thủng tá tràng, xử lý bằng nội soi, không có tử vong, chảy máu sau mổ, rò tiêu hóa. Tỷ lệ chuyển mổ mở 2,5% do khó bộc lộ OMC. Tác giả nhận định PTNS cho những TH sỏi mật mổ lại là an toàn và tin cậy nếu người PTV có kinh nghiệm PTNS. Đây là một lựa chọn thay thế cho những TH quá chỉ định hay thất bại với ERCP lấy sỏi [15]. Chen B. và CS (2016) thực hiện 26 TH cho kết quả tốt [6].

Trước đây, một trong những chống chỉ định của PTNS là bệnh nhân có tiền sử mổ vùng bụng nói chung và mổ mật nói riêng. Lý do là có thể tổn thương tạng khi đặt trocar, các tạng dính lên sẹo mổ làm cản trở thao tác, giới hạn phẫu trường, giới hạn khả năng gỡ dính của PTNS. Để khắc phục nhược điểm này chúng tôi có thể đặt trocar xa vết mổ cũ hoặc đặt trocar đầu tiên theo phương pháp mở, phương pháp Hasson [14]. Theo Zhu J. và CS (2018) vết mổ cũ không còn là chống chỉ định của PTNS [11]. Theo Huang Y. và CS (2017) PTNS mở OMC lấy sỏi là một phẫu thuật an toàn và khả thi có những bệnh nhân có tiền sử phẫu thuật vùng bụng kể cả vùng bụng trên [15]. Theo Tian J. và CS (2013) PTNS điều trị sỏi trong gan mổ mật lại là một phẫu thuật an toàn và khả thi những TH chọn lọc [10]. Chúng tôi có 8 TH có tiền sử phẫu thuật sỏi đường mật chính với sẹo mổ trên rốn và 2 TH cắt túi mật nội soi. Tỷ lệ mổ mật lại được thực hiện thành công 100%

TH. Mặc dù thời gian mổ của nhóm mổ lần đầu ngắn hơn nhóm mổ lại sự khác biệt khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,001), nhưng tỉ lệ sót sỏi trước khi ra viện giữa 2 nhóm không có sự khác biệt (p= 0,188). Vì vậy, chúng tôi chỉ định cho những TH có sẹo mổ vùng bụng và sỏi mật mổ lại thường quy. Việc chỉ định PTNS điều trị sỏi mật chúng tôi có cùng nhận định với Nguyễn Hoàng Bắc (2007): chỉ định PTNS điều trị sỏi đường mật chính không xét đến bệnh nhân có mổ mật hay chưa [1].

Trong nghiên cứu của chúng tôi vị trí sỏi ngoài gan 38,6%, sỏi cả trong gan và ngoài gan chiếm 61,4%. 28 TH sỏi đường mật có sỏi túi mật kèm theo chiếm 63,6%.

Trong nghiên cứu của chúng tôi sót sỏi chủ động trong mổ sau NSĐM là 43,2%, nhưng hậu phẫu kiểm tra qua siêu âm và chụp X-quang đường mật qua Kehr phát hiện thêm 2 TH còn sỏi trong

(5)

đường mật chiếm tỉ lệ 47,7%. Tỉ lệ sạch sỏi đường mật sau mổ của chúng tôi không cao do bệnh nhân có sỏi trong gan chiếm tỉ lệ nhiều (61,4%), nhiều sỏi (81,8% nhiều hơn 2 viên sỏi), sỏi dạng cây và do điều kiện trang thiết bị nên chúng tôi chưa thực hiện được chụp X-quang đường mật trong mổ.

Thời gian mổ trung bình trong nghiên cứu của chúng tôi là: 208,9 ± 63,6 phút. Thời gian mổ của chúng tôi kéo dài hơn thời gian phẫu thuật trung bình của Trần Mạnh Hùng (2012) 68 phút (dao động 45 đến 120 phút) và của Nguyễn Hoàng Bắc (2007) trung bình 117 phút (dao động từ 35 đến 270 phút), của Berthou J.C. và CS (2007) 124 phút (dao động 40 - 360 phút), của Lee H.M. và CS (2014) 187 ± 67,0 phút và Nguyễn Khắc Đức (2010) có thời gian mổ trung bình 150 phút (dao động 80 - 320 phút) [3], [1], [14].

