• Tidak ada hasil yang ditemukan

Quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của các ngân hàng thương mại Việt Nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của các ngân hàng thương mại Việt Nam"

Copied!
7
0
0

Teks penuh

(1)

Quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của các ngân hàng thương mại Việt Nam

ThS. TRỊNH HỒNG HẠNH

Nằm trong quá trình tái cơ cấu các tổ chức tín dụng (TCTD), quản trị tài sản Nợ, tài sản Có (ALM) là một nội dung đang được các ngân hàng quan tâm thực hiện, góp phần hoàn thiện hệ thống quản trị của các ngân hàng hiện nay. Việc thực hiện tốt ALM sẽ giúp cho các ngân hàng hạn chế được tổn thất do rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản, đảm bảo an toàn và hiệu quả trong hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, tại các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam hiện nay, ALM đang còn là vấn đề khá mới mẻ và phức tạp cần được nghiên cứu, xây dựng từ khung lí thuyết cho đến việc vận dụng thực tế. Bài viết nhằm đánh giá khái quát thực trạng ALM của các NH hiện nay, từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm thực hiện tốt quá trình ALM của các ngân hàng.

Từ khóa: quản trị tài sản Nợ, tài sản Có, ngân hàng thương mại 1. Thực trạng quản trị tài sản Nợ, tài sản Có của các ngân hàng thương mại Việt Nam ALM là cơ chế hạn chế rủi ro cho ngân hàng bởi tình trạng bất cân xứng của bảng Cân đối kế toán trong điều kiện thay đổi về lãi suất và nhu cầu thanh khoản nhằm đạt được mục tiêu về lợi nhuận (tỉ lệ NIM) phù hợp với khẩu vị rủi ro của ngân hàng.

Những nội dung cơ bản của ALM gồm có: Quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán của ngân hàng;

quản trị rủi ro thanh khoản quản trị rủi ro lãi suất.

Để các ngân hàng có thể thực

hiện được quá trình ALM một cách tốt

nhất, đòi hỏi cần phải có đầy đủ những yếu tố cơ bản sau:

Chính sách ALM, cơ cấu tổ chức ALM và hệ thống thông tin ALM.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay

tại các NHTM Việt Nam, các yếu tố cơ bản của ALM đang trong quá trình thiết lập, xây dựng nên vẫn còn nhiều hạn chế. Để tìm hiểu thực tiễn vấn đề này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các cán bộ điều hành của 22 NHTM năm 2014, với mục tiêu đánh giá chất lượng hệ thống quản trị rủi ro và các yếu tố cơ bản của quá trình ALM. Bản khảo sát bao gồm các câu hỏi về hệ thống quản trị rủi ro và ALM của NHTM được khảo sát đã được gửi cho các cán bộ điều hành ngân hàng và đã nhận được câu trả lời với kết quả cụ thể ở Bảng 1.

Các đối tượng tham gia khảo sát nhìn chung hài lòng với chất Bảng 1. Kết quả khảo sát về hệ thống quản trị rủi ro

và chính sách ALM

1. Anh (chị) có hài lòng với chất lượng quản trị rủi ro tại NH anh (chị) không?

Không Không rõ

64% 29% 7%

2. Tại ngân hàng của anh/chị, chi phí cho các giải pháp/cơ cấu về quản trị rủi ro sẽ thay đổi như thế nào trong 12 tháng tới?

Tăng mạnh Tăng nhẹ Giảm nhẹ Giảm mạnh

20% 73% 0% 7%

3. Tại ngân hàng của anh/chị, cho đến nay đã có chính sách ALM bao gồm đầy đủ các nội dung: quản trị cấu trúc bảng Cân đối kế toán, quản trị rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro lãi suất chưa ?

Chưa có chính

sách ALM Có nhưng

chưa đầy đủ Có đầy đủ

0% 83% 17%

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát

Quản trị ngân hàng & doanh nghiệp

(2)

lượng quản trị rủi ro tại ngân hàng mình.Tuy nhiên, quản trị rủi ro tại các NHTM Việt Nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong bối cảnh các ngân hàng đang phải chật vật xác định khẩu vị rủi ro, khả năng chịu đựng và các giới hạn rủi ro, cũng như làm thế nào để nâng cao hiệu quả của qui trình, kiểm soát và các nguồn lực.

