QUẢN LÝ CHẤT THẢI RẮN Y TẾ CÓ NGUY CƠ CHỨA SARS-COV-2 TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN ĐIỀU TRỊ BỆNH NHÂN COVID-19
KHU VỰC MIỀN BẮC NĂM 2021
Nguyễn Thị Thảo Ngân1, Lỗ Văn Tùng1, Nguyễn Thị Thanh Hải1, Nguyễn Thị Bích Thủy1, Bùi Thị Ngọc Linh1, Dương Thị Loan1, Đoàn Hồng Hải1 TÓM TẮT40
Mục tiêu: của nghiên cứu là giám sát hoạt động quản lý chất thải rắn y tế có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 tại một số bệnh viện điều trị bệnh nhân COVID-19 năm 2021. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được tiến hành tại 4 bệnh viện khu vực miền Bắc (bao gồm: Bệnh viện Thanh Nhàn, Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh, Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Giang, Bệnh viện Nhiệt đới tỉnh Hải Dương) từ tháng 09 đến tháng 12 năm 2021. Kết quả và kết luận: Kết quả giám sát cho thấy khối lượng CTYT ở các bệnh viện đều tăng lên từ 153% do toàn bộ chất thải từ khu vực điều trị bệnh nhân COVID-19 được coi là chất thải lây nhiễm.
Lượng chất thải tăng lên dẫn đến chi phí quản lý CTYT tăng. Do việc quản lý chất thải y tế đã được các bệnh viện thực hiện khá nề nếp theo quy định của Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT và hướng dẫn kịp thời về Quản lý chất thải và vệ sinh trong phòng chống COVID-19 ban hành kèm theo Quyết định số 3455/QĐ-BCDDQG các bệnh viện đã không gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn trong việc quản lý chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2.
Từ khóa: quản lý chất thải, chất thải rắn y tế có nguy cơ chứa SARS-CoV-2, điều trị COVID-19
1Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Thảo Ngân Email: [email protected] Ngày nhận bài: 11/3/2022
Ngày phản biện khoa học: 07/4/2022 Ngày duyệt bài: 15/4/2022
SUMMARY
MANAGEMENT OF MEDICAL SOLID WASTE CONTAINS RISK OF SARS-
COV-2 AT TREATING COVID-19 PATIENTS HOSPITALS IN THE
NORTHERN REGION IN 2021 Objective: The study aimed to monitor the management of medical solid waste contains rick of SARS-CoV-2 at treating COVID-19 patients hospitals in 2021. Subject and methods: A description cross-sectional study was conducted at 4 hospitals in the North region (including:
Thanh Nhan Hospital, Bac Ninh Provincial General Hospital, Bac Giang Provincial General Hospital, Hai Duong Province Hospital for Tropical Diseases) since September to December 2021. Results and conclusion: Monitoring results showed that the volume of medical waste in hospitals has increased from 153% because all waste from the COVID-19 patients treatment area is considered infectious waste. The increased amount of waste leads to an increase in the management cost of medical waste. Because the management of medical waste has been carried out quite decently by hospitals in accordance with the provisions of Joint Circular No. 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT and timely guidance on waste management and hygiene in COVID-19 prevention issued together with Decision No. 3455/QD-BCDDQG, hospitals did not face many surprises and difficulties in managing medical solid waste contains rick of SARS-CoV-2.
