ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦAĐẢNGVÀO cuộcSỐNG
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẠI HỘI XIII
VỀ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
TS VÔVÀN LỢI Học viện Chỉnhtrị khu vực III
Đ
ổi tronghiện trong Văn kiện Đại hội mớinhững mô hình nội tăngdung trưởngquan trọng XIII kinh tế về lĩnh vựcđượclà thểmộtkinh tế. Trongđó xác định: “đẩymạnhcơ cấu lại nền kinh tế gắnvớiđổi mới mô hình tăng trưởng”1 là một
trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu đê thực hiện mục tiêu phát triển nhanhvà bền vững đất nước.
1. Sự pháttriền nhậnthứccủa ĐảngCộng sản Việt Nam về đổimóimôhình tăng trưởng kinh tế
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là đổi mới tầm nhìn chiến lược, dài hạn về cách thức vận hành nềnkinh tế để đạt được tảng trưởng kinh tế nhanh và bền vừng. Với ý nghĩa đó, tạiĐại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, để thực hiện quan điểm phát triẻn nhanh gắn liền với phát triển bền vững trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hộigiai đoạn 2011 - 2020, Đảng ta đã chì rõ: “Chuyểnđổimô hình tăng trưởng từ chủ yếuphát triển theo chiềurộng sang phát triển họp lý giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở rộng quymô, vừa chútrọng nâng cao chấtlượng,hiệu quả, tính bền vững”2. Như vậy, có thể thấyđổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế của Đảng ta trong giai đoạn này là phải đảm bảo hài hòa giữatăng trưởng kinh tế theo chiều rộngvới tăng trưởng kinhtế theo chiều sâu. Điềuđó vừa phù họp với điều kiện cụ thể cùa đất nước, vừa phùhọp với xuhướng tất yếu của thời đại. Bởi, Việt Nam không thêngay lập tức chuyên hoàn toàn sang mô hình tăng trưởng theochiềusâudohạn chế về trình độ khoa họccông nghệ và chất lượng nguồn nhân lực còn thấp. Hơn nữa, những điều kiện để tăng trưởng theo chiều rộng chưa phảiđã cạnkiệt. Tận dụng những
điều kiện đó là cần thiết đẻViệtNam có tăng trưởng nhanh.Tuy nhiên,nếu không kếthọpvới tăng trưởng theo chiều sâu, từngbước thay thế tăng trưởng theo chiều rộngthì tốc độ tăng trưởng của Việt Namtrong những năm tới sẽchậm dần lại vì ViệtNamphải đối mặt với tình trạng già hóa dân số và tài nguyên cạn kiệt, nguồn vốn quốc tế ưu đãi cho nước đang phát triển cũng giảm dần. Do đó, để thực hiện các mục tiêu phát triểntrong giai đoạn tới,Việt Nam cần tiếp tục phát huy các lợi thế sẵn có của đất nước, tức là vẫn phàităng trưởngkinh tế theo chiều rộng. Nhưngnếu chỉtăngtrưởng theochiều rộngsè vấp phải giới hạn của các nguồn lực. Mặt khác, do áp lực của cạnh tranh, nếu chỉ theo đuổi mô hình tăng trưởng theo chiều rộng, thì nềnkinh tế không thể đứng vững. Hơn nữa, việc nắm bắtxu thế khách quan của cách mạng khoa học - công nghệ và hội nhập kinh tế quốc tế mang lạisẽ chophép chúngta kết hợp mô hình tăng trưởng theo chiềurộngvới mô hình tăng trưởng theo chiều sâu dựa vào chuyểngiaocông nghệ và thuhút vốn đầu tư trực tiếp củanước ngoài. Việc thực hiện tăngtrưởng theo chiềurộng là bước đệm để bứt phá sang mô hình tăng trưởng theo chiều sâu vào cuối thậpkỷ này.
