VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở TỈNH BẮC KẠN
Lương Thị Hạnh*
Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Do cư trú ở miền núi, điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng “trọng nam khinh nữ” đã khiến phụ nữ dân tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn luôn sống trong tâm trạng cam chịu, ngại thay đổi và khó bắt nhịp với cái mới. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, bên cạnh thiên chức làm dâu, làm vợ, làm mẹ, phụ nữ các dân tộc thiểu số ngày càng thể hiện vai trò then chốt trong quán xuyến tổ chức cuộc sống gia đình, đến việc tham gia các khâu trong trồng trọt, chăn nuôi, tạo thu nhập, nâng cao mức sống cho gia đình (với hơn 70% lao động nữ trực tiếp sản xuất nông nghiệp). Điều đó cho thấy phụ nữ các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Kạn chính là chủ thể quan trọng, là nhân tố tích cực góp phần hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
Từ khóa: Phụ nữ, dân tộc thiểu số, vai trò, nông thôn mới, Bắc Kạn,…
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH BẮC KẠN *
Phụ nữ dân tộc thiểu số là thuật ngữ dùng để chỉ cộng động phụ nữ thuộc các thành phần dân tộc có số lượng dân cư ít hơn người Kinh (tộc người đa số) sinh sống ở các khu vực của nước ta. Là một bộ phận của phụ nữ Việt Nam, phụ nữ các dân tộc thiểu số mang trong mình cả đặc điểm, phẩm chất, tiềm năng nổi bật của phụ nữ Việt Nam, cả đặc điểm, tiềm năng của phụ nữ dân tộc thiểu số do sống trong môi trường tự nhiên - niềm núi, và môi trường xã hội – dân tộc thiểu số tạo nên, đó là: đức tính cần cù, phẩm chất thật thà, khéo léo và sáng tạo trong mọi công việc, có sức khỏe dẻo dai được rèn luyện trong môi trường tự nhiên khắc nghiệt, hết lòng vun vén cho cuộc sống gia đình, tạo nên sự yên ổn, êm ấm trật tự trên dưới cho gia đình và cho xã hội.
Tuy nhiên, do sống trong điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, hoàn cảnh kinh tế khó khăn, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc của tư tưởng “tam tòng, tứ đức” đã khiến phụ nữ dân tộc thiểu số luôn sống trong tâm trạng cam chịu, ngại thay đổi và khó bắt nhịp với cái mới. Những vấn đề bất cập của phụ nữ dân tộc thiểu số hiện nay cũng là những vấn đề lớn và đòi hỏi phải
*Tel: 0914892999, Email: [email protected]
có biện pháp khắc phục. Đó là những hạn chế về trình độ học vấn, trình độ chuyên môn, nghề nghiệp, điều kiện chăm sóc sức khỏe và đặc biệt là tâm lí tự ti với những thói quen truyền thống, những hủ tục lạc hậu, trọng nam khinh nữ là rào cản lớn nhất đối với phụ nữ các dân tộc thiểu số ở tỉnh Bắc Kạn trong việc phát huy những thế mạnh của mình vào quá trình phát triển kinh tế cho gia đình và cho xã hội [4].
So với phụ nữ miền xuôi (người Kinh), phụ nữ các dân tộc thiểu số còn nhiều hạn chế:
chưa mạnh dạn, chưa năng động và gặp nhiều khó khăn trong giao tiếp xã hội, nhất là giao tiếp bằng tiếng phổ thông (tiếng Việt). Ngoài thời gian lao động sản xuất, phụ nữ các dân tộc thiểu số hầu như không có thời gian dành cho nghỉ ngơi hoặc hưởng thụ văn hóa tinh thần, học hỏi nâng cao hiểu biết kiến thức xã hội mà họ phải dành phần lớn thời gian còn lại cho công việc gia đình. Chính vì vậy, phụ nữ bị hạn chế về kỹ thuật chuyên môn và trình độ học vấn.