Keywords: waste management; medical solid waste contains rick of SARS-CoV-2; treatment of COVID-19.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sau chất thải phóng xạ, chất thải y tế (CTYT) được coi là chất thải nguy hại thứ hai trên toàn cầu. Nó bao gồm nhiều dạng chất thải khác nhau: chất thải lây nhiễm (CTLN), chất thải không lây nhiễm, chất thải y tế thông thường [2]. Chất thải y tế phát sinh trong quá trình chẩn đoán, điều trị, xét nghiệm… của cơ sở y tế, nếu không được xử lý đúng cách có thể gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người [4]. Sự bùng phát của dịch bệnh do vi rút SARS- CoV-2 (COVID-19) được báo cáo lần đầu tiên ở Vũ Hán, Trung Quốc đã được công nhận là tình trạng khẩn cấp về sức khỏe cộng đồng quốc tế cần được quan tâm. Vi rút đã lây lan đến hầu hết các quốc gia trên toàn cầu khiến sự gia tăng nhanh chóng của số lượng người nhiễm COVID-19, dẫn đến một lượng lớn các trường hợp bệnh nhân phải nhập viện điều trị. Dó đó, việc phát sinh chất thải rắn y tế (CTRYT) gia tăng đáng kể về khối lượng chất thải so với trước đại dịch. Ở Vũ Hán, Trung Quốc, lượng chất thải y tế phát sinh trong đại dịch tăng lên 600% (từ 40 tấn lên 247 tấn/ngày) [5]. Trong thời kỳ đại dịch, tổ chức Y tế thế giới đã xây dựng các hướng dẫn đặc biệt để quản lý CTRYT, các quốc gia cũng áp dụng các biện pháp khác nhau để xử lý loại chất thải này. Tại Việt Nam, ngay từ khi dịch bệnh COVID-19 xuất hiện, để hạn chế đến mức thấp nhất sự lây lan, phát tán mầm bệnh COVID-19 ra môi trường và bảo vệ sức khỏe cho nhân viên y tế và cộng đồng, Ban Chỉ đạo quốc gia phòng chống dịch COVID-19, Bộ Y tế đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn, quy định về quản lý chất
thải trong điều kiện dịch bệnh COVID-19 như Quyết định số 3455/QĐ-BCĐQG song song áp dụng thực hiện Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT [2], [3]. Dù công tác quản lý chất thải tại các bệnh viện qua các năm đã có nhiều chuyển biến tích cực tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại nhất định, đặc biệt trong bối cảnh đại dịch đang diễn biến phức tạp. Xuất phát từ thực tế, nghiên cứu được nhằm đánh giá hoạt động quản lý chất thải rắn y tế có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 tại một số bệnh viện điều trị bệnh nhân COVID-19 khu vực miền Bắc năm 2021.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Đối tượng nghiên cứu
Các bệnh viện (BV) điều trị bệnh nhân COVID-19 tại các tỉnh khu vực miền Bắc
2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu + Thời gian tiến hành nghiên cứu: tháng 09 đến tháng 12 năm 2021
+ Địa điểm nghiên cứu: thực hiện tại 04 bệnh viện ở 04 tỉnh/thành phố gồm TP. Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang và Hải Dương.
2.3 Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu:
Nghiên cứu mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:
+ Chọn tỉnh/thành thực hiện nghiên cứu là 4 tỉnh thành có diễn biến dịch COVID-19 phức tạp, số lượng ca ghi nhận tại cộng đồng ở mức cao nhất khu vực miền Bắc.
+ Chọn bệnh viện: Bệnh viện thực hiện hai chức năng là vừa khám chữa bệnh thông thường vừa thu dung, cách ly, điều trị trường hợp nhiễm hoặc nghi nhiễm COVID-19.
Biến số nghiên cứu: Thông tin chung của bệnh viện về số giường bệnh kế hoạch, thực kê, số lượt khám trung bình/ngày; lượng chất thải phát sinh/ngày; thông tin về quản lý lý
chất thải rắn y tế có nguy cơ chứa SARS- CoV-2: tổ chức quản lý, thủ tục pháp lý;
thông tin về quá trình thu gom, phân loại, lưu giữ, vận chuyển và xử lý CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV2.
Phương pháp thu thập thông tin
+ Đánh giá công tác tổ chức quản lý, thủ tục pháp lý bảo vệ môi trường đến công tác CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 tại cơ sở; kiểm tra chứng từ, hồi cứu số liệu liên quan đến công tác quản lý chất thải rắn y tế, phỏng vấn trực tiếp cán bộ quản lý và cán bộ phụ trách công tác quản lý CTRYT dựa trên phiếu điều tra soạn sẵn.