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015, với tinh thần:“Nhìnthẳngvàosự thật, đánh giáđúng sự thật, nói rõ sự thật”3. Đạihội XII khẳng định: “Mô hình tăng trưởngtừchủyếu theo chiều rộng đã bước đầucó sự chuyểnbiếnsangkết họp giữa chiều rộng và chiều sâu”; “Hiệuquảđầu tư xã hội, đầutưcông
ĐƯA NGHỊ QƯYÉT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀO cuộc SÓNG
từngbước được cải thiện, tình trạng đầutư dàn trải bước đầu được hạn chế”4. Tỷ lệvốn đầu tưtoàn xã hội so với GDPđã giảmtừ42,7% giai đoạn2006 - 2010, xuống 31,7%giaiđoạn2011 - 2015. Hiệu quả đầu tư (ICOR) được nâng lên,biểuhiệnhệsốICOR của nền kinh tế giảm từ 6,2 lần giai đoạn 2006 - 2010, xuống 5,4 lần giai đoạn 2011 - 2015. Tỷ trọng đónggóp của năng suấtcác nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2011 - 2015 đạt khoảng30%, cao hơn giai đoạn 2001 - 2010.
Tuynhiên, nền kinh tếnướcta vần chủ yếu tăng trưởng theo chiều rộng. Tăng trường kinh tế còn phụ thuộc nhiềuvào các yếu tố vốn, tài nguyên, lao động trình độ thấp, chưa dựa nhiềuvào tri thức, khoa học và công nghệ, lao động có kỳ năng. Nàng suất lao động chậm được cảithiện, thấp hơn nhiều so với một sốnước trong khu vực. Đóng góp của TFP vào tăng trưởngkinh tếcòn thấp. Tỷ trọng đóng góp của TFP vào tăng trưởng GDP giaiđoạn2011 - 2015đạt 30%, thấp hơnso với mục tiêuđề ra. Chưa phát huy được lợi thế sosánh và chưa tận dụngcáccamkết hộinhập quốc tế đểnâng cao chất lượng tăngtrưởng, phát triển bền vững.
Đại hội XII đã chỉ ra những nguyên nhân chủ yếudẫnđếnnhữnghạn chế, yếukémnói trên, đó là:
(i) Nhận thức về đổi mới mô hình tăng trưởng chưa đầy đủ; (ii) Thể chế hóa và tổ chức thực hiện còn chậm, thiếu hệ thống và đồng bộ. Chưa có đột phá về thể chế để huy động, phân bổvàsử dụng có hiệu quảnguồnlựcphát triển theo cơ chế thị trường; (iii) Chưaxác định rõ những ngành, lĩnhvực trọng tâm, trọng điểm cần ưu tiên trong chínhsáchcông nghiệp quốc gia chotừnggiaiđoạn.
Tóm lại, vềmặt thực tiễn, các mục tiêumà Đại hội XI đề ra cho giai đoạn 2011 - 2015 đãkhông đạt được;
vềmặt nhận thức đổi mới mô hình tảng trưởng là chưa đầyđủ, chưa làm rõnội hàm của đổi mới mô hình tăng trường; chưa xác định được nguồn lực, động lực và phương thức đểđổi mới mô hình tăngtrưởng. Vì vậy, Đại hội XII tiếp tục xác định: “Mô hình tăng trưởng ưong thời giantới kết hợpcóhiệu quả phát triển chiều rộng vớichiềusâu, chú trọng phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượngtăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sởnâng cao năng suất lao động, ứngdụngtiến bộ khoa học - côngnghệ, đổi mới và sángtạo, nâng cao chất
lượng nguồn nhânlực, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốctế,pháttriển nhanh,bền vững”5.