Trình độ học vấn của phụ nữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung, ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng là thấp, bởi cha mẹ thường ưu tiên để con trai được đến lớp học, còn con gái phải ở nhà phụ giúp việc nương rẫy, do đó có sự khác nhau giữa nam và nữ, nam bao giờ cũng có trình độ học vấn cao hơn và tỷ lệ mù chữ
thấp hơn, nhiều chị em dân tộc Mông, Dao, Nùng không biết đọc và ký tên mình. Bên cạnh sự khác biệt về giới, thì điều kiện kinh tế của mỗi gia đình cũng tác động lớn đến trình độ học vấn, người nghèo ít có cơ hội đến trường nên trình độ học vấn thấp và khả năng áp dựng những tiến bộ khoa học vào sản xuất lại càng khó khăn hơn. Qua khảo sát sơ bộ dân tộc Mông ở Bản Quá, Phiêng Rằm, Nộc Chắp (huyện Chợ Đồn); Đán Mẩy, Cốc Lùng (huyện Ba Bể); Thuần Mang (Ngân Sơn) cho thấy trình độ học vấn của phụ nữ Mông so với các tộc người khác trong vùng cư trú là thấp nhất. Các bản kể trên không có một người phụ nữ nào học đến cấp 3. Vì mù chữ nên phụ nữ không có khả năng hướng dẫn, định hướng hay quan tâm con cái trong học tập, điều này thể hiện ở tỉ lệ con của các bà mẹ mù chữ hoặc trình độ thấp được đến trường thấp hơn so với các bà mẹ có trình độ tiểu học, thấp hơn so với các bà mẹ có trình độ trung học cơ sở (các bà mẹ mù chữ thường có độ tuổi từ 45 trở lên).
Như vậy, học vấn của phụ nữ không chỉ ảnh hưởng đến tương lai con cái mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến cơ hội nâng cao năng lực của phụ nữ trong việc nắm bắt và tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất [1].
VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Phụ nữ dân tộc thiểu số trong việc tổ chức đời sống gia đình
Bên cạnh thiên chức làm mẹ, làm vợ, làm dâu, phụ nữ các dân tộc thiểu số đã thể hiện vai trò đảm đang trong quán xuyến tổ chức cuộc sống gia đình, từ việc đi chợ, lo cơm nước đảm bảo sức khỏe cho các thành viên trong gia đình, may vá quần áo, đến việc sắp xếp công việc trong gia đình hợp lý, hằng ngày thu xếp, dọn dẹp nhà cửa sạch sẽ, ngăn nắp. Đó là mảng công việc lặt vặt, tỉ mỉ, chiếm nhiều thời gian nhưng không thể không có. Người phụ nữ đã sắp xếp, tổ chức gia đình theo suy nghĩ, nhận thức và tính năng động của mình. Tuy ngày nay đời sống vật chất
tinh thần của các dân tộc đã được cải thiện rõ rệt, công việc nội trợ cũng có sự chia sẻ, giúp đỡ từ người chồng, song vai trò nội trợ của người vợ không vì thế mà mất đi, ngược lại nó được quan tâm nhiều hơn, yêu cầu cao hơn để tạo ra những bữa cơm ngon, thân mật cho các thành viên trong gia đình [4].
Không chỉ vậy, phụ nữ còn là người giữ vai trò trọng yếu trong việc điều hòa các mối quan hệ gia đình; là người vun đắp hạnh phúc, người duy trì và phát triển những giá trị văn hóa gia đình, giữ gìn bản sắc dân tộc [1].
Do nhận được sự dạy bảo kỹ lưỡng về đạo
“Tam tòng”, “Tứ đức” từ khi còn bé, nên những người phụ nữ dân tộc Tày, Nùng, Dao,…trong sinh hoạt hàng ngày rất ý tứ, từ cách ăn, uống; đi lại trên nhà sàn luôn có bước chân nhẹ nhàng; lời nói nhỏ nhẹ, lễ phép; hết lòng chăm lo vun vén cho chồng con và gia đình nhà chồng. Trong quan hệ vợ chồng, trước kia phụ nữ chỉ biết lắng nghe, thì ngày nay cùng với sự phát triển của xã hội, phụ nữ còn đưa ra chủ kiến riêng của mình, chia sẻ với chồng những khó khăn vất vả trong công việc, trong cuộc sống. Đó là nền tảng cho một gia đình ổn định, nền nếp, êm ấm và hạnh phúc.