Thời gian phẫu thuật trong nghiên cứu của chúng tôi có kéo dài so với một số tác giả khác là do:

Tỷ lệ sỏi mật mổ lại trong nghiên cứu của chúng tôi cao 18,2%. Nghiên cứu Trần Mạnh Hùng (2012) chỉ thực hiện những TH sỏi mật lần đầu, Nguyễn Hoàng Bắc (2007) có 7/172 TH mổ mật lại, Nguyễn Khắc Đức (2010) có 7/148 TH mổ mật lại [3], [1].

Theo thống kê của chúng tôi thời gian mổ trung bình nhóm sỏi mật mổ lại 273,1 phút kéo dài hơn so với nhóm mổ sỏi mật lần đầu có thời gian mổ trung bình 194,7 phút và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Nguyễn Hoàng Bắc (2007) có nhận định thời gian mổ trung bình nhóm sỏi mật mổ lại có thời gian mổ là 134,3 phút so với nhóm lần đầu 115,2 phút nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê [1].

Tán sỏi trong mổ khi NSĐM phát hiện sỏi là một trong những nguyên nhân kéo dài thời gian mổ. Nguyễn Hoàng Bắc (2007) 25,5%, Trần Mạnh Hùng (2012) không NSĐM và tán sỏi trong mổ [1], [3].

Do đường cong huấn luyện. Phẫu thuật này mới triển khai ở cơ sở của chúng tôi từ năm 2017.

Nguyễn Khắc Đức (2010) thực hiện nghiên cứu kéo dài 8 năm 2000 - 2008 thời gian mổ giai đoạn 4 năm đầu kéo dài hơn thời gian mổ 4 năm tiếp theo và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê và thời gian mổ khởi đầu nghiên cứu kéo dài hơn 170 phút và sẽ giảm dần những năm tiếp theo [2]. Trần Mạnh Hùng (2012) kinh nghiệm, thành thạo về kỹ thuật của PTV và e kíp phẫu thuật có vai trò quan trọng trong việc rút ngắn thời gian mổ [3]. Nguyễn Hoàng Bắc (2007): thời gian mổ giữa nhóm sỏi mật mổ lần đầu và mổ lại cũng như nhóm bệnh nhân > 70 tuổi và nhóm < 70 tuổi không khác nhau có ý nghĩa thống kê nhưng giữa nhóm có cắt túi mật và không cắt túi mật khác nhau có ý nghĩa [1].

Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy rằng: nhóm có sỏi trong gan, nhóm có cắt túi mật có thời gian mổ kéo dài hơn nhóm chỉ có sỏi ngoài và nhóm không cắt túi mật nhưng sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.

Thời gian phục hồi lưu thông ruột sau mổ trung bình 2,3 ngày. Thời gian mổ kéo dài của PTNS mở OMC lấy sỏi không làm chậm thời gian trung tiện.

Thời gian nằm viện trung bình 14,9 ± 5,3 ngày. Ngắn nhất 7 ngày, dài nhất 37 ngày. Thời gian hậu phẫu trung bình 9,68 ± 3,41 ngày. Ngắn nhất 5 ngày, dài nhất 26 ngày. Thời gian hậu phẫu của nhóm mổ lần đầu và nhóm mổ do sỏi tái phát không có sự khác biệt (p=0,33).

Grubnik V. và CS (2012) nghiên cứu so sánh giữa mổ mở và mổ nội soi thì thời gian nằm viện nhóm mổ nội soi ngắn hơn [9]. Theo Trần Mạnh Hùng (2012) không có mối liên quan về thời gian nằm viện sau mổ và thời gian phẫu thuật dù xét về sự tương quan thì thấy có sự tương quan nhưng không chặt chẽ [3]. Nguyễn Hoàng Bắc (2007) thời gian nằm viện sau mổ phụ thuộc vào có hay không có dẫn lưu Kehr, có sót sỏi hay không [1].

Theo Decker G. và CS (2003) thời gian nằm viện sau mổ ngoài yếu tố hồi phục của BN còn phụ thuộc vào cơ sở điều trị, điều kiện kinh tế xã hội [8].

(6)

Tỷ lệ sót sỏi của chúng tôi cao hơn Nguyễn Hoàng Bắc (2007) nhưng thấp hơn tác giả Nguyễn Khắc Đức (2010), Lê Quốc Phong và CS (2011).

