VÀN HÓA - XÀ HỘI
Phụ nữ Việt Nam trong
N
ếu như trước đây, trong thời chiến, 8 chữ vàng“anh hùng - bất khuất -
trung hậu - đảm đang” là những phẩm chất tốt đẹp của người phụ
nữ Việt Nam thì ngày nay, khi đất nước hòa bình, xã hội phát triển mạnh mẽ, Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng, phụ nữ thể hiện rõ nét những phẩm chất mới, nổi bật như: năng động, sáng tạo; tự tin, tự trọng; dám nghĩ, dám làm. Phụ nữ đóng góp tích cực vào đời sống kinh tế - xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi và phát huy vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; hoạt động nghiên cứu khoa học; đầu tư phát triển sản xuất, quản trị doanh nghiệp; tham gia công tác xóa đói giảm nghèo; phòng chông tệ nạn xã hội; thúc đây hoạt động đối ngoại... Ngày càng có nhiều người trở thành chính trị gia, nhà khoa học nổi tiếng, nhà quản lý năng động, nhà hoạt động xã hội uy tín...
Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ Việt Nam cũng như 36II TàỊ^hính số 05 (3/2021)
nhiều phụ nữ các nước trên thế giới qua các thời kỳ đã chứng minh năng lực vượt trội, trí tuệ và bản lĩnh kiệt xuất. Không ít phụ nữ đã trở thành lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước, lãnh đạo các bộ, ban ngành với nhiều đóng góp cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước cũng như sự nghiệp đôi mới.
Trong lĩnh vực kinh tế, tỷ lệ phụ nữ làm chủ doanh nghiệp đã lên đến hon 31%, đưa Việt Nam vào danh sách những quốc gia có thứ hạng cao về chỉ số cơ hội và sự tham gia của phụ nữ trong nền kinh tế. Tiêu biêu như nữ doanh nhân Mai Kiều Liên - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) trở thành người phụ nữ Việt Nam duy nhất 3 lần được Tạp chí Forbes vinh danh là một trong 50 nữ doanh nhân quyền lực nhất châu Á (ASIA Power Businesswomen) hay bà Nguyễn Thị Mai Thanh - Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần
ị nguyên sô
XUÂN LINH
Cơ điện lạnh (REE) đã từng được Tạp chí Forbes vinh danh và xếp thứ 28 trong danh sách 48 nữ doanh nhân quyền lực nhất châu Á.
Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (CMCN 4.0) đang diễn ra mạnh mẽ tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là ở Việt Nam. Cùng với sự chuyển dịch toàn bộ các hệ thống sản xuất, quản lý và quản trị, CMCN 4.0 đem lại nhiều cơ hội và thách thức trong lĩnh vực việc làm, phá vỡ sự phân công lao động cứng nhắc theo giới, tạo cơ hội để người phụ nữ phát huy vai trò trong nền kinh tế.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, việc áp dụng cơ giới hóa là chìa khóa giúp lao động nữ nâng cao năng suất lao động và đa dạng hóa kinh te nông nghiệp, giảm thiểu sự phụ thuộc sức lao động chân tay, vốn là điểm yếu của giới nữ.
Trong lĩnh vực sản xuất, việc ứng dụng những tiến bộ công nghệ có tiềm năng dịch chuyển lao động nữ sang những công việc yêu cầu tay nghề cao hơn mang lại năng suất cao hơn như dệt may, quần áo, giày dép, ngành điện tử và các thiết bị ngành điện...
Trong lĩnh vực dịch vụ, việc sử dụng các thiết bị di động và mức độ tiếp cận internet rộng rãi ngày càng gia tăng đã tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia vào thị trường nhiều hơn. Sự xuất hiện của nền kinh tế tạm thời, nền
VĂN HÓA - XÃ HỘI
táng số, việc làm tự do và thương mại điện từ đã tạo ra những hình thức việc làm mới có thể được thực hiện từ xa.
Mặc dù việc chuyển đôi từ thâm dụng lao động sang thâm dụng trí tuệ, tri thức, khoa học, sáng tạo... giúp gia tăng hiệu quả làm việc, nhưng cũng làm cho thị trường việc làm dễ biến chuyên, khi rất nhiều người sẽ đối mặt với nguy cơ thất nghiệp, đặc biệt đối tượng dễ bị tổn thương như phụ nữ. Trong nhiều trường họp, người phụ nữ không nhận được sự đối xử công bằng và vì thế những đóng góp của họ với xã hội chưa được công nhận tương xứng và thích đáng.
Cùng với đó, phụ nữ vẫn khó khăn hơn nam giới trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội, nhất là các nhóm lao động nữ nghèo, nữ nông thôn, nữ di cư, nữ dân tộc thiểu số... Thu nhập giữa lao động nữ và lao động nam tại Việt Nam còn chênh lệch. Trong giai đoạn 2009 - 2019, tiền lương bình quân của nữ luôn thấp hơn của nam, mức chênh lệch tương đương khoảng 30 USD. Theo ông Đào Quang Vinh, Viện trưởng Viện Khoa học lao động và Xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), tình trạng chênh lệch chắc chăn sẽ tăng thêm trong bối cảnh ứng dụng CMCN 4.0, lương sẽ trả cao cho người lao động tay nghề cao, thạo kỹ thuật số, mà lao động nữ phần nhiều sẽ khó đáp ứng được nếu như họ không được hồ trợ đào tạo.