Việc thiết lập qui trình quản trị rủi ro hiệu quả phù hợp và khả thi cho các ngân hàng Việt Nam sẽ rất mất thời gian. Điều đáng khích lệ là hầu hết các ngân hàng trong phạm vi khảo sát cho biết sẽ cải thiện chức năng quản trị rủi ro của mình trong 12 tháng tiếp theo. Trong đó, ALM cũng đang được các ngân hàng quan tâm thực hiện. Hầu hết các ngân hàng đã có chính sách ALM cho dù chưa phải là đã đầy đủ ở tất cả các ngân hàng.

Các NH đều thực hiện cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn, điều chỉnh cơ cấu tài sản và nguồn vốn nhằm mục tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên, rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất mới ở giai đoạn đầu các ngân hàng quan tâm thực hiện với các chính sách và quy trình còn nhiều hạn chế.

Quản trị rủi ro thanh khoản Quản trị rủi ro thanh khoản là vấn đề quan trọng của tất cả các ngân hàng. Trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, sự thất bại và các vấn đề khó khăn mà một số ngân hàng hàng đầu phải đối mặt có sự góp phần không nhỏ từ việc quản trị rủi ro thanh khoản thiếu hiệu quả.

Tại Việt Nam, thanh khoản trong hệ thống ngân hàng các năm sau khủng hoảng là không ổn định.

Chẳng hạn như tỉ lệ Cho vay/

Tiền gửi của toàn hệ thống ngân hàng năm 2012 là khoảng 91%.

Tỷ lệ này tương đối cao so với tỷ lệ thông thường theo chuẩn quốc tế của ngành (khoảng 30%- 70%). Điều này cho thấy thực tế các ngân hàng Việt Nam chủ yếu đầu tư tiền gửi cho mục đích tăng trưởng tín dụng thay vì nắm giữ tài sản dễ thanh khoản. Hệ quả là gây ra các vấn đề thanh khoản của các ngân hàng trong các năm qua không phải là chênh lệch tạm thời giữa lượng cho vay và tiền gửi mà do tỷ lệ nợ xấu trong cho vay doanh nghiệp cao. Các ngân hàng gặp khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ xấu để bù đắp các khoản tiền gửi đến hạn thanh toán và phải tìm kiếm nguồn huy động vốn từ thị trường liên ngân hàng với lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi từ khu vực dân cư do bị giới hạn bởi quy định lãi suất trần- sàn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

Qua bài học khủng hoảng, các nhà quản lí đã dần chú trọng hơn vào công tác quản trị rủi ro thanh khoản và yêu cầu các ngân hàng tăng cường thực hiện các phương pháp đo lường và cải thiện hệ thống báo cáo cũng như thực hiện các qui trình kiểm soát và giám sát nhằm quản trị rủi ro thanh khoản hiệu quả.

Hiện tại, hầu hết các ngân hàng đã xây dựng một cơ chế quản trị rủi ro thanh khoản, chủ yếu dựa trên các quy định của NHNN.

Khe hở thanh khoản là công cụ đo lường chính mà các ngân hàng đang sử dụng. Tuy nhiên phương pháp hiện tại để xây dựng khe hở thanh khoản chưa hoàn chỉnh và

chưa phản ánh được hồ sơ rủi ro thanh khoản một cách chân thực.

Bên cạnh đó, các ngân hàng chưa định kỳ thực hiện thử nghiệm sức chịu đựng về rủi ro thanh khoản.

Để hiểu rõ mức độ tối thiểu nguồn vốn dự phòng thanh khoản mà các ngân hàng cần duy trì để đảm bảo hoạt động kinh doanh bình thường trong các trường hợp khủng hoảng thanh khoản, các ngân hàng cần phải thực hiện thử nghiệm sức chịu đựng.

Quản trị rủi ro lãi suất Trong bối cảnh hoạt động hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay, quản trị rủi ro lãi suất dường như chưa phải là mối quan tâm lớn của các ngân hàng khi mà diễn biến lãi suất được điều hành sát sao bởi NHNN. Hiện nay, NHNN đang có các qui định lãi suất nhằm điều chỉnh lãi suất kinh doanh của các ngân hàng, ví dụ như lãi suất trần và lãi suất sàn cho các khoản tiền vay và tiền gửi. Do đó, các ngân hàng cũng phần nào bị giới hạn trong việc lựa chọn cách quản trị rủi ro lãi suất thông qua việc thay đổi lãi suất của các sản phẩm ngân hàng.