+ Thống kê lượng CTRYT phát sinh (kg/ngày, số liệu trung bình trong 30 ngày tại thời điểm điều tra) cụ thể cho từng loại chất thải theo quy định tại Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT-BTNMT.
+ Đánh giá quá trình thu gom, phân loại, lưu giữ, vận chuyển và xử lý CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 bằng phương pháp quan sát thực tế vào các thời điểm cụ thể và kết hợp hồi cứu số liệu dựa trên phiếu điều tra.
+ Đánh giá việc áp dụng và thực hiện các thông tư, nghị định do Bộ y tế ban hành về việc phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển và xử lý CTRYT có nguy cơ chứa SARS- CoV2 tại các cơ sở y tế.
Xử lý số liệu: Số liệu được lưu trữ và phân tích bằng phần mềm Microsoft Excel 2020.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1 Thông tin chung về các bệnh viện được giám sát
Trong 4 đơn vị giám sát: BV Thanh Nhàn, BVĐK Bắc Ninh, BVĐK Bắc Giang đều là bệnh viện đa khoa của tỉnh/thành phố với 2 chức năng song song, vừa điều trị bệnh nhân nội và ngoại trú kết hợp điều trị bệnh nhân mắc COVID-19. Riêng BV nhiệt đới Hải Dương là bệnh viện chuyên khoa điều trị các bệnh truyền nhiễm, khi có dịch bùng phát bệnh viện chuyển sang điều trị bệnh nhân mắc COVID-19. Kết quả điều tra trung bình 9 tháng đầu năm 2021 cho thấy, BV Thanh Nhàn có số giường kế hoạch được phê duyệt để điều trị bệnh nhân COVID-19 nhiều nhất với 250 giường, tiếp đến là BVĐK Bắc Ninh là 100 giường, BVĐK Bắc Giang là 86 giường, BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương là 50 giường. Trung bình số lượt khám/ngày tại các BV là từ 150 lượt khám (BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương) đến 778 lượt khám (BV Thanh Nhàn).
3.2 Thực trạng phát sinh chất thải có nguy cơ lây nhiễm tại các bệnh viện
Bảng 1. Khối lượng CTYT phát sinh tại các bệnh viện (kg/ngày)
Bệnh viện
Tổng lượng CTYT (kg/ngày)
CTLN (kg/ngày)
CTLN có nguy có chứa SARS-CoV-2
(kg/ngày)
Tỷ lệ CTLN có nguy cơ chứa
SARS-CoV- 2/CTLN (%) BV
Thanh Nhàn
Khi không điều trị bệnh nhân COVID-
19
44,2 6,8 0 -*
Khi có điều trị bệnh nhân COVID-19
48,7 (tăng 108%)
10,4
(tăng 153%) 7,5 72,4
Bệnh viện
Tổng lượng CTYT (kg/ngày)
CTLN (kg/ngày)
CTLN có nguy có chứa SARS-CoV-2
(kg/ngày)
Tỷ lệ CTLN có nguy cơ chứa
SARS-CoV- 2/CTLN (%) (% tăng lên)
BVĐK Bắc Ninh
Khi không điều trị bệnh nhân COVID-
19
89,6 4,6 0 -
Khi có điều trị bệnh nhân COVID-19
(% tăng lên)
99,6 (tăng 111%)
7,1
(tăng 154%) 1,14 16,1
BVĐK Bắc Giang
Khi không điều trị bệnh nhân COVID-
19
- - -
Khi có điều trị bệnh
nhân COVID-19 26,2 11,5 4,4 38,3
BV Nhiệt
đới Hải Dương
Khi không điều trị bệnh nhân COVID-
19
- - - -
Khi có điều trị bệnh
nhân COVID-19 32,2 30,5 30,5 100
*-: Không có số liệu
Kết quả nghiên cứu cho thấy trong 4 BV giám sát, có 3/4 BV có sổ theo dõi riêng khối lượng CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV- 2 (BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương là bệnh viện chuyên khoa điều trị về bệnh truyền nhiễm khi dịch bùng phát bệnh viện được chuyển sang điều trị COVID nên lượng CTLN tương đương với lượng CTLN có liên quan đến
SAR-CoV-2). Và, có 2/4 BV thực hiện thống kê khối lượng CTRYT riêng ở thời điểm có điều trị bệnh nhân COVID-19 và khi không điều trị bệnh nhân COVID-19. Số liệu cho thấy khối lượng CTLN phát sinh ở các bệnh viện có sự gia tăng khi có điều trị bệnh nhân COVID-19 (tăng 153% ở BV Thanh Nhàn, 154% ở BVĐK Bắc Ninh).
