• Tidak ada hasil yang ditemukan

QUAN HẸ OTTOMAN - ACEH TRONG THẾ KỶ XVI - Nghiên cứu

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "QUAN HẸ OTTOMAN - ACEH TRONG THẾ KỶ XVI - Nghiên cứu"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

QUAN HẸ OTTOMAN - ACEH TRONG THẾ KỶ XVI

DOÃN TÙNG ANH*

* Ths. Doãn Tùng Anh, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQGHN

Tóm tắt: Trong thế kỷ XVI, Đông Nam Á - vùng biên phía Đông của thế giới Islam giáo - đã trở thành một trong những nơi tranh giành ảnh hưởng mạnh mẽ giữa Islam giáo và Kitô giáo. Trước ưu thế về hàng hải và quân sự của người Bồ Đào Nha, các quốc gia Islam giáo dọc theo Ân Độ Dương đã phải tăng cường liên kết lại với nhau để cùng chống lại kể thù chung. Một ví dụ điển hình của việc này là mối quan hệ giữa Đế chế Ottoman và nhà nước Islam giáo Aceh. Những liên kết giữa hai thế lực Islam giáo này cho thấy những toan tính chính trị có thể vượt ngoài tầm giới hạn của địa lý, như là một trong các bằng chứng đại diện cho tham vọng bá quyền của Đế chế Ottoman, củng như sức sống của tinh thần Dar al Islam của người Muslim.

Từ khóa: đế chế Ottoman, Aceh, Islam giáo, Malacca, Bồ Đào Nha.

Mở đầu

Sự sụp đổ của Malacca năm 1511 và thất bại của đế chế Mamluk trước đó trong việc ngăn chặn người Bồ Đào Nha ở Ân Độ đã dẫn đến tổn thất nặng nề cho người Muslim ở Đông Nam Á nói riêng, và cả thế giới Islam giáo ở Ân Độ Dương nói chung.

Nỗ lực chống lại người Bồ Đào Nha nhanh chóng được phát động trong thế giới Islam giáo, và một loạt các cảng quốc ở Ân Độ và Đông Nam Á đã tỏ rõ thái độ đối địch với khu đồn trú Bồ Đào Nha ở eo biển Malacca.

Trong số các cảng thị tự tuyên bố mình là quốc gia kế thừa của Malacca có Aceh (tây bắc Sumatra, Indonesia ngày nay) được

xem là tiền đồn chống người Kitô giáo hàng đầu ở Đông Nam Á, cũng như địch thủ đáng gờm nhất của người Bồ Đào Nha. Sự hưng vượng của Aceh trong thế kỷ XVI có một sự trự giúp không nhỏ từ những người Muslim ở Tây Á, đặc biệt là đến từ đế chế Ottoman.

Những trợ giúp này bao gồm vũ khí và thuốc súng, hỏa pháo, tàu chiến và cả nhân lực - những thứ sẽ giúp cho Aceh liên tiếp vây hãm Malacca trong suốt thế kỷ XVI và bảo đảm nền độc lập của mình.

Có thể chắc chắn rằng, mối liên hệ giữa những người Muslim ở Tây Á và Đông Nam Á đã được thiết lập liên tục trong nhiều thế kỷ, kể từ khi những thương gia Muslim đầu tiên đến Đông Nam Á trong thế kỷ VII.

(2)

Doãn Tùng Anh - Quan hệ Ottoman - Aceh trong thê' kỉ XVI 61

Tuy nhiên các mối liên hệ này dựa nhiều vào thương mại và hoạt động hành hương định kỳ theo ảnh hưởng của gió mùa thay vì là mối quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia. Người Muslim ở Đông Nam Á chắc chắn đã biết đến tình hình các cường quốc Islam giáo ở Tây Á nhờ các thông tin mà thương gia A rập cung cấp. Điển hình như việc họ kêu gọi đế chế Mamluk can thiệp năm 1502 và sau đó là việc Aceh bắt liên lạc với Ottoman thay vì tìm kiếm sự bảo vệ ở chỗ Safavid hay Mughal.

1. Sự thiết lập quan hệ ngoại giao Ottoman - Aceh thế kỷ XVI

Quá trình thiết lập và chuyển biến mối quan hệ Ottoman - Aceh thế kỷ XVI được thôi thúc bởi sự xuất hiện của người Bồ Đào Nha tại An Độ Dương và sự nổi lên của nhà nước Aceh tại Tây Bắc Sumatra.

Việc người Bồ Đào Nha tấn công và đánh chiếm Malacca năm 1511 đã tạo ra thách thức lớn về quyền lực, nhất là về hoạt động thương mại trên biển của người Muslim tại Ân Độ Dương. Khi Malacca sụp đổ, người Muslim đã di cư đến nhiều vùng cảng xung quanh và thành lập những nhà nước Islam giáo mới. Một số người Muslim chạy theo hoàng gia Malacca lưư vong tới Johor, nơi họ sẽ lập ra một trong các tiểu vương quốc cấu thành Malaysia hiện đại sau này. Một số khác tìm đến Java, Borneo và thậm chí là miền nam Philippines. Tuy nhiên, phần lớn người Muslim di tản đến Aceh, nằm mũi tây bắc của Sumatra.

Thực tế ban đầu Aceh không phải là một thế lực mạnh trong khu vực eo biển Malacca cũng như tây bắc Sumatra. Cho tới đầu thế kỷ XVI, Aceh vẫn chỉ là một tiểu quốc luôn bị các thế lực bên ngoài nhòm ngó cho tới khi Sultan Ali Mughayat Syah (1514-1530), với sự trợ giúp của các

thương nhân Muslim, đã đánh bại và đẩy lùi người Bồ Đào Nha khỏi khu vực trồng hồ tiêu ở Pasai và Pidie vào đầu những năm 1520(1). Với chiến thắng đó, Aceh bắt đầu vươn mình trở thành một thế lực đáng gờm trong khu vực. Tuy nhiên, sức mạnh của Aceh giống như các nhà nước trước đó như Malacca hay Pasai, đều dựa trên hoạt động hải thương. Trong bối cảnh chính trị lúc bấy giờ, hoạt động này không vững chắc, nhất là khi nguồn cung cấp gạo bị phong tỏa và thương mại suy giảm(2).