Mặc dù vậy, các ngân hàng vẫn nên tiến hành các bước đầu tiên trong việc thực hiện quá trình quản trị rủi ro lãi suất ngay từ thời điểm hiện tại. Trong tương lai, khi NHNN thả nổi lãi suất và để các ngân hàng tự quyết định trong việc áp dụng mức lãi suất cho các sản phẩm của họ dựa trên xu hướng thị trường, hồ sơ rủi ro lãi suất của của các ngân hàng sẽ chịu nhiều biến động hơn do các ngân hàng có thể thực hiện hoạt động kinh doanh với nhiều loại sản phẩm hơn và chịu ít hạn

(3)

chế hơn. Với việc bắt tay vào xây dựng quản trị rủi ro lãi suất ngay từ bây giờ, các ngân hàng sẽ được chuẩn bị tốt và có đủ khả năng để quản trị rủi ro lãi suất một cách có hệ thống khi có thay đổi về chính sách quản lí.

Kết quả khảo sát cho thấy, hiện nay hầu hết các ngân hàng chưa thành lập Ủy ban Quản lí tài sản Nợ- Có (ALCO), ALM chưa được thực

hiện tập trung mà thường được thực hiện phân tán tại các bộ phận chức năng về quản lí các mảng công việc liên quan đến thanh khoản, lãi suất…

Hầu hết các ngân hàng chưa có bộ phận chuyên

trách thực hiện công tác ALM.

Hầu hết các ngân hàng hiện nay chưa văn bản hóa được qui trình ALM thành một văn bản chính thức mà chỉ dừng lại ở việc qui định trong các văn bản về nghiệp vụ, quản trị có liên quan đến một số nội dung thuộc qui trình ALM.

Để thực hiện tốt ALM, các ngân hàng cần phải có hệ thống thông tin đầy đủ, cập nhật đáp ứng

được các mô hình hiện đại nhằm đo lường các rủi ro có liên quan.

Điều này phụ thuộc rất nhiều vào công nghệ của ngân hàng, hệ thống ngân hàng lõi (core banking), ngoài ra việc đo lường rủi ro có chính xác hay không còn phụ thuộc rất nhiều vào số liệu đầu vào của các ngân hàng.

Trong khi rủi ro phân tán và liên quan đến nhiều mảng hoạt động trong ngân hàng, thì tại hầu hết các ngân hàng, các mảng hoạt động này hiện đang được hỗ trợ thực hiện bởi các phần mềm độc lập và không đồng bộ, thống nhất với nhau. Việc triển khai không đồng bộ các hệ thống phần mềm nói trên gây nên tình trạng công nghệ và báo cáo không thống nhất, khó phối hợp hoặc đòi hỏi nhiều thời gian, công đoạn để có thể tích hợp lên cơ sở dữ liệu và hệ thống báo cáo chung của toàn ngân hàng, gây khó khăn cho việc thực hiện ALM một cách có hiệu quả. Hệ thống kho dữ liệu chưa được tổ chức khoa học, chưa đảm Bảng 2. Kết quả khảo sát về triển khai ALM tại các ngân

hàng

Chức năng quản trị tài sản Nợ, tài sản Có tại ngân hàng anh (chị) đang được thực hiện như thế nào?

Chưa có Được thực hiện phân tán Được thực hiện tập trung bởi ALCO

0% 81% 19%

Qui trình ALM tại ngân hàng anh (chị) đang được thực hiện ở mức độ nào?

Chưa có Nằm trong các qui định về

nghiệp vụ, quản trị rủi ro Đã văn bản hóa và được thực hiện

0% 93% 7%

Hệ thống thông tin phục vụ cho ALM tại ngân hàng anh (chị) đang ở mức độ nào?

