• Tidak ada hasil yang ditemukan

QUAN ĐIỂM CỦA J.LOCKE VỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "QUAN ĐIỂM CỦA J.LOCKE VỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

QUAN ĐIỂM CỦA J.LOCKE VỀ NGUỒN GỐC VÀ BẢN CHẤT CỦA NHÀ NƯỚC

Đinh Thị Giang*

Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên

TÓM TẮT

Triết gia người Anh, John Locke là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây thế kỷ XVII và được xem là một trong những cội nguồn tri thức của phong trào Khai sáng của Châu Âu.Những kiến giải của J.Locke dựa trên cái phương án chung của triết học chính trị thế kỉ XVII và XVIII, là quan niệm về các quyền tự nhiên và khế ước xã hội,vừa tiếp nối dòng chảy liên tục của tư tưởng nhân loại về phạm trù “nhà nước”, “quyền lực” từ thời Hy Lạp - La Mã cổ đại đến thời Phục hưng, vừa góp phần tạo tiền đề trực tiếp cho trào lưu Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII và ghi dấu ấn rõ nét trong tư duy và hành động của các nhà lập quốc Mỹ sau này.

Từ khóa: Nhà nước, quyền lực, Triết học chính trị, John Locke, Xã hội công dân.

ĐẶT VẤN ĐỀ *

Triết gia người Anh John Locke (1632-1704) là một trong những tên tuổi nổi bật nhất trong lịch sử tư tưởng phương Tây thế kỷ XVII và được xem là một trong những cội nguồn tri thức của phong trào Khai sáng của Châu Âu.

Tư tưởng chính trị của J.Locke ảnh hưởng sâu rộng đến tư tưởng chính trị Anh và Tây Âu.

Các nhà khai sáng Pháp, mà Montesquieu là một trong những người mở đường, đón nhận J.Locke, xem ông như bậc tiền bối của lý luận về nhà nước pháp quyền hiện đại.

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Nguồn gốc của nhà nước

Luận giải về vấn đề này là giá trị bao trùm và nổi bật trong tư tưởng chính trị của J.Locke.

Chính lý thuyết về quyền tự nhiên và khế ước xã hội là cốt lõi cơ bản trong quan điểm của J.Locke về nhà nước và tổ chức nhà nước.Theo ông, sự kết hợp giữa con người về tự nhiên có trước sự kết hợp giữa con người với con người. Trong quan hệ tự nhiên đó, luật tự nhiên hay các quyền tự nhiên chi phối và thống trị. Ở đó, những quyền tự nhiên của con người là tối cao và bất khả xâm phạm. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền sở hữu. Quyền tự nhiên được J.Locke nhắc tới trước hết là quyền mưu cầu sinh tồn của con người. Ông quan niệm, “tài sản là quyền tự

*Tel: 0987128483, Email: [email protected]

nhiên và sinh ra do lao động. Chính lao động sinh ra giá trị tài sản của một vật thể. Tài sản là tính có trước cả nhà nước và do vậy, nhà nước không có quyền can thiệp” [1].

Theo J.Locke, nhà nước ra đời xuất phát từ nhu cầu kinh tế. Ông cho rằng, lao động tạo ra của cải, nhưng việc tích lũy của cải cũng có giới hạn vì khả năng sản xuất và tiêu thụ có hạn của con người. Để giải quyết vấn đề này cần có lưu thông tiền tệ vì chính tiền tệ khiến việc tích lũy là có thể mà tránh không bị lãng phí hay hư hỏng như khi tích lũy hàng hóa.

Ông cho rằng, bất bình đẳng sinh ra do sự thỏa thuận ngầm trong việc sử dụng tiền tệ chứ không phải từ khế ước xã hội trong xã hội văn minh hay do các luật lệ điều chỉnh quyền sở hữu đất đai” [1]. Ông cũng nhận thức được vấn đề đặt ra từ việc tích lũy không có giới hạn, nhưng mới chỉ ám chỉ rằng chính quyền cần điều hòa mâu thuẫn giữa việc tích lũy của cải không có giới hạn, với việc phân phối của cải bình đẳng hơn, mà chưa hề đề cập đến những nguyên tắc mà dựa vào đó, chính quyền giải quyết được việc này.