Phụ nữ dân tộc thiểu số trong phát triển kinh tế nông thôn miền núi
Do điều kiện cư trú là miền núi, nên cơ cấu kinh tế của các tộc người ở mỗi vùng có sự khác nhau trong tập quán lao động, văn hóa,…tương ứng với vùng rẻo cao, rẻo giữa hay vùng thấp thì vai trò làm việc của phụ nữ các dân tộc thiểu số ở mỗi vùng lại khác nhau.
Theo số liệu tổng điều tra dân số ngày 01 tháng 04 năm 1999 với 76,3 triệu dân, cơ cấu giới tính nam/nữ là 49,2%. Số liệu nghiên cứu cho thấy phụ nữ tham gia hoạt động kinh tế chiếm tỷ lệ cao hơn nam giới, với 75% lao động trong nông nghiệp nông thôn. Trong nghiên cứu của chúng tôi tại hai xã cũng cho thấy phụ nữ chiếm số đông trong độ tuổi lao động tại các địa bàn được khảo sát, cụ thể: ở
xã Nam Cường (huyện Chợ Đồn) và xã Dương Phong (huyện Bạch Thông) tỷ lệ lao động nữ trong các công việc chăn nuôi, trồng trọt như sau: phụ nữ dân tộc Tày gieo mạ, nhổ mạ 78% nữ (nam: 22%), cấy 84% nữ (nam:
16%). Phụ nữ dân tộc Dao thì công việc trồng lúa ruộng là 56,3% (nam: 43,7%), làm nương rẫy: nữ là 68,2% (nam: 31,8%); chăn nuôi lợn gà: nữ: 72% (nam: 28%). Phụ nữ Mông chủ yếu làm rẫy 52% (nam: 48%). Một vài lĩnh vực trong trồng trọt do phụ nữ không đủ sức khỏe nên nam giới chiếm tỷ lệ cao hơn như:
cày, bừa, đắp bờ, lấy nước, đập lúa, làm mương phai,… còn lại đều do phụ nữ đảm nhận hoặc cùng hợp tác với chồng. Từ khảo sát sơ bộ nêu trên, nếu xét theo khía cạnh tộc người chúng ta dễ dàng nhận thấy trong truyền thống cũng như hiện tại, phụ nữ các dân tộc có vai trò trong hoạt động kinh tế gia đình không hoàn toàn giống nhau, điều đó phản ánh môi trường sống, mức độ nhận thức của bản thân người phụ nữ, của cộng đồng về giới trong lao động.
Hưởng ứng phong trào thi đua “Phụ nữ chung sức xây dựng nông thôn mới”, bằng các giải pháp cụ thể, Hội phụ nữ các cấp trong tỉnh đã giúp cho các gia đình hội viên mạnh dạn đứng ra vay vốn và sử dụng vốn vay để đổi mới kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi. Nhờ sử dụng vốn vay có hiệu quả, đến nay trên địa bàn toàn tỉnh đã xuất hiện một số mô hình kinh tế cho thu nhập cao, góp phần cải thiện cuộc sống cho hội viên phụ nữ như: Mô hình chăn nuôi tổng hợp của chị Nguyễn Thị Gái (tổ 5, thị trấn Chợ Mới, huyện Chợ Mới); mô hình trồng cây ăn quả của chị Hoàng Thị Kìa (xã Quang Thuận, huyện Bạch Thông) hay mô hình sản xuất miến dong sạch của Triệu Thị Tá dân tộc Dao (thôn Nà Viến, xã Yến Dương, huyện Ba Bể);
tổ hợp tác chế biến chè tại xã Bằng Phúc (Chợ Đồn); tổ liên kết trồng rau an toàn tại xã Quang Thuận (Bạch Thông)… Hiệu quả hoạt động của các mô hình này đã tạo cơ hội cho phụ nữ giúp đỡ lẫn nhau vươn lên thoát nghèo bền vững và làm giàu chính đáng.