Chưa đáp ứng

được yêu cầu Đáp ứng được yêu cầu ở

mức độ trung bình Đáp ứng được yêu cầu ở mức độ cao

5% 90% 5%

Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát

Biểu đồ 1. NIM của một số ngân hàng

Nguồn: Báo cáo tài chính của các NHTM

(4)

bảo đầy đủ lịch sử của thông tin và chưa đáp ứng được yêu cầu vận hành các chương trình, mô hình tính toán đo lường rủi ro.

Mục tiêu cuối cùng của ALM là đạt được tỉ lệ thu nhập lãi cận biên (NIM) phù hợp với khẩu vị rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất của ngân hàng. Tuy nhiên, trong những năm từ sau khủng hoảng 2008 đến nay, tỉ lệ này ở các ngân hàng đều có xu hướng giảm (ví dụ một số NH lớn như Biểu đồ 1), mà một trong những nguyên nhân chính là do các NH chưa thực hiện tốt ALM.

2. Những vấn đề cần quan tâm để thực hiện tốt ALM của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay

2.1. Đối với bản thân các ngân hàng thương mại

Để thực hiện tốt quá trình ALM, các ngân hàng phải xây dựng được cho mình các yếu tố cơ bản của ALM, bao gồm:

Thứ nhất, xây dựng và hoàn hiện chính sách ALM

Các ngân hàng cần xây dựng chính sách ALM chính thức thành văn bản và truyền đạt tới toàn bộ nhân viên. Chính sách cần bao quát chiến lược kinh doanh và mang tính chất toàn diện, rõ ràng về quyền sở hữu, vai trò và trách nhiệm trong khung quản trị ALM.

Các thay đổi về chính sách cần được truyền đạt tới các nhân viên một cách hiệu quả.

Chính sách ALM được cụ thể hóa nhằm quản trị: Độ nhạy của lãi suất; chất lượng của tài sản; khả năng thanh khoản; tỉ lệ đảm bảo an toàn hoạt động theo qui định của NHNN; tăng trưởng hoạt

động; lợi nhuận yêu cầu; thành phần cấu trúc của bảng cân đối.

Chính sách ALM cần qui định cụ thể những vấn đề sau:

- Mục tiêu của chính sách là xác định rõ nội dung cần thực hiện để thiết lập một cơ cấu tài sản nợ, tài sản có hợp lí, đảm bảo khả năng thanh khoản, hạn chế rủi ro lãi suất, gia tăng thu nhập và giá trị ròng cho ngân hàng. Đưa ra những nguyên tắc thống nhất về ALM, từ việc xác định, đo lường, kiểm soát, giám sát cho đến báo cáo. Nghiêm cấm các hành vi vi phạm chính sách trừ khi có sự thông qua và chấp nhận bởi hội đồng thành viên hoặc cấp có thẩm quyền.

- Qui định rõ những bộ phận và cá nhân chịu trách nhiệm về các quyết định ALM nói chung và các loại rủi ro nói riêng thuộc phạm vi của ALM.

- Qui định những hoạt động được phép và bị cấm như hoạt động và sản phẩm cho vay được phép, các công cụ đầu tư được phép;

các sản phẩm tiền gửi được phép;

công cụ đầu tư và nguồn vốn ngắn hạn được phép để quản trị tiền mặt; thẩm quyền và trách nhiệm trong đầu tư, định giá khoản vay, định giá tiền gửi; kỹ thuật quản trị rủi ro.

- Đưa ra các hướng dẫn và hạn mức: Hạn mức tập trung ngành/

mục tiêu đa dạng hóa cho đầu tư, cho vay và tiền gửi; kì hạn và mức thời hạn chấp nhận được về cho vay và đầu tư; giới hạn rủi ro tín dụng; hệ số mục tiêu về thanh khoản và hạn mức về yêu cầu nguồn vốn ròng; hệ số sử dụng tối đa các nguồn vốn tài trợ liên ngân hàng; mục tiêu hệ số khả

năng sinh lời và hoạt động chính;

- Qui định các chiến lược, biện pháp và công cụ phòng ngừa rủi ro lãi suất, thanh khoản mà ngân hàng có thể sử dụng.

- Chính sách kiểm nghiệm sức căng (stress testing) đối với rủi ro lãi suất và thanh khoản, đánh giá mức độ thiệt hại có thể xảy ra trong điều kiện thị trường có những biến động xấu ngoài dự tính ban đầu của NH, và phải cân nhắc những tổn thất này trong quá trình xây dựng các chính sách ALM.