Bảng 2. Kinh phí quản lý CTRYT liên quan COVID-19 tại các bệnh viện Bệnh viện Kinh phí QLCTYT
năm 2020 (đồng)
Ước tính kinh phí QLCTYT năm
2021 (đồng)
Chi phí năm 2021 so với năm 2020
(%, gấp số lần) BV Thanh Nhàn 1.034.758.000 1.125.335.280 109 (1,1 lần) BVĐK Bắc Ninh 11.000.000 223.000.000 2.027 (>20 lần) BVĐK Bắc Ninh 128.775.000 1.275.989.000 991 (10 lần) BV Nhiệt đới Hải
Dương 125.255.271 300.390.000 240 (2,4 lần)
Ước tính chi phí cho hoạt động quản lý CTYT tại các bệnh viện năm 2021 tăng cao so với năm 2020 từ 1,1 lần (BV Thanh Nhàn) cho đến hơn 20 lần (BVĐK Bắc Ninh).
3.3. Quy định hành chính về quản lý CTRYT
Bảng 3. Công tác thực hiện quy định hành chính về quản lý CTRYT tại các bệnh viện
STT Tiêu chí đánh giá
Số BV đạt (n=4) Tần số
(n)
Tỷ lệ (%) 1 Tổ chức quản lý, thủ tục pháp lý trong hoạt động quản lý
CTRYT tại bệnh viện 4 100
2 Các quy trình liên quan đến quản lý và xử lý CTRYT trong
trường hợp có ca mắc hoặc nghi ngờ mắc COVID-19 3 75
3 Sổ sách ghi chép theo dõi về quản lý CTRYT 3 75
4
Tập huấn cho cán bộ nhân viên y tế về quản lý CTLN có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 (nhân viên của BV và nhân viên
của các đơn vị được BV thuê)
4 100
Tất cả các BV giám sát đều có bộ phận phụ trách về công tác quản lý CTYT là Khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, có thực thiện hoạt động định kỳ tổ chức thực hiện giám sát phân loại, thu gom chất thải tại Khoa/phòng và có báo cáo bằng nhiều hình thức (chủ yếu là báo cáo bẳng văn bản) với lãnh đạo bệnh viện. Qua kiểm tra các quy trình liên quan đến quản lý và xử lý CTRYT trong trường hợp có ca mắc hoặc nghi ngờ mắc COVID- 19 phần lớn các bệnh viện đã có đầy đủ các quy trình phân loại, thu gom, lưu giữ, vận chuyển, xử lý CTRYT chứa SARS-CoV2, quy trình khử khuẩn dụng cụ, quy trình xử lý đồ vải… theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Tuy nhiên BV Thanh Nhàn còn thiếu thiếu quy trình lưu giữ CTRYT chứa SARS-CoV-2 cần được bổ sung. Tỷ lệ 75% các bệnh viện có
đầy đủ sổ sách ghi chép về quản lý CTRYT tại đơn vị và biên bản thanh, kiểm tra và báo cáo kết quả quản lý CTYT định kỳ, đột xuất.
Chỉ riêng BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương không có sổ sách ghi chép chất thải thông thường phục vụ/không phục vụ mục đích tái chế và CTRYT nguy hại do phía bệnh viện khoán với công ty môi trường nên chỉ có biên bản bàn giao. Tỷ lệ 100% nhân viên trong các bệnh viện được tập huấn về quản lý CTLN có nguy cơ chứa SARS-CoV-2. Ngoài ra, tất cả các bệnh viện đều thực hiện tập huấn cho nhân viên của các đơn vị được bệnh viện thuê.