Ngoài sản xuất nông nghiệp - ngành sản xuất chính, thủ công nghiệp cũng đóng vai trò hết sức quan trọng trong cơ cấu kinh tế, trong đời sống và văn hóa tộc người [2]. Trong thời gian nông nhàn phụ nữ các dân tộc thiểu số thường: dệt vải, đan sọt, đan tẹm phơi thóc,...
phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày của các tộc người. Có thể kể đến ở đây là nghề dệt mà chu trình sản xuất đến chế biến thành vải bao gồm nhiều khâu đều do người phụ nữ đảm nhiệm và phải tốn nhiều công sức, thời gian. Việc dệt vải được tiến hành hầu như quanh năm trong những thời gian rảnh rỗi.
Do đó, người ta không thể tính được số ngày công lao động của phụ nữ trong công việc này.
Hiện nay vải dệt chỉ tồn tại hạn chế nhằm đáp ứng yêu cầu trong các nghi lễ tôn giáo mà thôi. Trường hợp làng nghề dệt thổ cẩm của người Tày thuộc dự án PAD bảo tồn làng văn hóa thôn Pác Ngòi, xã Nam Mẫu, huyện Ba Bể cũng đem lại lợi ích kinh tế gia đình của một số hộ: những chiếc túi dệt thủ công có thêu dòng chữ “Du lịch hồ Ba Bể” sẽ là những món quà lưu niệm đặc biệt đầy ý nghĩa đối với mỗi du khách khi đến với Bắc Kạn.
Xét dưới góc độ văn hóa, việc duy trì nghề dệt với những sản phẩm thủ công tinh xảo là thể hiện tiềm năng của phụ nữ thông qua hoạt động kinh tế này được khẳng định như là người giữ gìn các di sản văn hóa truyền thống mà các thế hệ trước để lại.
Phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia hoạt động cộng đồng, hoạt động quản lý
Hoạt động cộng đồng là hoạt động ngoài phạm vi gia đình, song lại liên quan chặt chẽ và ảnh hưởng tới đời sống gia đình. So với phụ nữ miền xuôi, thì phụ nữ các dân tộc thiểu số miền núi tham gia các hoạt động bên ngoài phạm vi gia đình, như tham gia công tác lãnh đạo quản lý cộng đồng, tham gia các tổ chức xã hội, các lễ hội tại địa phương,…
chiếm tỷ lệ thấp. Điều này phản ánh mối quan hệ về vị thế của phụ nữ và nam giới, vì thông thường trong gia đình các dân tộc thiểu số vị thế ngoài xã hội là dành cho nam. Qua khảo
sát sơ bộ so sánh vai trò của phụ nữ các dân tộc thiếu số hiện nay với 10 năm trước ở một số hoạt động cộng đồng hay tham gia công tác xã hội thì phụ nữ dân tộc Tày chiếm tỉ lệ cao nhất (10 năm trước chiếm khoảng 6%; nay là 14,8%) so với phụ nữ dân tộc Mông, Dao).
Hiện nay, trong các cuộc họp thôn bản, đi họp phụ huynh thì chỉ số hai vợ chồng đều tham gia như nhau (chủ yếu phụ nữ dân tộc Tày, dân tộc Dao). Ở các cuộc họp việc tham gia phát biểu, thảo luận của phụ nữ cũng thể hiện một mức cao hơn (con số 11,7% phụ nữ thường xuyên phát biểu ý kiến so với 35,3%
nam giới) thể hiện sự trưởng thành về mặt nhận thức xã hội và khả năng giao tiếp xã hội của phụ nữ các dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó vẫn còn nhiều chị em chưa bao giờ tham gia phát biểu ý kiến trong các cuộc họp của thôn, vì họ chưa vượt qua được những thói quen cũ là ngại phát biểu trước đám đông, tâm lý tự ti.