Theo J.Locke, nguồn gốc của thể chế nhà nước không chỉ ra đời từ nhu cầu kinh tế, mà còn ra đời từ trong trạng thái tự nhiên.

J.Locke giải thích rằng trong trạng thái tự nhiên, con người được tự do làm những điều họ muốn, miễn là không vi phạm “luật tự nhiên” là luật của ý trí. Lý trí “dạy cho mọi

(2)

Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 127 - 130

người tham khảo nó rằng, vì mọi người bình đẳng với nhau, không ai được làm hại người khác về sinh mạng, sức khoẻ, tự do hay của cải” [1, tr. 377]. Một cách tích cực, luật tự nhiên đòi hỏi người ta bảo tồn sự sống của mình và của người khác. Trong trạng thái tự nhiên, mọi người có quyền bảo vệ tài sản của mình chống lại người khác – tài sản là từ J.Locke dùng để chỉ chung “sự sống, tự do, và của ai” [1, tr.377].

J.Locke hỏi tại sao có người muốn rời bỏ trạng thái tự nhiên và nhiều tự do của nó, để chấp nhận lệ thuộc một quyền bính chính trị. Câu trả lời khá đơn giản, mặc dù một người trong trạng thái tự nhiên sở hữu tài sản (sự sống, tự do, của cải) nhưng việc “hướng nó trong trạng thái này rất thiếu an toàn, rất bấp bênh”.

J.Locke nói rằng: mục đích lớn và chính của việc con người kết hợp thành các quốc gia và đặt mình dưới sự cai trị của chính quyền là việc bảo vệ tài sản của họ. J.Locke liệt kê ba sự “bất tiện” của trạng thái tự nhiên: không phải mọi người đều biết luật tự nhiên; không có người xét xử vô tư để giải quyết các tranh chấp giữa các cá nhân và không có cách hiệu quả để bắt buộc thi hành luật. Chính vì vậy

“người ta muốn có một bộ luật bằng chữ viết và một trọng tài phân xử độc lập để giải quyết tranh chấp. Để đạt những mục tiêu này, người ta tạo ra một chính quyền dân sự” [2, tr. 221].

Như vậy, do ý thức các khiếm khuyết này của trạng thái tự nhiên, để bảo vệ những quyền tự nhiên thiêng liêng của mình mà mọi người, mọi thành viên trong xã hội “ký kết” hình thành chính quyền. Đó là cơ quan quyền lực chung mà chức năng gốc của nó là bảo vệ những quyền tự nhiên của mỗi con người.

Quyền lực chung đó không phải tự nó có mà là tổng hợp của sự ủy quyền của mọi thành viên xã hội – công dân.

Bản chất của nhà nước

Theo quan điểm của J.Locke, nhà nước ra đời trên cơ sở khế ước xã hội. Theo khế ước xã hội, nhà nước không cần có quá nhiều quyền

lực, vì như vậy chỉ khiến người dân bị đè nén.Ông cũng nhận thấy “nguy cơ của quyền lực tuyệt đối, quyền lực độc tài dù trao cho một cá nhân hay một nhóm người. Dạng nhà nước tốt nhất chính là quyền lực của hệ thống chính quyền được hạn chế bằng cách chia thành các nhánh và mỗi nhánh có quyền hạn riêng cần thiết đủ để thực hiện chức năng của mình. Theo ông, một hệ thống nhà nước cần có quyền xét xử độc lập mà việc ra quyết định được thực hiện chỉ dựa trên duy nhất hiến pháp của cả quốc gia” [1]. Ông cho rằng, trách nhiệm của quốc hội là lập pháp và nhiệm vụ của nhà vua là hành động như một người chấp pháp tối cao.