Cụ thể hóaquan điểm trên, tại Hộinghị lầnthứtư, Ban Chấp hành Trungương Đảng khoá XII,Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 05 - NQ/TW khóa XII ngày 1 -11 - 2016 về một sốchủ trương, chính sách lớn nhằm tiếp tục đổi mới môhình tăng trưởng, nâng caochất lượngtăng trưởng, năng suấtlao động, sức cạnh tranh của nền kinhtế. Nghị quyết chỉ rõ nội hàm của mô hình tăng trưởng mới mà ViệtNam xây dựng đến năm 2020 và tầmnhìnđến năm 2030, đó là: “mô hình tăng trưởng theo hướng chú trọng và ngày càng dựanhiều hơn vào các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động, sử dụnghiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là phát huy tinh thần yêu nước, lòng tựhào, tự tôn dântộc, trí sáng tạo của conngười Việt Nam và thànhtựu khoa học - công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành, lĩnh vực, các địa phương và cả nước”6. Đây là bước phát triển mới trong tư duy lý luận của Đảng ta về đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế. Theo đó, nội hàm của mô hình tăngtrưởngđược xác định: (i) Nguồn lực cho đổi mới mô hình tăng trưởng đó chính là “các nhân tố thúc đẩy tăng năng suất lao động” là tiến bộ khoa học - công nghệ và nguồn nhân lực chất lượng cao; (ii) Phươngthức để huy động, phân bổ, sửdụng có hiệu quả các nguồn lực đó chính là theo cơ chế thịtrường;
(iii) Động lực để đổi mới mô hình tăng trưởng đó chính là “tinh thần yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, trísáng tạo của con người ViệtNam và thànhtựu khoa học - công nghệ của nhân loại, mọi tiềm năng, lợi thế của các ngành,lĩnh vực, cácđịaphương và cả nước”.Bên cạnh đó, lần đầutiên Đảng ta đã xác định 5 mục tiêu cụ thể của đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế đến năm 2020 và tầmnhìnđến năm 2030. Có thể thấy, việc chỉ rõ các mục tiêu của đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế không chỉ là đơn thuần là những mục tiêu phấn đấu, mà còn là thước đo để đánhgiá một cách đúng đắn nhất những kết quả đạt được của đổi mới môhình tăng trưởng trong thời gian tới ở nước ta.
Trải qua 10 năm đổi mới mô hình tăng trưởng, Đảng ta đã quan tâmtổngkết thực tiễn, nghiên cứu kếthừa và pháttriển tư duy lý luận,nhận thức ngày càng rõ hơn quan điểm, mục tiêu, phương thức,
ĐƯA NGHỊQUYẾT ĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀO cuộc SÓNG
nguồnlực và động lựcđối mới mô hình tăng trưởng vớiđiều kiện cụ thê của mồi giaiđoạn.
2. Những điểm mói của Đại hội XIII về đoi móimô hình tăng trưởngkinh tế
Đánh giá chung về 10năm thực hiện Chiến lược pháttriển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đại hội XIII đã khẳng định: “Trong 10 năm qua, mặc dù gặp nhiều khó khăn, tháchthức rất lớn nhưng kinh tế - xã hội nước ta đã đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàndiệntrên hầu hết các lĩnh vực. Tốc độ tâng trưởngkinh tế được duytrìờ mức độ khácao.Đổi mới mô hìnhtăng trưởng, cơ cấu lại nên kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược có bước chuyểnbiến tích cực, đạt một số kết quả đáng khích lệ”7;“Tốc độ tăng trường kinh tếliên tục gia tăngtrong giai đoạn 2016 - 2019. Kinh tế vĩmô duy trì ôn định vừng chắc hơn, lạm phát đượckiếmsoát và duytrì ở mức thấp tạo môi trườngvà độnglực chophát triển kinhtế - xã hội..,”8.
Mặc dù đã đạt đượcnhiều thành tựu quan trọng, nền kinh tế nướcta vầncònnhiềuhạnchế, yếu kém và khó khăn, thách thức. Ket quapháttriểnkinh tế - xã hội trên nhiều mặtvần chưa tương xứng với tiềm năng, lợi the và thiếutính bền vững. Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triên kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020 và phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Đàng ta đã chì rõ: “Tăng trưởng kinh tế thấp hơn mục tiêu kế hoạch đề ra, chưa thu hẹp với khoảng cách và bắt kịp với các nước trong khu vực. Cácđột phá chiến lược và cơ cấu lại nềnkinh te găn với đôi mới mô hình tăng trường chưa có bứt phá lớn. Mô hình tăng trưởng vẫn còn phụ thuộc lớn vào bên ngoài; chưa quan tâmđúngmứcđến chuôi giá trị và cung ứng trong nước,...”9. Cụ thể, phát triển nông nghiệp vần còn những yếu tốthiếu bền vững, tăng trưởng chưa vừng chắc; phát triển công nghiệp chưa đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thiếu tính bền vừng; chất lượng dịch vụ còn thấp. Chuyển dịch cơ cấu ngành dịch vụcòn chậm, xuất khẩu dịch vụ còn hạn chế, chưa khắc phục được thâm hụt trong cán cân xuất, nhập khâu dịch vụ; sắp xếp lại, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước còn chậm tiến độ, chi mới tập trung vào việc sắp xếp, thu gọn số lượng; cơ cấu lại đầu tư, trọng tâm là đầu tư công chưa đápứng yêu cầu; cơ cấulại các
tổ chức tíndụng, nhất là các ngân hàng thượng mại yếu kém cònchậm, chi phí vốn còn cao.