Không thể đơn độc, để chống lại Bồ Đào Nha, người Aceh một mặt tìm cách liên minh với các cảng thị khác, mặt khác nhanh chóng bắt liên lạc và bày tỏ mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ các thế lực Islam giáo ở Tây Á vốn có nhiều kinh nghiệm trong cuộc chiến với thế lực phương Tây theo Kitô giáo.

Có một lợi thế cho Aceh nói riêng, và các tiểu quốc Islam giáo ở Đông Nam Á nói chung trong cuộc đấu tranh với người Bồ Đào Nha đầu thế kỷ XVI là sự nổi lên của ba đế chế thuốc súng {gunpowder empire) giáp những vùng biển vốn được phòng ngự kém của Islam giáo trong quá khứ:

Ottoman (1299 - 1923) ở Hồng Hải và Biển Ả Rập, Safavid (1501-1736) ở Vịnh Ba Tư và Mughal (1526 - 1857) ở Ấn Độ Dương.

Khác với hai đế chế Safavid và Mughal mới nổi, đế chê Ottoman đã có đến hai thế kỷ để phát triển và củng cố cho tham vọng bá quyền của mình(3). Cuộc can dự trực tiếp của người Ottoman vào Ân Độ Dương đã bắt đầu trong những năm 1515 - 1520, khi Padishah (hoàng đế) Selim I (1512 - 1520) sáp nhập các vùng đất Syria, Palestine, Ai Cập và Hejaz vào lãnh thổ Ottoman. Người Ottoman tiến vào Hồng Hải và Ân Độ Dương như là một phản ứng của triều đình tại Constantinople trước các hoạt động hải

(3)

62 Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/2022

quân và thương mại của Bồ Đào Nha ở

“vùng biển của Islam giáo.” Mục tiêu đầu tiên là nhằm đáp trả lại việc tàu thuyền Bồ Đào Nha xâm nhập Hồng Hải, tấn công tàu thuyền và các cảng biển phục vụ cho Hai thánh địa. Thứ đến là nhằm củng cố lại lực lượng hải quân và sau đó giành lại ưư thế trong hoạt động buôn bán hương liệu, cũng như khôi phục lại hệ thống thương mại Islam giáo truyền thống tại Ân Độ Dương.

Sau năm 1530, triều đình Ottoman chuyển hướng chú ý sang phía Đông và phía Nam. Bằng các cuộc chinh phục Sawakin (1524), Baghdad (1534), Mocha (1535) và Aden (1538), cũng như cuộc tấn công vào Diu (1539)(4); người Ottoman đã khống chế được hoàn toàn Hồng Hải và một phần Vịnh Ba Tư* 5'. Với việc để mất Aden vào tay triều đình Ottoman, người Bồ Đào Nha hoàn toàn bị ngăn chặn vào Hồng Hải. Sau khi chặn được tàu Bồ Đào Nha bên ngoài Vịnh Aden, các hạm đội Ottoman đã tăng cường sự hiện diện của mình tại Ân Độ Dương, không chỉ trực tiếp đối đầu với hải quân Bồ Đào Nha mà còn bắt liên lạc và xây dựng một mặt trận Hên kết hầu hết các thế lực Islam giáo nổi bật ở Ân Độ Dương lại. Sự nổi lên của Aceh trùng hợp với những nỗ lực tìm kiếm các đồng minh xuyên đại dương của đế chế Ottoman, vốn được đề ra dưới thời vezir-i azam (đại tể tướng) Hadim Suleyman Pasha (1467 - 1547)®. Đế chế Ottoman nhanh chóng nhận ra Aceh là một mắt xích quan trọng trong cuộc đấu tranh với người Bồ ở Đông Nam Á, một tiền đồn xung yếu và chốt chặn cuối cùng trước những kẻ ngoại xâm, cũng như một vùng đệm để gia tăng ảnh hưởng của mình Đông Nam Á.

Một điều đáng chú ý là, mốc khởi đầu chính xác cho sự thiết lập mối quan hệ Ottoman-Aceh đến nay vẫn còn nhiều

tranh cãi. Trong các văn bản liên quan đến tình hình cuộc chiến tranh Aceh năm 1873, triều đình Ottoman đã tuyên bố Aceh đã tự cúi đầu thuần phục ngay sau khi Padishah Selim I chinh phục được Ai Cập(7). Tuy nhiên, không có bất cứ sử liệu nào của Aceh cũng như Ottoman xác nhận điều này. Phần lớn các ghi chép và xác nhận mối quan hệ Ottoman-Aceh đến từ những nguồn tư liệu và báo cáo của sứ thần phương Tây ở Constantinople trong những năm 1516-1547. Một số quan điểm cho rằng, môi quan hệ này có thể đã được hình thành vào khoảng năm 1537, khi mà một sĩ quan Bồ Đào Nha là Mendes Pinto đã ghi lại trong hành trình của mình rằng có một đội quân Turk từ Ai Cập đã đến chiến đấu cho Sultan Aceh®. Bên cạnh đó, trong các tư liệu này còn nhắc đến một sự kiện đáng lưư ý: năm 1547, một phái đoàn do nhà cai trị người An tên là Alauudin đã tới Constantinople để xin bảo vệ và hỗ trợ trong cuộc chiến với người Bồ Đào Nha cũng như với các quốc gia Islam giáo bản địa khác. Trong số các nhà cai trị Muslim nổi bật ở Ân Độ Dương thời điểm đó, Alauudin là tên của Sultan Aceh, người đã gửi sứ thần đến Constantinople trong khoảng những năm 1537 - 1571®.

Dù mốc thời gian cho việc hình thành mối quan hệ Ottoman-Aceh còn nhiều tranh cãi, nhưng có một điều chắc chắn rằng mối quan hệ này đã được hình thành trước năm 1560; bởi kể từ sau năm 1560 trở đi, mối quan hệ Ottoman-Aceh liên tục được nhắc đến trong các biên niên sử của cả Aceh và Ottoman, cũng như trong các thông cáo và văn thư ngoại giao trao đổi giữa hai bên(10). Điều đó gợi ra rằng, mối quan hệ này đã trở nên vững bền và diễn ra thường xuyên trong thời gian còn lại của thế kỷ XVI. Trong hơn nửa thế kỷ dưới thời

(4)

Doãn Tùng Anh - Quan hệ Ottoman - Aceh trong thê' kỉ XVI 63

Sleyman I (1520 - 1566) và Selim II (1566 - 1573), đế chế Ottoman đã rất tích cực trong các hoạt động với bên ngoài bằng cả con đường chiến tranh lẫn thương mại ở châu Âu và Ân Độ Dương, phát triển trong nước và mở rộng ảnh hưởng. Mặc dù, cuối cùng đế chế này cũng phải rút dần khỏi Bắc Phi và Hungary để củng cố lãnh thổ tương đối ổn định dọc theo sông Danube và Lybia.