Từ quan niệm này, ông đã dành cho thuyết phân quyền trong quyền lực nhà nước một ý nghĩa đặc biệt. Theo ông, hai nhánh quyền lực chính là quyền lập pháp và quyền hành pháp.

Theo J.Locke quyền hành pháp thuộc về nhà vua. Nhà vua lãnh đạo việc thi hành pháp luật, bổ nhiệm các bộ trưởng, chánh án, và các quan chức khác. Hành động của nhà vua phụ thuộc vào pháp luật và vua không có đặc quyền nhất định nào đối với nghị viện (như quyền phủ quyết, bãi miễn…) để nhằm không cho phép nhà vua thâu tóm toàn bộ quyền lực về tay mình và xâm phạm các quyền tự nhiên của công dân. Nhà vua cũng thực hiện quyền liên minh (liên bang) tức là giải quyết các vấn đề chiến tranh, hoà bình và đối ngoại.

Ngoài ra, còn có một quyền khác gắn với quyền hành pháp là quyền bang giao. J.Locke không coi tư pháp như một nhánh quyền lực, mà đưa chức năng phán xử về cơ quan hành pháp. Theo ông, các nhánh quyền lực này phải thuộc về những người khác nhau, thực hiện các chức năng tương đối độc lập để tránh xu hướng độc tài, nhưng giữa chúng không có sự bình đẳng hoàn toàn. Quyền lập pháp xem là quyền tối cao, vì luật đầu tiên của mọi quốc gia là luật thiết lập quyền lập pháp. Nó là linh hồn của một thể chế chính trị, là căn cứ để mỗi công dân dựa vào đó tự điều chỉnh hành vi của mình nhằm đạt đến một cuộc sống

(3)

hạnh phúc, để tự bảo tồn và liên kết với những công dân khác trong một xã hội tự do nhưng có kỉ cương.

Theo J. Locke, “quyền hành pháp có tính chất phụ thuộc, song không nên hiểu tính chất phụ thuộc này một cách đơn giản. Một mặt, người nắm giữ quyền hành pháp phải dựa vào khung pháp lí chung; mặt khác, không phải lúc nào quyền lập pháp cũng quán xuyến mọi thứ. Do vậy, quyền hành pháp không chỉ là điều hành công việc, mà còn là góp phần làm ra những luật cụ thể và điều chỉnh những luật ấy. Luật phải được cập nhập, mà muốn cập nhập phù hợp với biến đổi thực tiễn thì lại phải cần đến những chất liệu từ cơ quan hành pháp. Hơn nữa, mặc dù quyền lập pháp được coi là quyền tối cao và thiêng liêng, nhưng vẫn không được phép vượt quá xa so với quyền lợi của công dân. Mọi người dân đều phải tin vào cơ quan lập pháp và hành pháp để thực hiện hoá quyền công dân của chính mình.

Không phải cơ quan lập pháp, mà nhân dân mới là người nắm giữ quyền lực thực sự” [2].

Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của sự phân chia quyền lực chủ yếu để những người làm luật tuân thủ, thích nghi các luật họ làm ra trong việc làm luật và thi hành luật, cho phù hợp với lợi ích riêng tư của họ. Vì vậy, cơ quan hành pháp “ở dưới luật”. Cả cơ quan lập pháp cũng không phải tuyệt đối, mặc dù nó là

“tối cao”, vì quyền lập pháp được coi là một sự uỷ thác và vì thế chỉ là một quyền được giao phó do sự tin tưởng. Rốt cuộc, “vẫn còn trong tay nhân dân một quyền tối cao để loại bỏ hay thay đổi cơ quan lập pháp khi họ thấy cơ quan lập pháp đi ngược lại sự uỷ thác của họ” [2, tr. 222]. J.Locke không bao giờ đồng ý rằng dân chúng đã trao quyền cho nhà cầm quyền (chúa tể) một cách không thể thu hồi.

Ông chấp nhận quyền nổi loạn, nhưng nó chỉ được biện minh khi chính quyền bị giải thể.