Trong lĩnh vực quản lý xã hội, các tổ chức đoàn thể nông thôn, sự tham gia của phụ nữ rất hạn chế [2]. Những người tham gia chủ yếu là phụ trách các ban ngành đoàn thể ở xã như Hội phụ nữ, Mặt trận, trạm y tế,... Kết quả điều tra cho thấy chỉ có khoảng 1,2% phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia công tác quản lý xã hội, trong khi nam giới ở lĩnh vực này là 18%. Theo khảo sát của chúng tôi, tỷ lệ nữ tham gia công tác lãnh đạo, quản lí có liên quan chặt chẽ đến đặc điểm kinh tế, truyền thống văn hóa của từng dân tộc và từng địa phương, những người tham gia công tác lãnh đạo chỉ tập trung ở một số tộc người có đông dân số (Tày, Dao). Có thể nói, số lượng cán bộ nữ chiếm tỉ lệ thấp chủ yếu là xuất phát từ nhận thức định kiến về giới đã tồn tại dai dẳng trong nhận thức chung của cộng đồng.
Phụ nữ dân tộc thiểu số tham gia các phong trào góp phần xây dựng nông thôn mới Là tổ chức thành viên trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phụ nữ các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Kạn cùng các cấp hội của mình tham gia
là nòng cốt trong xây dựng nông thôn thông qua việc thực hiện cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, với quan điểm: xây dựng gia đình hạnh phúc là nền tảng để xây dựng một xã hội văn minh, gắn với thực hiện 4 chuẩn mực xây dựng gia đình “No ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc”, phối hợp chặt chẽ với ngành công an thực hiện Nghị quyết liên tịch 01/2002/NQLT về “Quản lý, giáo dục con em trong gia đình không phạm tội và tệ nạn xã hội”. Các chương trình phối hợp đã góp phần thiết thực nâng cao trách nhiệm của các bậc cha mẹ trong nuôi dạy, giáo dục con cái [4].
Ðể hỗ trợ các gia đình thực hiện tốt các cuộc vận động, Hội đã triển khai một số đề án, chương trình hướng vào gia đình, lấy gia đình là đối tượng để tác động như đề án “Giáo dục 5 triệu bà mẹ nuôi dạy con tốt giai đoạn 2010- 2015”; phong trào thi đua “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc” góp phần nâng cao vai trò, vị thế của người phụ nữ trong gia đình và xã hội, hướng đến mục tiêu bình đẳng giới, đồng thời triển khai sâu rộng cuộc vận động “Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”. Nhiều mô hình hoạt động hiệu quả, như “Phụ nữ sản xuất, chăn nuôi giỏi”; “Hộ gia đình không chăn nuôi gia súc dưới gầm sàn”. Bên cạnh đó, các cấp Hội Phụ nữ đã xây dựng nhiều loại hình câu lạc bộ để tạo điều kiện cho hội viên tham gia phát huy hiệu quả hệ thống thiết chế văn hóa ở cơ sở như: Câu lạc bộ Phụ nữ với Pháp luật; Phụ nữ giúp nhau phát triển kinh tế; Câu lạc bộ Nuôi con khỏe, dạy con ngoan,…nhiều quy định về cưới xin, ma chay theo nếp sống mới đã được người dân hưởng ứng [3, tr.6].
Để hoàn thành tiêu chí giao thông trong xây dựng nông thôn mới, phụ nữ các dân tộc thiểu số tỉnh Bắc Kạn còn tích cực phối hợp với các ban ngành, đoàn thể tham gia tổng vệ sinh đường làng, ngõ xóm; tích cực tham gia làm đường giao thông liên thôn, liên xã, đường vào các khu kinh tế, giúp người dân đi lại thuận tiện hơn.
Sự chung tay góp sức của phụ nữ đã góp phần quan trọng đưa Phong trào thi đua “Phụ nữ chung sức xây dựng nông thôn mới” trên địa bàn tỉnh ngày càng phát triển mạnh mẽ cả bề rộng lẫn chiều sâu, từng bước thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng nông thôn mới theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XI nhiệm kỳ 2015-2020 đã đề ra.