- Chính sách kiểm thử lại mô hình (back testing): Đảm bảo rằng các mô hình được áp dụng chính xác trong việc đo lưởng rủi ro và không đánh giá thấp các thiệt hại tiềm tàng trong tương lai.- Qui định việc lập và sử dụng các báo cáo ALM nhằm đảm bảo các báo cáo đầy đủ thông tin và được báo cáo đến các cấp có thẩm quyền kịp thời.

- Qui định về việc duy trì vốn chủ sở hữu.

Thứ hai, sắp xếp, hoàn thiện lại cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị rủi ro nói chung và ALM nói riêng

Theo Ủy ban Basel về Giám sát ngân hàng “Quản trị rủi ro phải là một quá trình liên tục tại tất cả các cấp của TCTD và đóng vai trò quan trọng đối với khả năng thực hiện các mục tiêu, duy trì khả năng tài chính và trả nợ của tổ chức đó”.

Các ngân hàng cần phải tổ chức lại các bộ phận quản trị rủi ro của mình theo hướng mô hình quản trị tập trung, độc lập, trong đó phân chia trách nhiệm kiểm soát

(5)

theo 3 vòng như sau:

Kiểm soát vòng 1: Các chi nhánh là nơi trực tiếp kinh doanh và phát sinh rủi ro sẽ là vòng kiểm soát đầu tiên về quản trị việc lập và thực hiện kế hoạch kinh doanh, cân đối nguồn vốn- sử dụng vốn và quản trị các rủi ro thuộc phạm vi của ALM (rủi ro lãi suất, rủi ro thanh khoản).

Kiểm soát vòng 2: ALCO trực thuộc Ban điều hành, phối hợp với bộ phận quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất thuộc khối quản lí rủi ro chịu trách nhiệm xây dựng hệ thống, qui định, qui trình, hướng dẫn ALM, xây dựng, đề xuất thiết lập các hạn mức, giám sát và kiểm soát việc thực hiện ALM của các đơn vị tại vòng 1 và thực hiện báo cáo độc lập tình hình ALM lên ban lãnh đạo.

Kiểm soát vòng 3: Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc Hội đồng quản trị, chịu trách nhiệm định kì/

đột xuất kiểm tra, giám sát việc triển khai thực hiện ALM xem có được thực hiện đầy đủ và hiệu quả ở 2 vòng trên.

Thứ ba, xây dựng qui trình ALM Về cơ bản qui trình ALM bao gồm những bước chính sau:

Bước 1, xác định phạm vi của ALM: Phạm vi của ALM cần bao gồm những nội dung cơ bản mà ALM phải thực hiện như sau:

Thực hiện phân tích và theo dõi các thay đổi trên bảng Cân đối kế toán của ngân hàng, điều chỉnh cơ cấu tài sản có, tài sản nợ nhằm đạt được mục tiêu của chiến lược kinh doanh về lợi nhuận, an toàn vốn. Xác định các rủi ro mà ALM cần quản trị gồm rủi ro lãi suất và thanh khoản. Bên cạnh đó, ALM cũng cần kết hợp với các bộ phận

quản trị các loại rủi ro khác để biết được mức độ rủi ro mà ngân hàng đang gặp phải, đặc biệt là rủi ro tín dụng…, từ đó có những thay đổi, điều chỉnh trong quá trình ALM.

Bước 2, xác định và thu thập các yếu tố đầu vào của qui trình ALM: Các yếu tố đầu vào cần thu thập là những yếu tố cần thiết để thực hiện các nội dung thuộc phạm vi ALM đã xác định ở Bước 1. Về cơ bản bao gồm các yếu tố: Từng khoản mục tài sản nợ, tài sản có; lãi suất, kì hạn, tái tục; chênh lệch giá, dự báo tăng trưởng.

Bước 3, qui trình xử lí thông tin: Với các mô hình lựa chọn sử dụng cùng với các giả định (nếu có) các thông tin sẽ được tổng hợp xử lí theo mục đích của ALM.