3.4 Công tác phân loại, thu gom CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 trong hoạt động điều trị COVID-19
Bảng 4. Dụng cụ, phân loại và thu gom chất thải tại các khoa/phòng khám và điều trị bệnh nhân COVID-19
STT Tiêu chí đánh giá Số BV đạt (n=4)
Tần số (n) Tỷ lệ (%) 1 Vị trí đặt bao bì, dụng cụ phân loại CTYT có hướng dẫn
cách phân loại và thu gom chất thải có nguy cơ chứa 2 50
SARS-CoV-2
2 Túi, thùng đựng chất thải lây nhiễm có nguy cơ chứa
SARS-CoV-2 đạt theo quy định 1 25
3 Dụng cụ thu gom thải lây nhiễm có nguy cơ chứa SARS-
CoV-2 đạt theo quy định 2 50
4
Phân loại đúng: tất cả CTYT phát sinh tại khoa/phòng phát sinh CTYT có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 đều được
coi là chất thải lây nhiễm
4 100
5 Lượng chất thải trong thùng chứa không quá đầy 3 75
6 Quy trình thu gom đúng theo quy định 4 100
Qua khảo sát thực tế tại các khoa/phòng là nguồn phát sinh chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 cho thấy, tại BVĐK Bắc Ninh và BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương còn thiếu bảng hướng dẫn phân loại và thu gom CTYT tại vị trí đặt bao bì, dụng cụ phân loại CTYT.
Khảo sát tại BV Thanh Nhàn cho thấy không phát sinh CTLN sắc nhọn ở Khoa/phòng phát sinh CTYT có nguy cơ chứa SARS-CoV2, ở BVĐK Bắc Ninh, BV Nhiệt đới Hải Dương thùng đựng thiếu nhãn cảnh báo ở dụng cụ đựng CTLN sắc nhọn. Đối với túi, thùng đựng và thùng thu gom chất thải lây nhiễm không sắc nhọn có nguy cơ chứa SARS-
CoV-2, hai bệnh viện BVĐK Bắc Ninh, BV Nhiệt đới Hải Dương thiếu nhãn cảnh báo;
còn BVĐK Bắc Giang sai màu thùng đựng tại khu vực điều trị bệnh nhân COVID19 (thùng xanh). Hầu hết các bệnh viện đều phân loại đúng CTYT có nguy cơ chứa SARS-CoV2 theo quy định ngay tại nguồn phát sinh. Tại BV Thanh Nhàn còn hiện tượng để lượng CTYT trong thùng đầy quá quy định có thể gây nguy cơ lây nhiễm.
100% các bệnh viện đã thực hiện quy trình thu gom CTYT có nguy cơ chứa SARS- CoV2 đúng theo quy định.