Phụ nữ dân tộc thiểu số trong việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc
Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới, cùng với sự đổi thay về đời sống kinh tế, sự giao lưu văn hóa ngày càng được mở rộng kéo theo những thay đổi đáng kể về văn hóa tộc người. Bên cạnh việc bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống thì văn hóa tộc người cũng đang tiếp thu và phát huy những yếu tố văn hóa mới. Nhờ vậy mà bản sắc văn hóa tộc người càng trở nên phong phú, đa dạng. Bằng sự khéo léo của mình phụ nữ các dân tộc thiếu số đã góp nên những sắc thái rất riêng trong việc trao truyền, phổ biến và sáng tạo ra các giá trị văn hóa tích cực của mỗi cộng đồng tộc người.
Trong các sinh hoạt tín ngưỡng và các lễ hội mang tính cộng đồng như Lồng tồng, lễ kỳ yên (của người Tày, Nùng), lễ cấp sắc (người Dao),… luôn có sự tham gia của người phụ nữ. Ngoài việc nấu nướng, lo chuẩn bị lễ vật, lấy củi, mượn bát đũa,… chị em còn tham gia các nghi thức khi có thể.
Số ít phụ nữ ở các dân tộc Tày, Nùng, Dao có căn làm nghề cúng bái gọi là bà Then, bà Pựt.
Họ là người chủ trì các nghi lễ: Cầu an giải hạn (kỳ yên), lễ hắt khoăn (lễ gọi hồn vía), lễ đầy tháng (lẩu bươn), lễ bắc cầu xin hoa (lễ xin con),… làm cầu nối liên lạc giữa người trần gian với thế giới thần Phật. Với kinh nghiệm và sự hiểu biết sâu rộng về phong tục tập quán tộc người, một số bà Then còn có thể bốc thuốc chữa trị được một số bệnh nan y, như: chữa hậu sản, vô sinh, tránh sẩy thai, chữa vết thương trâu bò bị dòi (pền non),...
những hoạt động tín ngưỡng của họ đã trở
thành chỗ dựa về mặt tinh thần cho đại bộ phận dân chúng, giúp họ vượt qua những khó khăn, biến cố của cuộc sống. Mặt khác còn góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa dân gian các dân tộc, là 1 trong 19 tiêu chí quan trọng trong công cuộc xây dựng nông thôn mới.
KẾT LUẬN
Với hơn 70% lao động nữ tham gia trực tiếp vào các hoạt động nông nghiệp đã cho thấy phụ nữ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới. Bởi vì, phụ nữ vừa là chủ thể góp phần quan trọng vào thành công của Chương trình, vừa là người được trực tiếp thụ hưởng những thành quả tốt đẹp do Chương trình xây dựng nông thôn mới mang lại. Điều đáng chú ý, trong xu hướng nam giới (dưới 45 tuổi) ngày càng chuyển sang các công việc phi nông nghiệp và di cư ra thành phố (hoặc xuất khẩu lao đông) tìm việc làm, thì phụ nữ đóng vai trò quyết định trong các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, cộng đồng. Hiện nay, trong mỗi gia đình phụ nữ chính là người cùng chồng quản lý các nguồn lực, quyết định các đầu tư, chi tiêu lớn trong sản xuất, kinh doanh, xây dựng nhà cửa và mua sắm các tiện nghi sinh hoạt. Vì vậy, có thể khẳng định họ là một chủ thể quan trọng và nhân tố tích cực thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới.
Trong quá trình phát triển của xã hội, vị trí, vai trò của phụ nữ trong đời sống kinh tế, chính trị thể hiện có lúc rất mờ nhạt; còn trong việc giữ gìn mái ấm gia đình thì vị trí, vai trò của phụ nữ trong mọi thời kỳ lịch sử luôn thể hiện đậm nét, xuyên suốt qua hàng ngàn năm nay.