Sự xuất hiện của mối quan hệ thường xuyên Ottoman-Aceh như là một trong các bằng chứng đại diện cho tham vọng toàn cầu của Ottoman, cũng như sức sống của tinh thần Dar al Islam của người Muslim.

2. Những yếu tố thúc đẩy mối quan hệ Ottoman - Aceh

2.1. Tham vọng tải lập lại hệ thống thương mại hương liệu truyền thống

Cho dù được tuyên bố bởi cả hai phía Ottoman và Aceh rằng mối quan hệ giữa hai nhà nước nằm cách nhau khoảng 9.000 krn này nhằm phục vụ cho mục đích “đoàn kết tôn giáo” để chống lại kẻ thù chung, thì cả hai bên đều có những toan tính và lợi ích mong muốn đạt được. Một trong những lý do giúp kiến lập nên mối quan hệ là vị trí của Aceh. Nằm ở Tây Bác Sumatra, tiếp giáp với eo biển Malacca ở phía Đông Bắc và Ân Độ Dương ở phía Tây; Aceh đóng một vai trò quan trọng trong hệ thống thương mại thế giới nhờ án ngữ Tây Bắc eo biển Malacca. Việc hoạt động thương mại phát triển giữa phương Tây và Đông Bắc Á trong thế kỷ XVII càng khẳng định vai trò quan trọng của khu vực eo biển Malacca nói chung, và nhà nước Islam giáo Aceh nói riêng(11).

Là một quốc gia nhiệt đới gió mùa, nóng ẩm với một hệ sinh thái phổ tạp, Aceh sở hữu những nguồn tài nguyên

thiên nhiên có giá trị cao trên thị trường thế giới, như quế, long não, đá quý,...

trong đó quan trọng nhất là hồ tiêu. Có thể cho rằng, yếu tố quyết định đến việc thiết lập mối quan hệ Ottoman và Aceh chính là quyết tâm khôi phục lại hoạt động buôn bán hương liệu - đặc biệt là hồ tiêu. Chính các tham vọng về thương mại là thứ quyết định quan hệ Ottoman - Aceh trong một thời gian dài chứ không phải là hợp tác chính trị hay quân sự ở cường độ cao. Sứ thần Ottoman tới Aceh đã tấu trình lại rằng, Aceh là xứ sở của vàng bạc, đá quý cũng như thu mua một số lượng lớn hương liệu khi về nước(12). Sự giàu có của Aceh tiếp tục được ghi nhận trong tâm trí của người Ottoman đến tận thế kỷ XIX, như một tham vấn của triều đình lên Padishah vào năm 1873 rằng Aceh nằm ở

“vùng Nam An trên một trong những hòn đảo màu mỡ và rộng lớn nhất thế giới”^3\

Đây có lẽ là một trong các lý do thực sự khiến cho triều đình Ottoman quyết định giúp đỡ Aceh, bởi khi mà việc buôn bán hương liệu được khôi phục thì Padishah sẽ là người được hưởng lợi nhiều nhất - do sẽ được toàn quyền tiếp cận và thu mua các nguồn cung cấp trực tiếp từ Aceh. Giống người Bồ Đào Nha, người Ottoman cũng mong muốn duy trì sự độc quyền buôn bán hương liệu ở Ân Độ Dương và Hồng Hải.

Song nếu người Bồ Đào Nha muốn duy trì sự độc quyền trên phạm vi một quốc gia hay một tập thể thì Ottoman muốn áp đặt một sự độc quyền buôn bán trên phạm vi cá nhân - sự độc quyền của Padishah (và một số ít các sủng thần của mình).

Bản thân Aceh cũng nhận thức được tầm quan trọng của mình trong việc cung cấp nguồn hồ tiêu cho thế giới, số lượng các cánh đồng hồ tiêu ở Pasai đã giúp nhà nước chứng tỏ được quyền lực và sức mạnh trước

(5)

64 Nghiên cứu Đông Nam Á, sô'6/2022

các thương gia Grujat và người Muslim, khiến họ không thể bỏ rơi hoặc để Aceh đơn độc trong cuộc chiến với người Bồ Đào Nha - nếu như không muốn nguồn cung cấp hồ tiêu chính trên thế giới nằm trong tay thế lực phương Tây. Cùng với đó, vị trí chiến lược án ngữ Tây Bắc Sumatra giúp Aceh chi phối tàu thuyền lưư thông trên eo biển Malacca, dưới sự kiểm soát của các pháo đài và đại bác của nước này. Do đó, việc liên kết với Ottoman sẽ giúp Aceh không chỉ tiếp cận được thị trường truyền thống cho hồ tiêu của mình khi các tuyến đường thương mại hoạt động trở lại, mà còn có thể xác lập thêm các thị trường mới.

Mối quan hệ Ottoman-Aceh được thúc đẩy đồng thời với những nỗ lực liên minh của nhiều nhà nước Islam giáo khác nhằm tăng cường nắm giữ các vùng bờ biển dọc theo Somali cho tới cửa sông Indus và sau đó tới tận các cảng của Aceh và Java đã giúp người Muslim cạnh tranh được với ưư thế của người Bồ Đào Nha. Khoảng sau những năm 1560, thương mại truyền thống của người Muslim bắt đầu được khôi phục và phát triển trở lại, nhờ việc Mughal và Ottoman tăng cường kiểm soát bờ biển và xây dựng pháo đài dọc theo các nơi xung yếu(14). Đặc biệt từ khi đế chế Mughal chiếm được Bengal năm 1575 và hải quân Ottoman áp chê được hải quân Bồ Đào Nha trên An Độ Dương thì hoạt động thương mại của người Muslim đã phát triển thịnh đạt như trước thời người Bồ Đào Nha xuất hiện.