3.5. Công tác lưu giữ và xử lý CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 Bảng 5. Điều kiện lưu giữ tạm thời và xử lý chất thải tại bệnh viện
STT Tiêu chí đánh giá
Số BV đạt (n=4) Tần số
(n)
Tỷ lệ (%) I. Điều kiện lưu giữ tạm thời CTYT
1.1
Nhà/khu vực lưu giữ CTRYT nền cao, có mái che, có vật liệu hấp thụ và xẻng để sử dụng trong trường hợp rò rỉ, đổ tràn chất thải y tế nguy hại ở dạng lỏng, có quy trình ứng phó
sự cố
3 75
1.2 Có dụng cụ, thiết bị lưu giữ riêng cho từng loại chất thải
hoặc nhóm chất thải có cùng tính chất 4 100 1.3 Dụng cụ, thiết bị lưu chứa đảm bảo yêu cầu (có thành cứng,
nắp đậy, biển/dấu hiệu cảnh báo…) 4 100
STT Tiêu chí đánh giá
Số BV đạt (n=4) Tần số
(n)
Tỷ lệ (%) 1.4 Khu vực lưu giữ chất thải có điểm rửa tay với xà phòng và
nước sạch. 2 50
1.5 Có dung dịch khử trùng có chứa 0,05% clo hoạt tính để khử
khuẩn thùng đựng chất thải thường xuyên sau sử dụng 2 50 1.6 Thời gian lưu giữ CTLN đảm bảo đúng quy định 4 100
II. Xử lý CTYT tại bệnh viện
2.1 Thuê đơn vị vận chuyển và xử lý 4 100
Tại khu vực lưu giữ chất thải, tại BVĐK Bắc Ninh và BV Nhiệt đới Hải Dương chưa thực hiện việc lưu giữ riêng CTYT có nguy cơ chứa SARS CoV-2 theo quy định, dẫn tới nguy cơ lây nhiễm cao. Ngoài ra BV Nhiệt đới Hải Dương ở khu vực lưu giữ vẫn chưa được trang bị quy trình phòng ngừa, ứng phó sự cố (cháy nổ, đổ tràn chất thải,…).
Phần lớn các bệnh viện giám sát ký hợp đồng vận chuyển và xử lý CTYT với công ty môi trường. BV Thanh Nhàn ký hợp đồng với công ty TNHH MTV MTĐT Hà Nội - CN Hai Bà Trưng, 3 bệnh viện (BVĐK Bắc Ninh, BVĐK Bắc Giang, BV Nhiệt đới tỉnh Hải Dương) ký hợp đồng với công ty Công ty CP CNMT An Sinh. Ngoài ra, tại BVĐK Bắc Ninh có thực hiện xử lý CTLN bằng lò đốt. Lò đốt CTRYT hiện đang được BVĐK Bắc Ninh sử dụng là CHUWASTAR của hãng Kubota - Nhật Bản được đưa vào sử dụng từ năm 2017. Công suất thiết kế của lò từ 100 - 120 kg/ngày phù hợp với lượng CTLN phát sinh tại bệnh viện trung bình là 7,08/kg/24h. Loại CTRYT được xử lý bằng lò đốt tại bệnh viện là CTLN (bao gồm:
CTLN không sắc nhọn, chất thải giải phẫu, CTRYT có nguy cơ chứa SARS-CoV2).
IV. BÀN LUẬN
4.1 Thực trạng phát sinh CTRYT tại các bệnh viện
Kết quả phân tích cho thấy, tổng lượng CTYT phát sinh trung bình/ngày và lượng CTLN của các BV Thanh Nhàn và BVĐK Bắc Ninh trong thời gian có điều trị bệnh nhân COVID-19 đều tăng so với khi không điều trị bệnh nhân COVID-19 (lần lượt tăng từ 108% lượng CTYT và tăng từ 153%
lượng CTLN). Điều này cũng phù hợp với kết quả của các nghiên cứutrên thế giới, sự gia tăng khối lượng CTYT tỷ lệ thuận với số bệnh nhân dương tính với COVID-19 đang được điều trị tại các BV, như ở Vũ Hán (Trung Quốc) tăng 6 lần [5], ở Pháp và Hà Lan đã tăng lần lượt từ 40% lên 50% và 45%
lên 50% [8]; ở Iran dịch COVID-19 làm tăng lượng chất thải phát sinh trung bình là 102,2% ở cả bệnh viện tư nhân và công lập.