Neu những hạn chế này không sớm được khắc phụcthì vấn đề tụthậu càng xa hơnvớicác nước trong khu vực là hiện hữu ngày càng rõ nét. Ngoài ra, yêu cầu phát triển trong giai đoạn này phảiđảm bảo mục tiêu kép phải vừa phát triển nhanh để bắt kịpvới xu hướng thời đại, vừa phải tạo ra sự bền vữngtoàn diện cho đất nước.
Với ý nghĩa đó, Đại hộiXIIIyêu cầu phải: “Tiếp tục đẩy mạnh đôi mớimô hình tăng trưởngkinh tế, chuyển mạnh nền kinh tế sang mô hình tăngtrưởng dựa trên tăng năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao, sử dụng tiết kiệm, hiệu quảcác nguồn lực đê nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh củanền kinh tế”10. Điểmmới củaĐại hội XIII là yêu cầu đổi mô hìnhtăng trưởng phải mạnh mẽ hơn, với những giải pháp đầyđủ, đồng bộ hơn có như vậy mới đưa đất nước bước vào mộtgiai đoạn phát triểnmới với tầm nhìn mới mà Đại hội XIII đã đề ra: Phấn đấuđến năm 2025 là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp, đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiệnđại, thu nhập trung bìnhcao và đến năm 2045 trờthành nước phát triển,thu nhập cao.
Mặt khác, đẩy mạnh đổi mới mô hình tăng trưởng không những xuấtphát từchính những yếu kém,bất cập nộitại như đã nêu trên, vấn đề còn xuất phát từ đặc điêm bôi cảnh khu vực cũng như thê giới hiện nay. Điều này đã được thể hiện rõ trong Báo cáo chiến lược phát triển kinh tế - xà hội 10năm 2021 - 2030 của Đại hội XIII: “Khoa học, công nghệ, đồi mới sáng tạo và cuộccáchmạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu. Khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết địnhđối vói năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia. Công nghệ số sẽ thúc đẩy phát triển kinh tếsố, xã hội số; làm thay đổi phương thức quản lýnhà nước, môhình sàn xuất kinh doanh, tiêudùng và đờisốngvănhóa, xã hội”11.
Với bối cảnh như vậy, nếu không nhanh chóng đôi mới mô hình tăng trưởng thìkhông nhữngkhông tranh thủ được những thờicơ mới do xuhướng phát
ĐƯANGHỊQUYẾTĐẠI HỘI XIII CỦA ĐẢNG VÀO cuộc SỐNG
triển củathế giới trong điều kiện ngày nay mang lại mà còn tự biến những cơ hộiđóthànhnhững nguy cơ và thách thức mớicho đất nước.
Do đó, về độnglực đổi mới môhình tăng trưởng, Đại hội XIII xác định tiến bộ khoa học công nghệ, đối mới sáng tạo, nhất là việc ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là động lực đê nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của các ngành, các lĩnh vực mang tính tốngthểnền kinh tế. Nhưvậyso với Đại hội XII, Đại hội XIII đã bổ sung và nhấn mạnh đến việc phải chủ động nắmbắtkịp thời, tận dụng hiệu quảcác cơ hội và coi đây là cáchthứcđểnềnkinh tế luôn năng động, liên tục có cải thiện về năng lực cạnh tranh, sức chống chịu với các cú sốc từ bên ngoài, từnộitạinềnkinh tế đểtạora dư địa cho tăng trưởng mới. Đại hội XIII đề ra chi tiêu đến năm 2025: Đóng góp của năng suấtcác nhântốtống hợp vào tăng trưởngkinh tế đạt khoảng45%; tốc độ tăng năng suất lao động bình quân trên 6,5%/năm; tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo đạt trên 20%
GDP; kinhtếsốđạtkhoảng 20% GDP...