Theo J.Locke, chính quyền tan rã không chỉ khi nó bị kẻ thù ở bên ngoài lật đổ, mà còn khi trong nội bộ có sự thay đổi cơ quan lập pháp.

Ngành lập pháp có thể bị thay đổi, ví dụ nếu

hành pháp lấy luật của mình thay cho luật của luật pháp, hay nếu hành pháp không chu toàn việc thi hành các luật chính thức, trong những trường hợp này, nổi loạn được biện minh.

J.Locke cũng phân biệt quyền hạn của nhà nước do truyền ngôi với quyền hạn chính trị và độc tài. Quyền hạn truyền ngôi là hạn chế, còn quyền hạn chính trị là lấy từ quyền của mỗi cá nhân để đảm bảo việc thực hiện luật của tự nhiên. Quyền độc tài thì ngược lại, nó lấy quyền sống, tự do, sức khỏe và cả một phần của cải của người khác để phục vụ cho quyền lực của mình

Về bản chất của nhà nước, J.Locke có ba kết luận quan trọng: Quyền lực nhà nước, về bản chất là quyền của nhân dân.Quyền lực của nhân dân là cơ sở, là nền tảng của quyền lực nhà nước. Trong quan hệ với dân, về bản chất, nhà nước không có quyền mà chỉ là thực hiện sự uỷ quyền của dân.

Nhà nước - xã hội chính trị - xã hội công dân, thực chất là một “khế ước xã hội”, trong đó, các công dân nhượng một phần quyền của mình để hình thành quyền lực chung đó điều hành, quản lý xã hội nhằm bảo toàn những quyền lực tự nhiên của mỗi cá nhân công dân.

Vì thế, một khi hợp đồng bị vi phạm, chính quyền làm sai lạc mục đích của hợp đồng, khi đó các công dân có quyền (kể cả đứng lên cầm vũ khí) huỷ bỏ “những khế ước” đã ký.

Như J.Locke đã chỉ ra “sau khi có sự hợp nhất đầu tiên của đa số người tạo thành xã hội, một quyền lực toàn thể của cộng đồng trở thành cái đương nhiên có ở họ, và đa số đó có thể thường xuyên sử dụng tất cả quyền lực này trong việc làm ra luật cho cộng đồng và thực thi các luật đó bằng các quan chức do chính họ bổ nhiệm, và như vậy hình thức của chính quyền này là một nền dân chủ hoàn hảo”.

J.Locke phủ nhận chế độ quân chủ chuyên chế, bởi vì một ông vua chuyên chế thường xâm phạm đến tự do và sở hữu và không một ai được đảm bảo tránh khỏi sự xâm phạm đến các quyền của mình. Để bảo vệ “các quyền tự

(4)

Đinh Thị Giang Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 170(10): 127 - 130

nhiên”, theo J.Locke thích hợp nhất là chế độ quân chủ lập hiến.

Như vậy, theo quan điểm của J.Locke, quyền lực của nhà nước là có giới hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân. Ngoài ra, quyền lực của nhà nước có thể bị thay đổi bởi chính người dân, người bị trị, những người đã trao quyền cho nhà nước. Đó là những giá trị trong tư tưởng của J.Locke về Nhà nước.

KẾT LUẬN

Tóm lại, theo quan điểm của J.Locke, quyền lực của nhà nước là có giới hạn và nhà nước có nghĩa vụ đối với người dân. Ngoài ra, quyền lực của nhà nước có thể bị thay đổi bởi chính người dân, người bị trị, những người đã trao quyền cho nhà nước. Để duy trì trật tự xã hội, bất kì nhà nước nào cũng đều phải có sự đồng thuận của những người bị trị. J.Locke cũng nhận thấy rằng, khó có thể đạt được sự đồng thuận cho một luật lệ cụ thể được đưa ra, J.Locke chủ trương phải chấp nhận đặt sự quyết định dựa trên ý kiến của đa số lên trên hành vi của mỗi cá nhân.