2.2. Những toan tính về lợi ích tôn giáo Một khía cạnh quan trọng thúc đẩy việc kiến lập mối quan hệ Ottoman-Aceh trong thế kỷ XVI là tôn giáo. Trên nền cảnh chung của thế kỷ XVI, có thể thấy đây là thế kỷ mà cuộc đấu tranh giữa Kitô giáo và

Islam giáo lên đến đỉnh điểm. Thế kỷ XVI cũng là thời gian diễn ra những nỗ lực truyền bá Kitô giáo ra ngoài châu Âu, dưới sự bảo trợ của Bồ Đào Nha và Tây Ban Nha. Theo quy định của hiệp ước Tordesillas (1494), Bồ Đào Nha được hưởng toàn bộ đặc quyền ở châu Phi và Đông Ân đổi lấy nghĩa vụ phải thúc đẩy việc truyền bá Kitô giáo cho người bản địa.

Điều này vô hình chung đã thúc đẩy gia tăng mâu thuẫn giữa Islam giáo và Kitô giáo. Một thế giới phương Tây Kitô giáo phục hưng sau đêm trường Trung cổ đối diện với một thế giới Islam giáo đang khôi phục lại sức mạnh sau biến cố năm 1258.

Chiến trường đã không chỉ còn giới hạn ở Địa Trung Hải, giờ đây mặt trận mới đã nổ ra ở bên bờ Đại Tây Dương và lan sang Ân Độ Dương, Hồng Hải và Đông Nam Á - những nơi trong gần một thiên niên kỷ được coi là Mare Nostrum của Islam giáo.

Cùng lúc đó, đế chế Ottoman cũng bắt đầu thúc đẩy các viện dẫn tôn giáo trong những cuộc bành trướng lãnh thổ của mình.

Trong nhiều thế kỷ, người Ottoman sử dụng các quan điểm và lập trường ghaza (chiến tranh vùng biên) để tiến hành mở rộng lãnh thổ vào châu Âu, vốn mang lại nhiều ảnh hưởng và uy tín cho Ottoman trong thế giới Islam giáo. Tuy nhiên, cuộc chinh phục Ai Cập và loại bỏ nhà nước Mamluk (1250-1517) tại đây lại được tiếp cận dưới một khía cạnh khác về tôn giáo, đó là việc người Ottoman tuyên bố người Mamluk đã thỏa hiệp với người Shi’ite và trở thành những kẻ dị giáo (Ãa/ĩr)(15). Sau khi đánh bại đế chế Mamluk, giờ đây người Ottoman trở thành thế lực đi đầu trong thế giới Islam giáo có nghĩa vụ bảo vệ đức tin chống lại sự mở rộng của Bồ Đào Nha.

Sự nổi lên của nhà Safavid theo dòng Shi’ite ở Ba Tư cũng đã tác động đến tinh

(6)

Doãn Tùng Anh - Quan hệ Ottoman - Aceh trong thế kỉ XVI 65

thần Sunni của người Ottoman. Việc sáp nhập Cận Đông và Ai Cập đã khiến cho dân số theo Islam giáo trong Đê chê vượt qua dân số không theo Islam giáo, thúc đẩy việc triều đình Ottoman Islam giáo hóa chính thể. Các cam kết của nhà Safavid với dòng Shi’ite cùng việc biên giới phía Đông của Ottoman luôn bị đe dọa đã khiến cho người Ottoman ngày càng đẩy mạnh việc Sunni hóa Đê chế. Với triều đình Constantinople, cuộc chiến chống lại người Kitô giáo và người Shi’ite là một cuộc chiến được thánh hóa theo các fativa của tầng lớp ulema116'. Trong cuộc tranh giành quyết liệt đó, đế chế Ottoman đã tăng cường nâng đỡ các nhà nước Sunni khác để ngăn chặn sự bành trướng của người Shi’ite trong thê giới Islam giáo.

Nằm ở Tây Bắc Sumatra - trong lịch sử là nơi Islam giáo truyền bá sớm nhất khi tiến vào Đông Nam Á, Aceh đóng vai trò như “hành lang của thánh địa” - điểm khởi hành của các chuyến tàu hajj (hành hương) về hai thánh địa Mecca và Medina.

Nhà nước này như nhiều nhà nước Islam giáo khác ở Đông Nam Á, tuân theo trường phái (madhháb) Shafi’i, một trong bốn trường phái chủ chốt của hệ phái Sunni. Do đó, người Aceh đã viện dẫn những luận điểm về tôn giáo và đoàn kết đức tin khi cầu viện triều đình Ottoman(17). Sultan Aceh liên tục nhấn mạnh mục tiêu tối thượng của cuộc đấu tranh với Bồ Đào Nha để “phụng sự và tôn kính Allah và Tiên tri Muhammad (Cầu phước lành dành cho Người), cùng vong linh của tổ tiên chúng ta”118\ Trong bức thư của mình gửi đến Constantinople, Sultan Aceh thường trích các đoạn trong Qur’an và truyền thống từ thời Tiên tri Muhammad để khẳng định thánh chiến là điều cần thiết<19).

Với đế chê Ottoman theo trường phái Hanaíi, lời kêu gọi từ các anh em Sunni theo trường phái Shafi’i đã nhanh chóng được tiếp nhận. Để ngăn chặn Lisbon có thể tiếp tục mở rộng ảnh hưởng tại Đông Nam Á và chiếm lĩnh các khu vực sản xuất hương liệu quan trọng, Ottoman cần tạo dựng một đối thủ đủ mạnh để khiến người Bồ Đào Nha bị phân tâm và phải dồn lực phòng thủ tại Malacca. Hiển nhiên, Aceh là nhà nước Islam giáo phù hợp nhất cho mục đích này. Vương quốc của họ đối diện với khu đồn trú của Bồ Đào Nha tại Eo biển và dễ dàng có thể tấn công vào Malacca rồi rút lui ngay sau đó bằng các xà lan và thuyền mành. Kết quả trực tiếp của việc này là việc người Aceh đã liên tiếp tiến hành các cuộc vây hãm Malacca trong suốt thế kỷ XVI, khiến cho Bồ Đào Nha phải tập trung dồn lực vào phòng thủ khu đồn trú này và không đủ khả năng để vươn tay tới những khu vực Islam giáo lân cận.