Ngoài ra, tỷ lệ CTLN tại các bệnh viện được nghiên cứu tăng trung bình 9% trong thành phần CTYT và 121% so với trước đại dịch COVID-19 [5], ở các thành phố Manila, Hà Nội, Kuala Lumpur và Bangkok, những nơi có khối lượng chất thải tăng từ 154 lên 280 tấn mỗi ngày [6]. Các đánh giá ở Việt Nam cũng cho thấy, đại dịch COVID-19 làm gia tăng lượng CTYT, đặc biệt là CTLN tại các
bệnh viện. Nguy cơ tăng phát thải đột biến nếu bệnh viện tiếp nhận thu dung điều trị bệnh nhân COVID-19 Điều này có thể giải thích dựa vào quy định về phân loại chất thải thay đổi trong dịch COVID-19 [1]. Từ khối lượng CTYT nói chung và lượng CTLN tăng dẫn đến chi phí cho hoạt động quản lý chất thải tại bệnh viện tăng lên. Kinh phí chi cho quản lý chất thải ước tính trong năm 2021 (trong thời gian điều trị bệnh nhân COVID- 19) cao nhất ở BVĐK Bắc Ninh khi tăng gấp hơn 20 lần so với khi không điều trị bệnh nhân COVID-19.
4.2 Thực trạng quản lý CTRYT có nguy cơ nhiễm SARS-CoV-2 tại bệnh viện
Trước khi dịch COVID-19 thâm nhập vào Việt Nam, việc quản lý chất thải trong các cơ sở y tế được thực hiện theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT- BYT- BTNMT ngày 31/12/2015 [2]. Khi dịch COVID-19 xuất hiện, Ban chỉ đạo Quốc gia tiếp tục ban hành Quyết định số 3455/QĐ- BCĐQG nhằm bổ quy định chặt chẽ hơn việc quản lý CTYT, phòng ngừa lây lan dịch bệnh trong cơ sở y tế và ra cộng đồng [3]. Kết quả giám sát tại 4 bệnh viện cho thấy, tất cả các bệnh viện đều có phân công bộ phận phụ trách công tác quản lý CTYT, phân công người chịu trách nhiệm chính và định kỳ tổ chức giám sát việc phân loại, thu gom chất thải tại các khoa phòng của bệnh viện. Các quy trình liên quan đến Quản lý CTYT nói chung và chất thải có nguy cơ chứa SARS- CoV-2 được các bệnh viện ban hành nhằm hướng dẫn nhân viên quản lý và thu gom chất thải thực hiện như Quy trình phân loại, Quy trình thu gom, Quy trình vận chuyển, Quy trình xử lý, Khử khuẩn dụng cụ, xử lý đồ vải, trang thiết bị bảo vệ cá nhân. Việc ban hành và thực hiện đúng các quy trình liên quan đến việc quản lý chất thải có nguy
cơ chứa SARS-CoV-2 giúp cho người làm công tác phân loại, thu gom và xử lý chất thải lây nhiễm thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn, hạn chế nguy cơ phát tán mầm bệnh trong môi trường bệnh viện.
Quyết định số 3455/QĐ-BCĐQG nêu rõ tại các khu vực/phòng cách ly, khám, theo dõi, chăm sóc, điều trị người mắc hoặc nghi ngờ mắc COVID-19 trong cơ sở y tế, tất cả chất thải rắn phát sinh từ khu vực/phòng cách ly, khám, theo dõi, chăm sóc, điều trị người mắc hoặc nghi ngờ mắc COVID-19 bao gồm cả đồ vải, quần áo thải bỏ của bệnh nhân, khẩu trang, trang phục phòng hộ cá nhân của người tham gia thực hiện các công việc quản lý chất thải y tế, vệ sinh dụng cụ đựng chất thải, giặt là, vệ sinh môi trường đều được coi là CTLN (chất thải có nguy cơ chứa SARS- CoV-2) và phải được phân loại ngay vào thùng màu vàng đựng chất thải lây nhiễm có nắp đậy, có lót túi, có biểu tượng cảnh báo chất thải có chứa chất gây bệnh [3]. Bên ngoài túi, thùng có dán nhãn “CHẤT THẢI CÓ NGUY CƠ CHỨA SARS-CoV-2”. Kết quả giám sát cho thấy 1/2 đến 3/4 khoa phòng của các bệnh viện chưa thực hiện đúng yêu cầu trên, chủ yếu là thùng đựng chất thải lây nhiễm không đúng màu và không có nhãn cảnh báo theo quy định.