J.Locke không chỉ là người cha của chủ nghĩa tự do mà là trí tuệ của những cuộc cách mạng đã thành công, ông đã phác hoạ, vạch ra những yêu cầu có tính chất “tất yếu kỹ thuật”

cho việc thiết kế các thiết chế chính trị sau khi lật đổ chuyên chế, coi tự do là giá trị chủ đạo.

Quan điểm của J.Locke về nhà nước, bên cạnh những hạn chế thì vẫn còn những giá trị nhất định. Những giá trị này là tiền đề tư tưởng cho Chủ nghĩa Mác kế thừa và hoàn thiện học thuyết của mình và là mục tiêu phấn đấu của nhiều dân tộc trong đó có Việt Nam chúng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.https://vi.wikipedia.org/wiki/John_Locke 2.http://www.triethoc.info/2014/02/triet-hoc-xa- hoi-cua-john-locke.html

3.Samuel Enoch Stumpf, Donald C.Abel (2004), người dịch Lưu Văn Hy, Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp TPHCM.

4.Samuel Enach Stumpf (2004), người dịch Đỗ Văn Thuấn, Lưu Văn Hy, Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, Hà Nội.

SUMMARY

J. LOCKE’S THOUGHTS OF THE ORIGIN AND CHARACTERISTICS OF CIVIL SOCIETY

Dinh Thi Giang* University of Medicine and Pharmacy - TNU

The English philosopher, John Locke was one of the most prominent in the history of Western thought in the seventeenth century and is considered one of the sources of knowledge of the Enlightenment movement of Europe.J. Locke’s explanations, based on the general ideas of the political philosophy in the seventeenth and eighteenth centuries are the concepts of natural guides and social contract, which either inherited the flow of the constant human’s ideas on “the state”,

“power” from the Greco – Roman period to Renaissance or made contribution to creating direct premises to the French Enlightenment movement in the eighteenth century and making an impression in American Founding Fathers’s mind and actions.

Key words: the state, power, political philosophy, John Locke, Civil society

Ngày nhận bài: 04/7/2017; Ngày phản biện: 01/8/2017; Ngày duyệt đăng: 28/9/2017

*Tel: 0987128483, Email: [email protected]

(5)

soT T¹p chÝ Khoa häc vµ C«ng nghÖ

SOCIAL SCIENCE – HUMANITIES – ECONOMICS

Content Page

Luu Binh Duong, Nguyen Van Tien - "Sacred" fundamental structure of customary law 3 Nguyen Thi Mai Chanh, Bui Thuy Linh - The characters of mythology in “The Republic of Wine” by

Guan Moye 9

Pham Van Cuong - Studying adaptation to the training menthod of the credit for northern mountainous ethnic

minority students 15

Bui Linh Phuong, Mai Thi Ngoc Ha - Analysis and comparison of mathematical content in the forestry

agricultural sector training program of a number of universities in the world 19 Trinh Thi Kim Thoa - The situation and the solutions to improve the quality of teaching and learning Ho Chi

Minh ideology at University of Information and Communication Technology – TNU 25 Than Thi Thu Ngan - The 90th anniversary of the publication of "Duong Kach menh" book (1927 – 2017)

Theoretical and practical meaning of the work “Duong Kach menh” of the leader Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh 31 Ma Thi Ngan - Some features should be regarded when building a physical education program to increase the

learning result of students 35

Duong Thi Huong Lan, Nguyen Vu Phong Van, Nguyen Hien Luong - Applied experiential learning activities in an English speaking lesson of University of Economics and Business Administration - Thai