Để khảng định lập trường tôn giáo của mình, Sultan Aceh đã tự nguyện xin được trở thành một chư hầu trung thành với đế chế Ottoman. Tên của Padishah Ottoman được xướng lên trong các lời Khutbah vào những buổi cầu nguyện ngày thứ Sáu trong tuần, và Sultan Aceh thậm chí đã nhận mình là “nô bộc dầy tận tụy của Thánh thượng [Padishah Ottoman]” hay mong Padishah Ottoman “hãy rủ lòng thương xót và từ bi với kẻ nô bộc thấp hèn đơn độc đang bị kẹt giữa phiền muộn, thảm hại và sự chà đạp của kẻ thù”(20\ Nhà nước Aceh nhận thức được đế chế Ottoman là thế lực duy nhất có thể bảo vệ nền độc lập của nước này khỏi tham vọng của người Bồ Đào Nha.

Quả thật, vào thế kỷ XVI, không chỉ Aceh mà nhiều nhà nước Islam giáo Sunni nằm dọc theo Ân Độ Dương đều công khai hay ngầm thừa nhận rằng Ottoman là siêu

(7)

66 Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6/2022

cường số một và thủ lĩnh của thế giới Islam giáo. Tất cả đều đồng thuận rằng cộng đồng Muslim (ummah) phải là một khối chính trị-tôn giáo thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của một nhà cai trị tối cao trên danh nghĩa là Padishah Ottoman* 2 V

Mặc dù các nhân tố tôn giáo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy mối quan hệ Ottoman-Aceh, nhưng trên thực tế, những lợi ích và mục tiêu kinh tế vẫn luôn được đặt lên hàng đầu, đặc biệt là với đế chế Ottoman. Tuy nhiên trên bình diện tôn giáo, đế chế Ottoman đã sử dụng lá cờ Islam giáo để biện minh cho sự can thiệp của mình vào Ân Độ Dương và Đông Nam Á, bảo vệ đức tin chống lại các cuộc tấn công ngày càng trở nên phổ biến của người Bồ Đào Nha. Nhà nước Aceh thì sử dụng Islam giáo như là một phương tiện khẳng định quan điểm chính thống và niềm tin Sunni của họ để cầu viện đế chế Ottoman. Việc liên kết với đế chế Ottoman không chỉ đã tạo nên một bản sắc và niềm tự hào của Aceh, còn là một cách để Aceh chống đối lại nhà nước Johor, vốn được lập ra bởi triều đình Malacca lưu vong trong cuộc cạnh tranh ai là người chi phối thế giới Islam giáo Đông Nam Á.

3. Liên minh quân sự Ottoman-Aceh thế kỷ XVI

Trên cơ sở các mục tiêu và lợi ích về kinh tế cũng như tôn giáo, liên minh quân sự Ottoman-Aceh đã được thiết lập kéo dài khoảng nửa thế kỷ trong những năm 1530 đến 1580. Dựa trên các tư liệu lưu trữ của Ottoman cũng như các ghi chép và báo cáo của phương Tây đương thời, liên minh quân sự này có thể chia làm hai giai đoạn:

(1) giai đoạn những năm 1530 - 1560 và (2) giai đoạn những năm 1560 - 1570.

Vào những năm 1530, đã có những ghi chép ghi nhận sự hỗ trợ quân sự nhất định của đế chế Ottoman cho nhà nước Islam giáo Aceh. Femao Mendes Pinto, một sĩ quan Bồ Đào Nha có mặt tại Malacca năm 1539 đã viết rằng Sultan Aceh có đến bốn ngàn lính ngoại bang chiến đấu cho ông ta, trong đó nhiều người đến từ Cận Đông và Bắc Phi như người Turk, Ai Cập, Moor,...(22). Pinto cũng nhắc đến thông tin về việc một con tàu của Aceh chất đầy vũ khí và thuốc súng Ottoman đang quay trở lại sau khi chở hạt tiêu đến cống nộp cho triều đình Ottoman* 23*. Khu đồn trú Malacca của Bồ Đào Nha cũng nhận được tin về việc Aceh đang chờ khoảng 300 lính Turk từ Tây Á* 24). Cuộc tấn công vào Malacca năm 1539 của Aceh cũng có sự hỗ trợ quân sự từ đế chế Ottoman. Pinto ghi nhận lực lượng tinh nhuệ nhất của Aceh là binh lính và kỹ sư quân sự do Ottoman cử đến. Vệ binh janissary, lực lượng tinh nhuệ nhất của đế chế Ottoman cũng được cử tới Aceh

* 25). Điều này chứng tỏ Aceh đã có một tầm quan trọng đối với chiến lược của người Ottoman khiến họ phải gửi cả lực lượng tinh nhuệ nhất đến Đông Nam Á.

Tuy nhiên, cũng có thể các Janissary này mang ý nghĩa tuyên truyền nhiều hơn là thực chiến - do sự có mặt của họ nhằm để biểu dương ảnh hưởng của Ottoman ở đây.

Có thể thấy, mối quan hệ quân sự cũng như thương mại giữa Ottoman và Aceh đã được tiến hành ngay trong những năm 1530, nhưng dường như vào thời điểm này, nhà nước Islam giáo Aceh chủ yếu liên hệ với Ottoman thông qua các cấp địa phương tại Ai Cập và Hejaz thay vì có các trao đổi trực tiếp với triều đình Constantinople.

Dù có những trao đổi và hỗ trợ quân sự giữa hai bên, nhưng liệu triều đình Aceh và triều đình Ottoman có duy trì các kênh

(8)

Doãn Tùng Anh - Quan hệ Ottoman - Aceh trong thê' kỉ XVI 6T

liên hệ chính thức hay không vẫn đang còn tranh cãi. Theo Joseph von Hammer, một phái viên Aceh được cho đã đến Constantinople năm 1547 mang theo thư và tặng phẩm của Sultan dâng lên Padishah Ottoman. Thông tin này được ông thu thập thông qua các báo cáo của những sứ thần Venice có mặt tại Constantinople lúc đó, rằng: “Một nhà cai trị Ân Độ là Alauddin đã cử một phái đoàn đến cần viện chống lại quân Bồ Đào Nha. Các phải viên của ông ta đã dâng lên những con thú lạ mắt, một lủ vẹt sặc sỡ đủ loại màu, cùng nhiều nô lệ da đen và hoạn quan”ữe\ Trong bức thư sớm nhất mà Sultan Aceh Alauudin (1537-1571) gửi đến triều đình Ottoman vẫn còn được lưu giữ, Sultan Aceh đã khẳng định: “Trước đây hai kẻ nô bộc của thần là Omar và Huseyin đã được đến cung điện huy hoàng của thánh thượng’*™. Như vậy, phải chăng đã có những liên hệ trực tiếp giữa triều đình Aceh với triều đình Ottoman tại Constantinople trước năm 1567.