Để phụ nữ các dân tộc thiểu số ở nông thôn miền núi phát huy tiềm năng sáng tạo to lớn của mình ngày càng trở thành chủ nhân đích thực của xã hội thì cần phát huy chính tài năng, lòng nhiệt tình và sức sáng tạo của phụ nữ. Do đó, các cấp Hội cần có những chính
sách tích cực nhằm tạo điều kiện và cơ hội cho phụ nữ phát huy vai trò trong việc xây dựng nông thôn mới. Đặc biệt là đội ngũ chi hội trưởng phụ nữ cấp xã, thôn ở vùng miền núi có vai trò rất lớn trong việc tuyên truyền, vận động và thu hút các chị em vào các hoạt động nhằm bồi dưỡng kiến thức toàn diện về kinh tế và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc. Bởi khi phụ nữ đã làm tốt vai trò của mình sẽ có sức lan tỏa và lôi cuốn được những lực lượng và nguồn lực khác trong xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp để hoàn thành chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Thi (1990), Việc làm, đời sống phụ nữ trong chuyển đổi kinh tế ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
2. Lê Thi (1998), Phụ nữ nông thôn vàphát triển ngành nghề phi nông nghiệp, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Ánh Tuyết (2015), “Phụ nữ trong sản xuất và tham gia xã hội ở nông thôn; thực trạng và khuyến nghị chính sách”, Tạp chí nông nghiệp và phát triển nông thôn, kỳ 2, tháng 9/2015, tr.3-9.
4. Vương Thị Vân (2009), Vai trò của phụ nữ nông thôn trong phát triển kinh tế hộ trên địa bàn huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Kinh tế, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên.
SUMMARY
THE ROLE OF ETHNIC MINORITY WOMEN IN
BUILDING NEW RURAL AREAS IN BAC KAN PROVINCE
Luong Thi Hanh* University of Sciences - TNU
Ethnic women living in Backan province where people’s economic condition is difficult are deeply
influenced by male-dominated thought. So ethnic women accept one's fate resignedly and remain unchanged. Nowadays, ethnic women’s role is more and more developing. They not only are wives and mothers, but also are main labour in family and society. More than 70 percent of female workers directly engaged in agricultural production. This shows that ethnic minority women in Bac Kan province are important subjects which contribute to complete building new rural areas.
Keywords: women, ethnic minorities, role, new rural areas, Backan…
Ngày nhận bài: 01/9/2017; Ngày phản biện: 05/10/2017; Ngày duyệt đăng: 16/10/2017
*Tel: 0914892999, Email: [email protected]
oµ
soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ
SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS
Content Page
Ha Xuan Huong - Women’s stituations in Thai and Tay’s folk songs 3
Ngo Thi Thu Trang - Some measures that need to be implemented to enhance students’ ability in terms of using Sino – Vietnamese words 9 Nguyen Thi Ha, Vu Thi Hong Hoa - Enhancing the proportion of female in people’s elected bodies 15 Nguyen Thu Ha, Nguyen Thi Mai Huong, An Thi Thu, Nguyen Thi Hong - Developing vietnamese
accounting standards towards international accounting standards 21
Nguyen Thi Hoa - Using collection “Vietnam wartime letters” in historical education 27 Nguyen Thi Xuan Thu, Pham Ngoc Duy - Effects of using semantic mapping on ESP vocabulary retention of
the students at University of Technology – Thai Nguyen University 33
Vu Kieu Hanh, Hoang Thi Cuong - English reading skill of the second-year students at University of
Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University: basis for enhancement activities 39 Nguyen Thi Thu Huong - Protection ofpersonal rights for juvenile labor in Vietnam law 45 Nguyen Thi Tham - The journey to search for happiness of female characters in the short stories Cœur brûle et autres
romances of Le Clézio 51
Le Thi Luu, Tran Bao Ngoc, Bui Thanh Thuy et al - The bachelor of nursing students’ perception of educational
environment at University of Medicine and Pharmacy - Thai Nguyen University by DREEM questionnare 57 Bui Thi Minh Ha, Nguyen Huu Tho - Awareness of household on climate change and its effectiveness on tea
cultivation: a case study in Tan Cuong tea area, Thai Nguyen city 63