Theo kết quả nghiên cứu của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) về thị trường lao động Việt Nam trong 10 năm tới, những công việc có thể được thay thế bằng hệ thống máy móc tự động hóa gồm: nông - lâm -
thủy sản, cồng nghiệp chế biến - chế tạo, bán buôn bán lẻ. Ớ Việt Nam, số việc làm phụ nữ đang đảm nhiệm có khả năng sẽ bị chuyến sang tự động hóa (cao gần 2,4 lần so với nam giới).
Ngoài ra, lao động nữ chiếm tới 63% tổng số lao động đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất và đa số có tuổi đời từ 18 đến 24. Những ngành, nghề đang sử dụng nhiều lao động, có tỷ lệ lao động là nữ chiếm khoảng 80 - 90% như da giầy, dệt may, chế biến thủy sản... có nguy cơ bị máy móc thay thế. Điều đó đồng nghĩa với việc một lực lượng không nhỏ lao động trẻ là nữ đứng trước nguy cơ bị mất việc làm trong tương lai không xa nếu như không kịp trang bị kỹ năng, hiểu biết về công nghệ.
Theo bà Tôn Nữ Thị Ninh (từng là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam), việc làm chủ công nghệ góp phần giúp phụ nữ làm chủ cuộc sổng.
Chính việc đóng vai trò là cầu nối giữa con người và thông tin, công nghệ trở thành một công cụ quan trọng trong việc mở rộng cơ hội cho phụ nữ, nhất là giới trẻ. Những lợi thế của phụ nữ như tinh thần cầu tiến, sẵn sàng học hỏi và kiên trì, suy nghĩ đột phá sẽ là bàn đạp cho họ phát triển, tạo bước ngoặt cho phụ nữ là khi họ dám đổi mới, sáng tạo. Như vậy, để ứng dụng được những thành tựu của cuộc CMCN 4.0 vào cuộc sống, phụ nữ cần tích cực học tập và lao động sáng tạo, cần rèn luyện tốt các phẩm chất, đạo đức “tự tin, tự trọng, trung hậu, đảm đang” - đó là chìa khóa để mở cửa, tiếp cận và khai thác cuộc CMCN 4.0 một cách hiệu quả nhất o
TINQUỐC TẾ
Kinhtế thế giới sẽ tăng trưởng 4,7% trongnăm 2021
Liên hợp quốc dự báo kinh tế thê giới sẽ tăng trưởng 4,7% trong năm 2021, sau khi giảm 4,3%
trong năm 2020 do dịch Covid-19.
Các nền kinh tể phát triển giảm 5,6% trong năm 2020 và sẽ tăng trưởng 4% trong năm 2021, trong khi các nền kinh tế đang phát triên giảm 2,5%> trong năm 2020 và tăng trưởng 5,7%) trong năm 2021. Các nền kinh tế phát triển và mới nổi hàng đầu thế giới vẫn rất cần phục hồi tăng trưởng, không chỉ đế thúc đấy phần còn lại của thế giới mà còn đế tăng' khả năng chong đỡ của kinh tể toàn cầu trước các “cú sốc ” trong tương lai.
Dòng vốn FDI toàn cầu năm 2020giảm 42%
Hội nghị Liên hợp quổc về thương mại và phát triền (UNCTAD)' cho biết, dòng vốn FDI toàn cầu năm 2020 đạt 859 tỷ USD, giảm 42% so với nắm 2019, giảm 30%) so với đáy khùng hoảng tài chính toàn cảu năm 2009.
Nguyên nhân là do hoạt'động xây dựng nhà máy hay thiêt Ịập văn phòng vệ tinh tại các quôc gia bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi dịch bệnh. Nam 2020, vốn FDI chảy vào Hoa Kỳ giảm 49%) (thấp hơn nhiêu so với mức giảm bình qụân 69%) của các nước phảt triên), chảy vào Liên minh châu Âu (EU) sụt giảm 2/3 so với năm 2019, Vương quốc Anh không đón thêm dòng vón FDI.
Co’quan Năng lương quốc tế hạ dự báo nhu cầu dầu mỏ nằm 2021
Cơ quan Năng lượng quốc tế (IEA) ước tỉnh nhu cầu dầu mỏ trong quỷ 1/2021 giảm 0,6 triệu thùng/ngày so với dự báo trước đó, trong khỉ nhu cầu dầụ mỏ cả năm 2021 cũng được điều chỉnh giảm 0,3 triệu thùng/ngày. Dự báo mới của 1EA được đưa ra trong bối cảnh giới chức nhiều nước đang áp dụng các biện pháp giãn cách xã' hội nghiêm ngặt hơn nhằm đối phó với làn sóng lây lan Covid-19 mới0
TriỔẸỊGTIN
Tà^nính Số 05(3/2021)1137