Bước 4, đầu ra của qui trình ALM : Các thông tin được xử lí đã được tổng hợp thành các báo cáo ALM là cơ sở để phân tích thực trạng TSN, TSC, rủi ro của ngân hàng, trên cơ sở đó đưa ra các quyết định ALM phù hợp.

Các báo cáo ALM cơ bản gồm:

- Bảng Cân đối kế toán và báo cáo thu nhập (hiện tại và kế hoạch);

- Báo cáo chênh lệch so với số thực tế trước đó, ngân sách và khế ước;

- Số thực tế và dự báo đối với hạn mức và hướng dẫn chính sách ALM;- Tình hình thị trường, kịch bản lãi suất;

- Hệ số thanh khoản và dòng tiền/

cập nhật yêu cầu tài trợ ròng;

- Báo cáo GAP tái định giá thông thường;

- Mô phỏng thu nhập phản ứng với cú sốc lãi suất;

- Phân tích kì hạn của TSC và TSN.

Trong qui trình ALM, các ngân hàng cần quan tâm đến xây dựng và hoàn thiện qui trình quản trị rủi ro thanh khoản và quản trị rủi ro lãi suất là hai loại rủi ro thuộc phạm vi của ALM.

Thứ tư, xây dựng và hoàn thiện hệ thống thông tin ALM

Trên cơ sở các yêu cầu tích lũy dữ liệu sạch/thông tin chính xác và xây dựng các qui định về việc cập nhật thông tin lịch sử lưu trữ theo các chức năng quản trị rủi ro, các ngân hàng cần thực hiện:

- Đầu tư/triển khai kho dữ liệu phục vụ quản trị rủi ro nói chung và ALM nói riêng: Đầu tư triển khai hệ thống kho dữ liệu quản trị rủi ro, ALM trên toàn ngân hàng, tích hợp với các hệ thống khác trong ngân hàng; kiểm tra và chạy thử hệ thống; chuyển đổi dữ liệu hiện tại sang hệ thống kho dữ liệu quản trị rủi ro, ALM; xây dựng các công cụ chiết xuất dữ liệu và báo cáo phù hợp với mục tiêu quản trị rủi ro và ALM của từng ngân hàng.

- Đầu tư xây dựng hệ thống định giá chuyển vốn nội bộ (FTP) phục vụ quản trị rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất toàn hệ thống, tạo tiền đề triển khai hệ thống ALM.

- Đầu tư xây dựng các mô hình, công cụ đo lường khác để tiếp tục hoàn thiện hệ thống Quản trị rủi ro và ALM toàn diện của các ngân hàng.

2.2. Kiến nghị với các cơ quan quản lí

(6)

Đối với với Chính phủ

Khi các NH thực hiện quá trình ALM của mình, đòi hỏi phải điều tiết, cơ cấu lại nguồn vốn và tài sản của mình một cách linh hoạt và kịp thời thông qua các giao dịch trên thị trường tài chính. Bởi vậy, để tạo môi trường, điều kiện cho các TCTD thực hiện quản trị tốt thì Chính phủ cần phối hợp với các bộ ngành thực hiện các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển các thị trường tài chính, bao gồm:

- Thị trường tiền tệ: Thị trường tiền tệ phát triển tạo điều kiện khai thông cho dòng vốn dư thừa tạm thời của các TCTD. Vì vậy, khi có nhu cầu thanh khoản đột xuất, NH có thể tiếp cận nhanh chóng dòng vốn này với chi phí hợp lí.

- Thị trường chứng khoán: Chính phủ cần phối hợp với Uỷ ban Chứng khoán tìm ra các giải pháp thúc đẩy hoạt động của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán được coi là một kênh dẫn vốn đầu tư dài hạn trực tiếp và hiệu quả của nền kinh tế. Sự phát triển của thị trường chứng khoán vừa là một nhân tố cạnh tranh với hoạt động huy động vốn của NHTM, vừa tạo cho NHTM phát triển các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ cho hoạt động của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán, vừa đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của NH, đa dạng hoá danh mục đầu tư, tạo thị trường cho các chứng khoán mà NH nắm giữ có thể chuyển nhanh thành tiền mặt, đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong trường hợp cần thiết.