Nguyen University 41

Le Ngoc Nuong, Nguyen Thi Ha, Nguyen Hai Khanh - Building the theory of integrity of satisfaction in the

work of laborers at Thai Nguyen Traffic Trading and Management Joint Stock Company 47 Doan Quang Thieu - Establishing the standard sample system of occurred economic operations and accounting

vouchers for students' practice 53 Do Thi Ha Phuong, Doan Thi Mai, Chu Thi Ha, Nguyen Thi Giang - Factors influencing willingness to pay

for safety food in Thai Nguyen city, Thai Nguyen province 59

Nguyen Thi Thanh Thuy - Analysis of FPT Joint Stock Company 's financial situation 65 Vu Hong Van, Luong Thi Mai Uyen - Strengthen competitive capability of mechanical industry in the process

of international economic integration 71

Nguyen Thi Linh Trang, Bui Thi Ngan - The development of non - cash payment service at military JSC Bank

– Thai Nguyen branch 77

Nguyen Thi Lan Anh, Nong Thi Van Thao - Building the system of management support in scoring staffs at

Vietcombank transaction deparment 85

Nguyen Thu Nga, Kieu Thi Khanh, Hoang Van Du - Investigation of commercial bank’s efficiency with

credit risk incorporated 91

Nguyen Thi Van, Nguyen Bich Hong - Solutions to promote the economic structural transformation in Bac

Giang province towards industrialization and modernization to 2020 with a vision to 2030 97 Dam Thi Phuong Thao, Nguyen Tien Manh - Estimating the effect of some factors on operational efficiency

of real estate companies posted up in Viet Nam stock market 103

Pham Thi Huyen - Precedent and the application of precedent in Vietnam law system 109 Duong Thi Huyen - The relationship of the English's factory in Hirado (1613- 1623) with Japan government 115 Tran Nguyen Si Nguyen - Subtle mass mobilization is core of political activism art of Ho Chi Minh 121

Journal of Science and Technology

N¨m

2017

(6)

Dinh Thi Giang - J. Locke’s thoughts of the origin and characteristics of civil society 127 Tran Bao Ngoc, Le Thi Luu, Bui Thanh Thuy et al - The pharmaceutical students’ perception of educational

environment at Thai Nguyen University of Medicine and Pharmacy by DREEM questionnare 131 Luong Ngoc Huyen - A current issue of applying mathemarics into teaching practice and assessing,

evaluating the result of learning mathemarics of 10th grade students in high schools in Tuyen Quang city,

causes and solutions 137 Nguyen Thi Hong, Nguyen Xuan Truong, Hoang Thi Giang - Geographical approaches in research of the

relationship between economic development and ensuring national defense and security for border communes,

Ha Giang province 143

Do Thi Quyen, Nguyen Thi Kim Tuyen - Study psychological factors which affect to the buy online behavior of

consumers in Thai Nguyen province 149

Phuong Huu Khiem, Nguyen Dac Dung, Nguyen Ngoc Ly - Developing the output product market for forest

plantations followed sustainable trend in Dong Hy district, Thai Nguyen province 155 Phan Thi Thanh Huyen, Ha Xuan Linh - Study on residental land price in Soc Son district, Ha Noi city 161 Nguyen Thi Van Anh - Attracting investment – motivation and foundation to develop sustainable economic in

Thai Nguyen province 167

Van Thi Quynh Hoa, Nguyen Lan Huong - The effects of information technology in teaching English to first

year students at University of Agriculture and Forestry - Thai Nguyen University 173 Mai Van Can - Using the character of Thach Sanh in teaching English practice at secondary school 179 Do Thi Huong Lien - Discussion on revolution of Hoang Dinh Kinh (Cai Kinh) and relationship with

contemporary revolutions 185

Pham Van Quang, Nguyen Huy Anh - Solutions to enhance the activeness of study of students physical

education and sport faculty at Thai Nguyen University of Education 191

Nguyen Thi Minh Thu, Bui Thi Ngoc Anh - Folk songs in fishing village of Ha Long Bay - characterristics of

sea culture 197

Dang Anh Tuan, Ngo Thi Minh Hang, Pham Thi Trung Ha - Recovering of real estate market and business

risk of real estate companies 203

Le Van Tho, Vu Anh Tuan - Assessment land use in urban areas in Viet Tri city – Phu Tho province from

2011 to 2016 209

Referensi

Dokumen terkait