về nguồn lực đổi mới mô hình tăng trưởng, Đại hộiXIII xác định: “kết họp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động,tích cực hộinhậpvànâng cao hiệu quả họp tác quốc tế, pháthuy tối đanội lực,trong đó nguồn lực nội sinh,nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất’’12. Đặc biệt, một trong những điểm mới của Đại hội XIII trong đổi mới mô hình tăng trưởng còn là nhấn mạnh vị trí của doanh nghiệp. Theo đó, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động cùa hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệsinhthái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
về phương thức đổi mới mô hình tăng trưởng trướcnhững yêu cầu mới, đòi hỏi mới của thực tiễn, Đại hội XIII bổ sung nhiều nhận thực mới, trong đó xác định: “Lấy cải cách, nâng cao chấtlượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đầy đù, đồng bộ, hiện đại, hội nhập,... Thị trường đóng vai trò chủyếu tronghuy động, phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực sản xuất, nhấtlà đất đai”13.
Coi đây là điều kiện tạo ra thể chế thị trường thực sự, sửdụnghợp lý và hiệu quảcácnguồnlực và là cơ sở
cho việcđổi mới mô hình tang trưởng theo chiều sâu, dựatrên khoa học công nghệ và đổi mới sángtạo.
Nhằm cụ thể hóacác nộidungđó, văn kiện Đại hội XIII nêucụ thể các nhiệm vụ, giải pháp chủyếu đeđổi mới mô hình tăng trưởng, đó là:
Thứ nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành kinh tế vĩ mô. Đây chính là điều kiện để thực hiện tốt đổi mới mô hìnhtăng trưởng kinh tế. Neu nền tảng kinh tế vĩ mô không vữngchắc; lạm phát không được kiêm soát; các cân đốilớn của nền kinh tế không đảm bảo; cơcấu thu, chi ngân sách nhà nước vànợ công không an toàn... thìkhôngthể thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và đổi mới mô hình tăngtrưởng.
Thứ hai, đâymạnh cơ cấu lại tổngthểcácngành, lĩnh vực kinh tế trên phạm vi cảnước, cụthể: “Tiếp tục đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế. Cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả đầu tư, nhất là đầu tư công. Cơ cấu lại, phát triển lành mạnh các loại thị trường, nhất là thị trường các yếu tố sản xuất để huyđộng, sử dụng có hiệuquảcác nguồn lực”14. Trong đó, cơ cấu lại đầu tư công cẩn tiếp tục theo hướng tập trung vốn vàocác ngành, lĩnh vực then chốt, thiếtyếu của nềnkinh tế, các côngtrình, dựántrọngđiểmđể tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt,cần cơ cấu lại thị trường bất động sản, thịtrường đất đai, tài nguyên để một mặtđấtđai, tàinguyên đượcsử dụng họp lý, tiết kiệm, có hiệu quả cao; mặt khác nhằm tạo lập môi trường ổn định nhằm thu hút đầu tư, phát triểnkinhtế.
Cơ cấu lại các ngành côngnghiệp, nông nghiệp, dịch vụ phải dựa trên nền tảngkhoa học công nghệ và đôi mớisáng tạo, đồng thời theo hướng tập trung phát triển các lĩnh vực, các sản phẩm có tiềm năng, giá trị gia tăng cao, sức cạnh tranh cao trong hội nhập kinh tế quốc tế. Cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp nói chung để phát triển lực lượng doanh nghiệp Việt Nam lớn mạnh, tăngcườnggắnkếtgiữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp trong nước. Do đó, việc thu hút vốn đầu tư trựctiếp nước ngoài phải chuyểntù “số lượng” sang
“chất lượng” nhằm đảmbảogắnkếtvớiđổi mới mô hình tăng trưởng,vừa đề khắc phục điểm yếu trong nhiều năm qua là sự thiếugắnkếtgiữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ĐƯA NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘIXIIICỦA ĐẢNG VÀO cuộc SÓNG
ngoài nên chưa tạo ra được sự chuyên giao công nghệ, thúc đẩyphát triển doanh nghiệp trong nước.
Thủ ba, tiếp tục thựchiệnbađộtpháchiến lược.
Tiếp tục hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xãhội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng cóhiệuquảcácnguồn lực, thúc đẩyđầutưsản xuất kinh doanh. Thực hiện giải pháp này sẽ huy động và phânbổ hiệu quả nguồn lực, khắc phục tư tưởngbao cấp, xin - cho, ỷ lại của các cấp, ngành, địa phươngvà trong xã hội.Từ đó mànâng cao hiệu quảđầutư,nâng cao năng suất lao động.