- Thị trường mua bán nợ: Đối với

các NHTM Việt Nam hiện nay, cho vay vẫn là một tài sản chiếm tỉ trọng lớn trong tổng tài sản, và hiện tại nợ xấu vẫn đang còn là vấn đề cần xử lí của các NH nhằm làm tăng tính thanh khoản cũng như tăng cường năng lực tài chính cho các NH. Để xử lí nợ xấu của hệ thống ngân hàng, NHNN đã thành lập VAMC theo QĐ số 1459/QĐ-NHNN ngày 27/6/2013 của Thống đốc NHNN. Theo Qui chế hoạt động của VAMC, VAMC không mua nợ xấu bằng tiền thật mà trả bằng trái phiếu đặc biệt. Các NHTM bán nợ xấu có thể cầm trái phiếu đến NHNN để vay tới mức 70%

giá trị các trái phiếu để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn. Các NHTM bán nợ xấu có trách nhiệm trích lập dự vòng 20% mỗi năm, trong 5 năm. Sau 5 năm họ có thể phải lấy lại các nợ xấu, chứ không phải VAMC bắt buộc phải tìm giải pháp thanh lí nợ xấu. Việc mua bán không phải là đứt đoạn mà là VAMC tạm thời giữ nợ xấu đó, cố gắng thanh lí có thể được.

Nếu không được thì sau 5 năm, các NHTM có nợ xấu phải lãnh nợ xấu trở về. Như vậy thực chất VAMC chỉ là kho giữ nợ xấu cho các NH mà thôi, bởi mục tiêu ban đầu thành lập cũng chỉ để hỗ trợ thanh khoản cho các NHTM. Với cơ chế đó thì thực chất nợ xấu không được xử lí triệt để, do vậy cần thiết thành lập thị trường mua bán nợ thứ cấp với sự tham gia của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, nhằm đẩy nhanh tốc độ xử lí nợ xấu đã mua cũng như tạo lối ra cho thị trường nợ sơ cấp với VAMC. Giải pháp này vừa giúp giải quyết những khó khăn trên

thị trường tiền tệ- tín dụng, vừa tạo tính liên thông giữa thị trường này với thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán.

- Thị trường phái sinh: Trong việc thực hiện ALM thì ngoài việc sử dụng các nghiệp vụ nội bảng để cân đối giữa tài sản có, tài sản nợ thì các NH còn có thể sử dụng các nghiệp vụ phái sinh nhằm phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên, để thực hiện được các giao dịch này thì đòi hỏi cũng cần phải có thị trường phái sinh phát triển.

Sự phát triển của thị trường tài chính đến một qui mô nhất định tất yếu phải phát triển thị trường phái sinh. Điều này cũng không phải là ngoại lệ đối với Việt Nam, khi quá trình hội nhập với thị trường tài chính thế giới đang diễn ra sâu rộng. Bởi vậy, Chính phủ cần chỉ đạo các bộ, ngành liên quan xây dựng hệ thống pháp lí đồng bộ cho sự phát triển của thị trường tài chính phái sinh.

Đối với NHNN

NHNN cần đưa ra những qui định theo thông lệ quốc tế tốt nhất về ALM một cách đầy đủ nhất, làm cơ sở pháp lí cho các NHTM thực hiện trong thời gian tới, cụ thể cần ban hành các qui định cụ thể hướng dẫn ALM tại các NHTM. Hiện nay về lĩnh vực ALM của các NHTM, NHNN mới đưa ra qui định về quản trị thanh khoản, vẫn còn một số điểm cần hoàn thiện theo thông lệ quốc tế. Cụ thể, theo mục 3, Thông tư số 13/2010/TT- NHNN ngày 20/05/2010 chỉ đề cập tới việc quản trị thanh khoản ngắn hạn của NH. Cần có hướng dẫn về việc cân đối giữa dự trữ cấp 1 và dự trữ cấp 2, giữa lợi ích và

(7)

chi phí trong ngắn hạn và trong tương lai. Vì vậy, cần thay đổi kết cấu đó để việc quản trị khả năng chi trả được chuyển thành quản trị khả năng thanh khoản.

NHNN cần yêu cầu các NHTM phải xây dựng kế hoạch dự báo thanh khoản dài hạn hơn, có thể là 1 tháng, 3, 9 tháng và thậm chí là trên 12 tháng trên cơ sở đa dạng hoá các loại tài sản có phục vụ cho mục đích thanh khoản.