Khi so sánh tỷ lệ sạch sỏi sau mổ nhóm chỉ có sỏi ngoài gan tỷ lệ sạch sỏi là 94,1% cao hơn nhóm có sỏi trong gan tỷ lệ sạch sỏi là 25,9% và sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ sạch sỏi sau mổ các TH PTNS cho nhóm mổ lần đầu cao hơn nhóm mổ mật lại: 58,3% so với 25% nhưng sự khác nhau này không ý nghĩa thống kê.

Biến chứng chung của chúng tôi là 6,9% (3/44 TH): 1 TH hậu phẫu ngày 14 suy tim, rung nhĩ được hồi sức nội khoa tại khoa nội tim mạch, hậu phẫu ngày 26 tình trạng tim mạch của bệnh nhân không cải thiện nên được chuyển bệnh viện tuyến trên. 1 ca bệnh nhân 91 tuổi mất ngủ, suy nhược thần kinh được điều trị bằng thuốc an thần, hậu phẫu ngày thứ 14 toàn trạng ổn được xuất viện. 1 TH nhiễm trùng vết mổ điều trị nội, TH này bệnh nhân phẫu thuật qua nội soi sau đó chuyển mổ mở đường giữa trên rốn. Hậu phẫu ngày 13 bệnh ổn và xuất viện.

Phẫu thuật nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi điều trị sỏi đường mật chính nên được áp dụng thường quy tại các bệnh viện có điều kiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Hoàng Bắc (2007), Chỉ định của phẫu thuật nội soi trong điều trị sỏi đường mật chính, Luận án Tiến sĩ y học, Trường Đại học Y Dược TP.Hồ Chí Minh.

2. Nguyễn Khắc Đức (2010), "Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi để điều trị sỏi đường mật ngoài gan," Luận án tiến sỹ Y học, Hà Nội.

3. Trần Mạnh Hùng (2012), "Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi mở ống mật chủ lấy sỏi không dẫn lưu đường mật", Luận án tiến sỹ Y học, Học viện Quân Y.

4. Đỗ Kim Sơn, Đoàn Thanh Tùng, Trần Gia Khánh và cộng sự (2000), "Nghiên cứu và điều trị phẫu thuật bệnh lý sỏi mật tại bệnh viện Việt Đức (5773 trường hợp phẫu thuật từ 1976 đến 1998)", Ngoại khoa. 2, tr. 18-23.

5. Sharma A., Dahiya P. and Khullar R. (2012), "Management of common bile duct stones in the laparoscopic era", Indian J Surg. 74(3), pp. 264-269.

6. Chen B., Hu S.Y. and Wang L. (2016), "Reoperation of biliary tract by laparoscopy: a consecutive series of 26 cases", Acta Chir Belg. 107(3), pp. 292-296.

7. Byung I. Choi, Yae Y. Lee (2011), "Gallbladder and bile ducts", Manual of diagnostic ultrasound,. chapter 8, WHO press, pp. 167 – 191.

8. Decker G., Borie F. and Millat B. (2003), "One hundred laparoscopic choledochotomies with primary closure of the commo bile duct", Surg Endosc. 17(1), pp. 12-18.

9. Grubnik V, Tkachenko A and Ilyashenco V (2012), " Laparoscopic common bile duct exploration versus open surgery: comparative prospective randomized trial", Surg Endosc.

26(8), pp. 2165-2171.

10. Hasson H.M. (1971), "A modified instrument and method for laparoscopy", Am J Obstet Gynecol. 110(6), pp. 886-887.

11. Tian J., Li J.W. and Chen J. (2013), "The safety and feasibility of reoperation for the treatment of hepatolithiasis by laparoscopic approach", Surg Endosc. 27(4), pp. 1315-1320.

12. Zhu J., Sun G. and Hong L. (2018), "Laparoscopic common bile duct exploration in patients with previous upper abdominal surgery", Surg endosc. 32(12), pp. 4893-4899.

13. Petelin J.B. (2003), "Laparoscopic common bile duct exploration", Surg Endosc. 17, pp. 1705- 1715.

14. Berthou J.C., Dron B. and Charbonneau B. (2007), "Evaluation of laparoscopic treatment of common bile duct stones in a prospective series of 505 patients: indications and results", Surg Endosc. 21(11), pp. 1970-1974.

15. Li L.B., Cai X.J. and Mou J.P (2008), "Reoperation of biliary tract by laparoscopy: experiences with 39 cases", WJG. 14(19), pp. 3081-3084.

(7)

(Ngày nhận bài: 04/09/2019 - Ngày duyệt đăng bài:03/10 /2019)

Referensi

Dokumen terkait