Sự hiện diện của phái đoàn Aceh vào năm 1567 đã được chứng thực rõ ràng nhờ các tài liệu lưư trữ trong văn khố Ottoman, với nhiều văn bản hành chính Qnủhimmè) báo cáo kỹ lương hoạt động của hai bên.

Sultan Aceh đã thông báo người Bồ Đào Nha không chỉ tổ chức các cuộc tấn công vào Aceh, mà còn tăng cường các hoạt động quân sự và cướp bóc lên nhiều vùng đất Islam giáo khác, đe dọa đến sự tồn tại của hoạt động hành hương bằng đường biển.

(Reid 1969: 405) Không chỉ vậy, ông đã cảnh báo việc rất nhiều nhà cai trị ở Ân Độ liên minh với Bồ Đào Nha đã nắm được thông tin sứ thần Aceh tới Constantinople, nếu đế chế Ottoman không hành động thì những thế lực này sẽ “thành lập một liên minh và đánh phủ đầu trước khi chúng

thần có thể kịp nhận được sự hỗ trợ từ cung điện huy hoàng của thánh thượng* 2®.

Để hỗ trợ Aceh trong cuộc chiến chống lại Bồ Đào Nha, Selim II đã ra lệnh triệu hồi cựu đô đốc hải quân Kurtoilu Hýzýr Reis chỉ huy một hạm đội bao gồm “15 gal­

ley, 2 carrack, một số trọng pháo bằng đồng (basilisk), di pháo (culverin) và pháo cối với đầy đủ đạn dược, thêm 300 cuốc chim và 300 xẻng” tại Suez khởi hành đi sang Đông Nam Á(29). Padishah cũng yêu cầu Kurtõilu Hýzýr Reis phải “nỗ lực hết mình vì đức tin và đế chế, cho dù là công hạ thành trì hay trừng phạt lũ ngoại đạo, theo những mệnh lệnh [của Sultan Aceh]

mà cảm thấy phù hợp. Tránh tranh cãi và chống lại mệnh lệnh [của Sultan AcehT* 3®.

Tuy nhiên, cuộc nổi dậy ở Yemen nâm 1568 đã buộc Selim II ra lệnh hạm đội tập trung vào chiến dịch quân sự ở Yemen, tạm hoãn một năm việc khởi hành sang Đông Nam Á(31). Hạm đội Ottoman sau đó vẫn tiếp tục khởi hành sang Aceh nhưng với quy mô nhỏ hơn. ít nhất hai tàu chiến Ottoman chở theo đại bác, súng hỏa mai và đạn dược, cùng với nhiều thợ đúc súng và 500 lính đánh thuê đã tiếp tục đến Aceh(32). Triều đình Constantinople cũng lệnh cho tổng trấn Yemen phải hỗ trợ sứ thần Aceh mua ngựa chiến, vũ khí, đồng và nhiều mặt hàng quân sự kháct33). Một mệnh lệnh tương tự cũng được ban xuống cho tổng đốc của Mecca. (Osmanlý Aroivi Daire Ba0kanlýiý’n, 1999: 128) Trong khi đó, tổng trấn Ai Cập có nhiệm vụ cung cấp đủ số lượng thợ thủ công lành nghề luyện kim, nghề mộc, đóng tàu để gửi sang Aceh theo yêu cầu của Sultan Aceh(34). .<

Mặc dù đế chế Ottoman không gửi một hạm đội quy mô lớn đến Đông Nani Á, nhưng những nhân lực lành nghề đi cùng sứ thần Aceh về nước là một trong những hỗ

(9)

68 Nghiên cứu Đông Nam Á, sô' 6/2022

trợ quân sự nhất đối với nhà nước Islam giáo này, góp phần không nhỏ vào việc

“hiện đại hóa” quân đội Aceh. Một nhà truyền giáo tại Malacca năm 1580 đã mô tả:

“Người cai trị Aceh sở hữu khoảng 100 trọng pháo bằng đồng và nhiều hơn thế nữa pháo sắt, hơn 200 khẩu pháo thông thường và 400 cỡ nhỏ, rất nhiều súng hỏa mai được cung cấp bởi các tàu từ Mecca hàng năm.

Ồng ta củng có nguồn cung thuốc súng tốt nhất và rất nhiều đạn đại bác khác nhau”^35\ Ghi chép trên cho thấy một khía cạnh quan trọng trong liên minh quân sự Ottoman-Aceh, đó là việc người Aceh sử dụng hồ tiêu để đổi lấy vũ khí và thuốc súng của Ottoman. Mặt khác, việc xuất khẩu đại bác và vũ khí cho phép người Ottoman ngăn chặn dòng chảy kim loại quý của họ như vàng hay bạc ra vùng An Độ Dương, trong khi vẫn có thể gia tăng các ảnh hưởng chính trị một cách dễ dàng như mong muốn. Với cách này, hoạt động thương mại với Aceh không chỉ là các giao dịch đơn thuần mà còn là phương tiện quân sự giúp tăng cường kết nối giữa Ottoman với một trong các đối tác gần gũi nhất của họ.

Trên thực tế, người Ottoman là các nhà xuất khẩu sản phẩm công nghệ, một mặt hàng thuận tiện trong việc trao đổi hơn so với những mặt hàng đơn thuần hay thậm chí là các đồng tiền mạnh. Trên tất cả, pháo binh là mặt hàng công nghệ cao của thế kỷ mười sáu, có giá trị gấp nhiều lần so với đầu tư vốn bỏ ra để sản xuất, và nhu cầu về mặt hàng từ các khu vực bên ngoài gần như không có giới hạn. Không có nhà nước Islam giáo nào ở Ân Độ Dương thế kỷ XVI lại không sử dụng đại bác và hỏa khí của Ottoman. Đại bác, hỏa khí và đạn dược của Ottoman đã gắn kết chặt với sự nổi lên của nhiều đế chế và nhà nước Islam giáo trong thế kỷ XVĨ, bao gồm cả đế chế

Mughal, cũng như cả cuộc đối đầu giữa người Islam giáo và người Kitô giáo ở Bắc Phi, vùng Sừng châu Phi và An Độ.

Cùng với tàu chiến, binh lính và vũ khí, Padishah Ottoman cũng gửi đến Aceh một sắc lệnh mang tính chính trị và tôn giáo.