Việc lưu giữ tạm thời CTYT được các đơn vị quan tâm. Tuy nhiên ở một số đơn vị còn một số tồn tại như không có quy trình phòng ngừa ứng phó sự cố, không có nơi rửa tay với nước sạch và xà phòng, chưa có sẵn dung dịch để khử khuẩn thùng đựng chất thải sau khi chuyển chất thải đi xử lý hoặc chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 không được lưu giữ riêng với các loại chất thải lây nhiễm khác. Trước khi lưu giữ tạm thời chất thải, các đơn vị đều tiến hành xử lý sơ bộ chất thải bằng phương pháp nhiệt ướt (BV
Thanh Nhàn và BVĐK Bắc Ninh), xử lý bằng hóa chất (BVĐK Bắc Giang và Bệnh viện Nhiệt đới Hải Dương). Việc xử lý CTYT đều được các bệnh viện đều thuê đơn vị có đủ năng lực xử lý toàn bộ hoặc phần CTLN xử lý tại BV. Việc vận hành lò đốt tại BV đảm bảo cho việc xử lý chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2 không phải vận chuyển đến nơi xử lý bên ngoài bệnh viện sẽ giảm nguy cơ phát tán mầm bệnh ra môi trường cộng đồng.
V. KẾT LUẬN
Kết quả giám sát hoạt động quản lý chất thải tại các bệnh viện khi xuất hiện dịch COVID-19 và bệnh viện chuyển một phần công năng sang điều trị bệnh nhân COVID- 19, lượng chất thải y tế ở các bệnh viện đều tăng lên từ 153% do toàn bộ chất thải từ khu vực điều trị bệnh nhân COVID được coi là chất thải lây nhiễm. Lượng chất thải tăng lên dẫn đến tăng chi phí quản lý CTYT. Do việc quản lý chất thải y tế đã được các bệnh viện thực hiện khá nề nếp theo quy định của Thông tư liên tịch số 58/2015/TTLT-BYT- BTNMT và hướng dẫn kịp thời về Quản lý chất thải và vệ sinh trong phòng chống COVID-19 ban hành kèm theo Quyết định số 3455/QĐ-BCDDQG các bệnh viện đã không gặp nhiều bỡ ngỡ, khó khăn trong việc quản lý chất thải có nguy cơ chứa SARS-CoV-2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Ngọc Châu, Đàm Thương Thương (2021). Thực trạng chất thải rắn y tế của các bệnh viện và thách thức trong phòng dịch
COVID – 19. Trao đổi &Thảo luận, tháng 6/2021
2. Thông tư liên tịch 58/2015/TTLT-BYT- BTNMT ngày 31/12/2015 Quy định về Quản lý chất thải y tế.
3. Quyết định số 3455/QĐ-BCĐQG ngày 05/08/2020 về việc ban hành Hướng dẫn về chất thải và vệ sinh quản lý trong phòng ngừa và kiểm soát COVID-19.
4. L. Johannessen, M. Dijkman, C. Bartone, D.
Hanrahan, M. Boyer, C. Chandra (2000)., Health Care Waste Management Guidance Note, World Bank, Washington DC.
5. Peng J, Wu X, Wang R, Li C, Zhang Q, Wei D (2020). Medical Waste Management Practice During the 2019-2020 Novel Coronavirus Pandemic: Experience In A General Hospital. American Journal of Infection Control;48(8):918–921.
https://doi.org/10.1016/j.ajic.2020.05.03532.
6. Roberts KP, Stringfellow A, Williams I (2020). Rubbish is Piling Up and Recycling has Stalled – Waste Systems Must Adapt. The Conversation.
https://theconversation.com/rubbish.
7. Roshanak Rezaei Kalantar et al (2021) Effect of COVID-19 pandemic on medical waste management: a case study. J Environ Health Sci Eng. 2021 Jun; 19(1): 831–836.
8. Wei G, Manyu L (2020). The Hidden Risks of MedicalWaste and the COVID-19
Pandemic, https://
www.waste360.com/medical-waste/hidden- risks-medical-waste-and-covid-19-pan- demic, 2020.