Duong Thanh Tinh, Tran Van Quyet, Nguyen Ngoc Ly, Nguyen Viet Dung - Employment creation potential for ethnic minorities through value chain development of cinnamon products in the northern mountainous region
of Vietnam - a case study of Van Yen district, Yen Bai province 69
Nguyen Thu Nga, Do Thi Tuyet Mai, Nguyen Thi Dieu Hong - Applying Cobb-Douglas linear function to
measure the efficiency of Vietnam commercial banks 75
Phung Thanh Hoa, Bui Thi Thanh Thuy - The impact of market economy on rural Viet Nam at present 81 Hoang Thi My Hanh, Sombath Kingbounkai - The migration process of Vietnamese to Laos and location in
Luangprabang province of Laos 87
Vi Thi Phuong - Using press to the new construction of building culture in Vietnam, look at the Tao Dan
magazine (1939) 93
Nguyen Thi Minh Loan - A proposed model for question generation instruction in reading comprehension 99 Nguyen Thi Bich Ngoc - English written proficiency – upper intermediate 2 (EWU241): students’ evaluation of
the course content and teaching activities at the School of Foreign Languages, Thai Nguyen University 105 Nguyen Mai Linh, Tran Minh Thanh, Duong Thi Hong An - Portfolio development and group presentation
for ESP courses toward postmethod 111
Tran Thi Kim Hoa - Developing the ability of using Vietnamese for ethnic minority elementary school pupils
through vocab excercises 117
Tran Tu Hoai - The main points of “lecturers development” policy that were taken in University of Education –
Thai Nguyen University 121
Pham Thi Huyen, Vu Thi Thuy - Training the working style manner of cadres following Ho Chi Minh’s style 127
Journal of Science and Technology
172 (12/2)
N¨m
2017
Luong Thi Hanh - The role of ethnic minority women in building new rural areas in Bac Kan province 137 Nguyen Thi Thanh Ha, Nguyen Thi Thu Hien - Some issues on building new ways of life for Vietnamese
students nowadays 143
Ho Luong Xinh, Nguyen Thi Yen, Nguyen Thi Giang, Luu Thi Thuy Linh, Bui Thi Thanh Tam, Nguyen Manh Thang - Probability of improving farmer household income after agricultural land acquisition at
industrial zones in Thai Nguyen province 149
Dinh Ngoc Lan, Doan Thi Thanh Hien, Duong Tuan Viet - Analyzing factors effect to production and
consumption of canna in Nguyen Binh district - Cao Bang province 155
Do Thi Ha Phuong, Chu Thi Ha, Nguyen Thi Giang, Duong Xuan Lam - Investigating the effects of social capital and information technology on knowledge sharing intention and knowledge sharing behavior among
employees in Thai Nguyen University 161
Nguyen Thi Hien Thuong, Duong Thị Thu Hoai, Cu Ngoc Bac, Kieu Thu Huong, Vu Thị Hai Anh - Research the contribution of cityzens to implement the imfrastructure criteria for new rural program in Phu
Luong district, Thai Nguyen province 169
Vu Bach Diep, Mai Viet Anh - Some solutions for mobilizing capital for small and medium enterprises developing
Thai Nguyen city 175
Nguyen Thi Ngoc Anh, Hoang Huyen Trang - Designing and using learning games in order to increase the effective teaching in oral advanced proficiency for chinese students at School of Foreign Languages, Thai
Nguyen University 181
Tran Thi Yen, Khong Thi Thanh Huyen - Common sentence problems in academic writing committed by
Vietnamese students of English: situation, causes and solutions 187
Ha Thi Thanh Hoa, Chu Thi Kim Ngan, Duong Thi Thuy Huong - The satisfaction of customers on the
quality of Vinaphone mobile network service of Thai Nguyen province 193
Vu Thi Loan, Vu Thi Hau - The role of market stock price as a financial distress predictor: SVM model 199 Ho Thi Mai Phuong, Hoang Thi Tu, Tran Nguyet Anh - Design and organization of learning games in
elementary school mathematical symbols for elementary school children 205
Dong Thi Hong Ngoc, Nguyen Quynh Hoa, Nguyen Thi Thu Huong, Hoang Thanh Hai, Nguyen Thi Thu
Hang - Application of logistic models in rating credit of listed construction enterprices in Vietnam 211 Ha Thi Hoa, Ho Ngoc Son - Values chain analysis through consumption channels of Son tra in Yen Bai province 219