Người Aceh có trách nhiệm phải xướng tên Padishah Ottoman trong buổi cầu nguyện thứ Sáu hàng tuần, một thông lệ đã kéo dài đến những tháng ngày cuối cùng của nhà nước này* 36). Hơn hết, việc ra mệnh lệnh đi kèm những hỗ trợ trực tiếp cho Aceh trong cuộc chiến với Bồ Đào Nha ở Đông Nam Á đã góp phần vào củng cố những danh hiệu và nghĩa vụ với đức tin của đê chế Ottoman. Qua đó, Ottoman đã chứng minh cho thế giới Islam giáo thấy được rằng mình hoàn toàn xứng đáng là lãnh đạo của toàn thể thế giới Islam giáo, ít nhất là đối với người Sunni. Và như Anthony Reid đã nhận xét: “Về cơ bản, tất cả các quốc gia Islam giáo quan trọng dọc theo tuyến đường thương mại Ân Độ Dương như Mughal, Bijapur và Golconda ở Ân Độ;

Mappilas ở Kerala và những cảng quốc ở Đông Nam Ả, trong giai đoạn này đều đã tuyên thệ trung thành với niềm tin Islam giáo Sunni chính thống, cả công khai cũng như ngầm chấp nhận rằng Umma phải là một cộng đồng chính trị đoàn kết đằng sau một Khalifah ở Thổ Nhĩ Ay”*37).

Liên minh quân sự Ottoman-Aceh dần lụi tàn sau năm 1580 bởi các biến động của tình hình mỗi nước diễn ra trong những năm 1570. Năm 1571, hạm đội của Ottoman bị liên quân Kitô giáo đánh tan tại Lapento. Sức mạnh hải quân của Đế chế tại Địa Trung Hải bị suy giảm trầm trọng, buộc triều đình Constantinople phải tập trung mọi nguồn lực hiện có để đóng lại hạm đội mới. Trong khi đó, sau nhiều lần tấn công Malacca bất thành, Aceh

(10)

Doãn Tùng Anh - Quan hệ Ottoman - Aceh trong thế kỉ XVI 69

cũng phải chịu nhiều thiệt hại nặng nề và cần thời gian khôi phục lực lượng. Bản thân cả Alaudin và Selim II đều lần lượt qua đời vào năm 1571 và 1573, trong khi những người kế thừa sự nghiệp của hai ông không còn mặn mà với kế hoạch liên minh quân sự nữa. Tuy nhiên, nhiều người Ottoman, cả binh lính và thợ thủ công lành nghề, vẫn tiếp tục đến buôn bán và cư trú tại Aceh trong những thế kỷ tiếp theo.

Mối quan hệ Ottoman-Aceh chỉ được chú ý trở lại vào đầu thê kỷ XIX, khi Aceh và nhiều nhà nước Islam giáo ở Đông Nam Á đang đứng trước nguy cơ bị xâm lăng bởi các thế lực phương Tây. Vào thời điểm đó, những ký ức về sự hỗ trợ của đế chế Ottoman một lần nữa được khơi dậy cũng như những trao đổi trực tiếp giữa hai nhà nước lại được khôi phục.

Kết luận

Việc xác lập mối quan hệ giữa đế chế Ottoman và nhà nước Islam giáo Aceh là một minh chứng rõ nét nhất cho mối quan hệ giữa một nhà nước Islam giáo ngoại vi với một nhà nước Islam giáo trung tâm, dựa trên cơ sở cuộc đấu tranh chống lại thế lực của người Bồ Đào Nha đang khống chế Ấn Độ Dương và bảo vệ hoạt động thương mại truyền thống của Islam giáo tại vùng biển này. Được thúc đẩy bởi lợi ích kinh tê xen lẫn mục tiêu bảo vệ đức tin, đế chế Ottoman xem việc hỗ trợ quân sự cho Aceh như là một lời khẳng định cho “nghĩa vụ”

của họ trong việc bảo vệ các nhà nước nhỏ yếu của người Muslim trước sự tấn công của những thế lực ngoại đạo.

Bên cạnh đó, mối quan hệ này đã tạo ra niềm tự hào cho Aceh, khi họ được coi là người có công trong việc bảo vệ các vùng đất Islam giáo ở Đông Nam Á trước sự mở rộng thế lực của Bồ Đào Nha. Những nỗ lực

của Aceh đã giúp Islam giáo tiến xa hơn Kitô giáo và áp đảo ở khu vực quần đảo Đông Ân, khi họ buộc người Bồ phải lui vào thế thủ ở Malacca cho tới năm 1640 và không thể mở rộng chiếm đóng các vùng đất mà Islam giáo đã thâm nhập ở Đông Nam Á. Sự liên kết giữa Ottoman và Aceh còn được xem là nỗ lực cuối cùng của người Muslim nhằm ngăn chặn sự xâm nhập của phương Tây đến vùng Ân Độ Dương và Đông Nam Á. Với họ, nếu liên minh này bị đánh bại đồng nghĩa với việc hậu phương của Islam giáo sẽ sụp đổ và điều đó cũng có nghĩa là hồi kết cho sức mạnh của Islam giáo sẽ đến. Dù đã nỗ lực nhưng cuối cùng thì các thê lực Islam giáo ở Đông Nam Á đã lần lượt rơi vào tay thực dân phương Tây trong các thế kỷ tiếp theo. Tuy nhiên, một di sản mà mối quan hệ này để lại vô cùng quan trọng là sự tồn tại của Islam giáo ở các vùng bị chiếm đóng vẫn được duy tồn như là những minh chứng lịch sử./.

CHÚ THÍCH

1. Amirul Hadĩ (2004), Islam and State in Sumatra:

A Study of Seventeenth-Century Aceh, Leiden:

Brill, p. 22. M.c. Ricklefs (1994), A History of Modern Indonesia Since c. 1300, 2nd edition, Stanford: Stanford University Press, p. 32.

2. Phạm Văn Thủy (2006), Quan hệ của Malacca với các quốc gia Đông Nam Á giai đoạn 1400-1511, trong sách Khoa Lịch sử, Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2001-2006), Hà Nội: NXB Thế Giới, tr. 873-76. M.c. Ricklefs, 1994, ibid, p. 35.

3. M. Winter (1998), Ottoman Egypt, 1525-1609, trong sách Martin w. Daly (ed.), The Cambridge history of Egypt: Vol. 2: Modern Egypt, from 1517 to the end of the twentieth century, Cambridge: Cambridge University Press, pp. 1-33.