Ngoài ra, bổ sung hệ thống các chỉ tiêu đo lường thanh khoản của NHTM cũng như các chuẩn mực cho hệ thống chỉ tiêu này và yêu cầu thực hiện phân tích kịch bản

mô phỏng rủi ro thanh khoản bắt buộc tại các NHTM. NHNN nên có yêu cầu bắt buộc và hướng dẫn các NHTM phải thực hiện chế độ báo định kì về các phân tích đánh giá mô phỏng các tình huống rủi ro thanh khoản trong nhiều thời điểm khác nhau của tương lai (ví dụ trong 1 ngày hoặc trong 7 ngày làm việc tiếp theo).

3. Kết luận

Nhằm đạt được mục tiêu lợi nhuận theo khẩu vị rủi ro của mỗi ngân hàng đòi hỏi các ngân hàng cần phải thực hiện tốt quá trình ALM. Bài viết đã khảo sát TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Rudolf Duttweiler, Thanh Hằng (người dịch), 2010, Quản lý thanh khoản trong ngân hàng, NXB Tổng hợp Thành phố HCM.

2. Peter Rose, 2011, Quản trị ngân hàng thương mại, NXB Tài chính.

3. Báo cáo tài chính của các NHTM giai đoạn 2008-2014, Báo cáo khảo sát ngành Ngân hàng Việt Nam năm 2013 của KPMG.

4. Com Bkg, 2008, Commercial Banking, Asset Liability Management.

5. Anil Choudhary Amit Soni, 2009, Asset Liability Management.

SUMMARY

Assets and Liabilities management in Viet Nam commercial banks, issues of concern today

Inside into process for restructuring credit institutions, Asset and Liability Management (ALM) is an essential part taking the attention of many banks in implementation, which contribute to complete management system of these banks.

By applying ALM, banks will minimize loss from interest risks, liquidity risk and ensure safety and efficiency in business operation. However, with Vietnamese commercial bank, ALM is currently a new and complicated issue that needs to have more researches from theoretical framework to application on reality. This article will bring out a general assessment about current situation of ALM in Vietnamese commercial banks and suggest some important issues for special attentions on implementation.

THÔNG TIN TÁC GIẢ Trịnh Hồng Hạnh, Thạc sĩ

Đơn vị công tác: Khoa Ngân hàng, Học viện Ngân hàng

Lĩnh vực nghiên cứu chính: Quản trị Tài sản Nợ- Tài sản Có của ngân hàng thương mại Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng Email: [email protected]

thực trạng ALM tại các NHTM Việt Nam hiện nay, chủ yếu tập trung vào các yếu tố cơ bản của ALM theo thông lệ quốc tế, là điều kiện cần để các ngân hàng có thể thực hiện quá trình ALM đạt được mục tiêu. Trên cơ sở đó đưa ra những vấn đề các NHTM cần thực hiện cũng như đưa ra các kiến nghị đối với Chính phủ và NHNN nhằm tạo môi trường, hành lang pháp lí cho các NHTM thực hiện được các giải pháp của mình. Tác giả mong nhận được ý kiến trao đổi từ các nhà khoa học và bạn đọc quan tâm về nội dung của bài viết. ■

cho khách hàng.

Để cải thiện hiệu quả kỹ thuật, hiệu quả kỹ thuật thuần, hiệu quả quy mô, sử dụng tối đa các nguồn lực hiện có nhằm tạo bước tăng trưởng nhanh và bền vững thì các NHTM cần có những định hướng và bước đi hợp lý như đẩy mạnh

tiếp theo trang

48

ứng dụng công nghệ mới, cần có định hướng chuyển từ ứng dụng công nghệ thông tin theo chiều rộng sang phát triển và ứng dụng theo chiều sâu, các NHTM cần phải chú trọng xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, giỏi về chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức trung thực, làm nền tảng để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn

lực bền vững, phát huy hiệu quả hơn nữa của bộ máy quản trị, việc nâng cao năng lực quản trị giúp các NHTM đảm bảo an toàn hoạt động, duy trì quy mô hợp lý từ đó phát triển theo đúng định hướng, chiến lược dài hạn giúp các ngân hàng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. ■

Referensi

Dokumen terkait