Phát triển giáo dục vàđào tạo đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chấtlượng caocủa cuộc Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế. Chú trọng phát triển nguồn nhân lực là điều kiện tiên quyết để đổi mới mô hình tăng trường kinh tế.
Chuyển mạnh sang địnhhướngmôhình tăng trưởng kinh tế theo chiều sâu không thể thành công nếu khôngcó nguồn nhân lựcchấtlượng cao.
Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hộiđồng bộ, hiện đại chính là nâng cao nănglực nội sinhcủanền kinh tế. Đặc biệtchú trọng xây dựng và phát triển đồng bộ, tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, hạ tầng cho chuyển đổisố, phát triển kinh tế số,chính phủ số, xã hội số. Phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, truyền thông đạt trình độ tiên tiến của khu vực ASEAN, internet băng thông rộng phủ 100% các xã, phát trien mạng5G,xâydựng hệ thống trung tâm dữ liệu quốcgia, các trung tâmdữliệungành,vùng, địa phương kết nối đồng bộ và thống nhất; bảođảmhạ tầng kỳthuật an toàn, an ninhthôngtin.
Thứ tư, phát triển mạnhmẽkhoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, tạo bứt phá nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh hanh cùa nền kinh tế.
Theo đó, tập trung hoàn thiệnthể chế, chínhsách,pháp luật phù hợp vớicơ chế thịtrường và thông lệ quốctế đểphát triển nền khoa học Việt Nam; phát triển mạnh khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làmtrung tâm;thúc đẩyphát triển mô hìnhkinh doanh mới, kinh tế số, xãhội số. có cơ chế, chính sách kinh tế, tài chính khuyến khích các doanh nghiệp tham gia nghiên cứu phát triển vàđổi mới công nghệ. Cho phép thực hiện cơ chế thực nghiệm chính sách mới,
thúc đây triên khai ứng dụng công nghệ mới, đổi mới sáng tạo, mô hìnhkinh doanh mới.
Thứ năm, phát triển khu vực kinh tế tưnhân của người Việt Namđế thực sựtrở thành mộtđộng lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh: xoábỏ mọi ràocản, định kiến, tạo mọi điều kiện thuận lợi đểphát triển kinh tế tưnhân; hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hoá công nghệ và phát triên nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Khuyếnkhích hình thành, phát triên những tập đoàn kinh tếtư nhân lớn, tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế.
Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệpvới tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhânvào GDP đạt60 - 65°/o15.
Thứ sáu, đẩy mạnh đối mới, nâng cao hiệu lực, hiệuquả quản lý, năng lực kiến tạo phát triên của nhà nước. Tiếp tục kiệntoàn, tinh gọntổchức bộ máy,đội ngũ cán bộ công chức nhànước các cấp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thâmquyền, trách nhiệm,khắc phục tìnhfrạng chồngchéo, trùng lặp; thực hiện đúng vai trò,chứcnăng quản lý kinh tế của nhà nướctrong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựngnhà nướckiến tạo phát triển, nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, luật pháp,chínhsách, chiến lược,quy hoạch, kếhoạch;
đồng thời tăngcườngkỷ luật, kỷ cương,hiệulực,hiệu quả thi hànhpháp luật, bảo đảmchấp hành phápluật nghiêm minh. Cải cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cảnhạn chế quyền tự do kinh doanh, cảithiện, nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh. Phấn đấu đến năm 2030, môi trường kinh doanh của ViệtNam được xếp vào nhóm30quốc gia hàng đầu.
Đổi mới mô hìnhtăng trưởng kinh tế là một yêu cầu cấp bách của Việt Nam và yêu cầu này đãđược thể hiện trongvăn kiện Đại hội XIII về lĩnh vực kinh tế. Đây là một trong những “nhiệm vụ cơbản, trọng yếu, có ý nghĩa quyết địnhđốivới việc thực hiện mục tiêu phát triển nhanh và bền vững đất nước”16, đặc biệt là đề hiện thựchóa khát vọng trở thành quốcgia phát triên và thu nhậpcao vào năm 2045 mà Đại hội XIII đã đề ra. Những quanđiểm mới về đổi mớimô
Xem tiếptrang 45