4. Salih #zbaran (2009), Ottoman Expansion towards the Indian Ocean in the 16th Century, Istanbul: Bilgi University Press, p. 80-84.

(11)

70 Nghiên cứu Đông Nam Á, sô'6/2022

5. Giancarlo Casale (2006), “The Ottoman Administration of the Spice Trade in the Sixteenth-Century Red Sea and Persian Gulf’, Journal of the Economic and Social History of the Orient vol.49, no.2, p. 70.

6. Giancarlo Casale (2010), The Ottoman Age of Exploration, Oxford: Oxford University Press, p. 57-58.

7. Các Báo cáo của Vezir-i azam gửi đến Pađishah về tình hình Aceh; Phản hồi của Padishah thông qua thư ký; Thông cáo của triều đình Ottoman gửi tới Đại sứ Hà Lan tại Constantinople về vấn đề hòa giải chiến tranh Aceh, ngày 3 tháng 9 năm 1873 đều nhấn mạnh Aceh là chư hầu của Ottoman từ thời Padishah Selim I (1512-1520). Ýsmail Hakký Kadý - A.c.s. Peacock (2019), Ottoman-Southeast Asian Relations: Sources from the Ottoman Archives, Leiden: Brill, pp. 219-231.

8. Giancarlo Casale, 2010, ibid, p. 56.

9. Ýsmail Hakký G#ksoy (2011), Ottoman-Aceh relations as documented in Turkish sources, trong sách R. Michael Feener - Patrick Daly - Anthony Reed (ed.), Mapping The Acehnese Past, Leiden: Brill, p. 68. Ermy Azziaty Rozali (2014), “Aceh-Ottoman Relation in Bustan al- Salatin”, Mediterranean Journal of Social Sciences vol.5, no.29, p. 95.

10. Các văn bản hành chính của Ottoman về vấn đề Aceh sau năm 1560 có thể được tìm thấy trong hệ thống Mtihimme Defteri (MD: văn bản hành chính). Xem Osmanlý Arpivi Daire Bapkanlýìý’n (1999), 7 Numaralý Mtthimme Defteri [Văn bản hành chính Ottoman tổng tập 7], Ankara.

11. Anthony Reid (1990), “An ‘Age of Commerce’ in Southeast Asian History,” Modern Asian Studies, vol.24, no.l, p. 7.

12. Giancarlo Casale, 2010, ibid, p. 145.

13. Xem Báo cáo của Vezir-i azam gửi đến Padishah về tình hình Aceh, ngày 3 tháng 9 năm 1873. Bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại trong Ýsmail Hakký Kadý - A.C.S. Peacock (2019), Ottoman- Southeast Asian Relations: Sources from the Ottoman Archives, Leiden: Brill, pp. 219-23.

14. Nguyễn Nhật Linh (2007), “Thương nhân Hồi giáo và quan hệ thương mại giữa Đông Nam Á và Tây Á thệ' kỷ XV-XVH”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6, tr. 66.

15. Pinar Emiralioglu (2014), Geographical Knowledge and Imperial Culture in the Early Modem Ottoman Empire, Vermont: Ashgate, p. 14.

16. Xem Abdurrahman Atẹýl (2019), Ottoman Religious Rulings Concerning The Safavids:

Ebussuud Efendi’s Fatwas, trong sách Hani Khafipour (ed.), The Empires of the Near East and

India: Source Studies of the Safavid, Ottoman, and Mughal Literate Communities, New York:

Columbia University Press, pp. 97-106.

17. Xem Thư của Sultan Aceh Alauddin Kahhar gửi Padishah Ottoman s#leyman, tháng 1 năm 1566. Bản dịch tiếng Thổ Nhĩ Kỳ hiện đại của Razaulhak 0ah, trong Razaulhak 0ah (1967),

“Aẹi Padipahý Sultan Alaeddin’in Kanun#

Sultan s#leyman’a Mektubu”, Tarih Araptýrmalarý Dergisi vol. 8-9, pp. 373-409.

18. Razaulhak #ah, 1967, ibid, p. 383.

19. Razaulhak #ah, 1967, ibid, p. 383; 386.

20. Razaulhak #ah, 1967, ibid, p. 383.

21. Anthony Reid, Islam in Southeast Asia and the Indian Ocean littoral, 1500-1800: expansion, polarisation, synthesis, trong sách David o.

Morgan - Anthony Reid (ed. 2011), The New Cambridge History of Islam - Volume 3. The Eastern Islamic World, Eleventh to Eighteenth Centuries, Cambridge: Cambridge University Press, p. 436.

22. Femao Mendes Pinto (1989), The Travels of Mendes Pinto, Chicago: University of Chicago Press, 1989, p. 68.

23. Femao Mendes Pinto, 1989, ibid, p. 21.

24. Femao Mendes Pinto, 1989, ibid, p. 89.

25. Osmanlý Arpivi Dai re Bapkanlyiy’n [Cục lưu trữ văn khố Ottoman] (1999), 7 Numaralý Mtthimme Defteri [Văn bản hành chính Ottoman tổng tập 7], Ankara, 1999, p. 129-31.

26. Ýsmail Hakký G#ksoy, 2011, ibid, p. 68.

27. Razaulhak #ah, 1967, ibid, p. 383.

28. Razaulhak ttah, 1967, ibid, p. 383.

29. Osmanlý Arpivi Daire Bapkanlyiy’n, 1999, ibid, p. 124-25.

30. Osmanlý Arpivi Daire Ba0kanlýìý’n, 1999, ibid, p. 125-26

31. Osmanlý Arpivi Daire Ba0kanlýĩý’n, 1999, ibid, p. 362.

32. c. R. Boxer (1969), “A Note on Portuguese Reactions to the Revival of the Red Sea Spice Trade and the Rise of Atjeh 1540-1600,”

Journal of Southeast Asian History, vol. 10, no.3, p. 421.

33. Osmanlý Arpivi Daire Bapkanlyiy’n, 1999, ibid, p. 126-27.

34. Osmanlý Arpivi Daire Bapkanlyiy’n, 1999, ibid, p. 127.

35. Giancarlo Casale, 2010, ibid, p. 146.

36. Razaulhak #ah, 1967, ibid, p. 383.

37. Anthony Reid, 2011, ibid, p. 436.

Referensi

Dokumen terkait