• Tidak ada hasil yang ditemukan

QUAN NIỆM LẠI PHÁP LUẬT

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Membagikan "QUAN NIỆM LẠI PHÁP LUẬT"

Copied!
11
0
0

Teks penuh

(1)

TẠP CHI' KHOA HỌC ĐHQGHN, KINH TỂ - LUẬT, T.XXII, số 1, 2006

Q UAN NIỆM LẠI P H Á P LUẬT

Nhà nước p h áp quyền là một học th u y ết nhằm tới sự rà n g buộc chính quyền bởi pháp lu ật. Vì vậy nói tới nhà nước p háp quyền là nói tói các quan điếm về pháp lu ật. Cho nên n h ậ n thức lại pháp lu ật là một k h â u q u an trọng trong việc nghiên cứu n h à nưốc pháp quyền. Có lẽ đây là k h â u có tín h cách đột phá về m ặt lý lu ậ n hiện nay ở Việt Nam, theo q uan điểm của tôi, bởi lẽ việc xây dựng n h à nước p h á p quyền đang được đề cao tại đây.

I. Chức n ă n g c ư a p h á p l u ậ t

Thực ra khi ng h iên cứu chung về pháp luật, thô n g thường người ta bắt đầu từ việc p h â n tích b ản ch ất của nó, làm rõ khái niệm về nó, rồi mới xem xét tới các vấn đề k h á c có liên quan. Song tôi có ý định x u ấ t p h á t từ việc nghiên cứu các chức năng của p h áp luật, vì suy nghĩ rằng:

T h ứ n h ấ t, nhiệm vụ trưóc h ế t của n hững người th a m gia công cuộc cải cách pháp lu ật n h ằ m tới n h à nưốc pháp quyền ở Việt N a m là phải tìm cho được n hửng n h ậ n thức về pháp lu ậ t có khả n ăn g gây cản trỏ cho tiến tr ìn h cải cách.

Do đó việc nghiên cứu n ên đi từ yếu tô"

thiếu vừng chắc n h ấ t của hệ thông lý luặn về pháp l u ậ t m à có liên q u an tới toàn bộ các vấn đề lý luận, và là điểm mấu chốt để n h ậ n thức lại về pháp luật từ bản ch ất của nó cho tới cách thức xây dựng nó. Theo tôi, chức n ă n g của pháp

° TS, Khoa Luât, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Ngô Huy C ương(,)

lu ậ t trong hệ thông lý luận về pháp luật ở Việt N am có lẽ là điểm thiếu vửng chắc nhất.

T h ứ h a i, xây dựng pháp luật, nhìn n h ậ n trong một phạm vi nào đó, là một quá trìn h th ể hiện hay tạo ra các qui tắc pháp lý thực hiện các chức n ăng của pháp luật. Có như vậy pháp lu ậ t mới thực sự đi vào đời sông, điều tiết và dẫn d ắ t xã hội p h á t triển.

Lý lu ận chung về nh à nước và pháp lu ậ t của ta hiện nay coi pháp lu ật có hai chức n ăn g là: (1) Điều chỉnh các quan hệ xã hội; và (2) Tác động vào ý thức của con người (hay còn gọi là chức năng giáo dục của pháp luật) [14, tr. 225]. Việc p h ân tích p háp lu ậ t có hai chức năng như trê n không cho phép chúng ta có được sự p h ân biệt đầy đủ pháp lu ậ t với các công cụ điều chỉnh khác. Điều đó cũng có nghĩa là làm hạ th ấp vai trò của pháp luật. C hẳng hạn: khi một đứa trẻ lười học, mải chơi, bô" của nó tá t nó một cái. Lập tức đứa trẻ ngồi vào bàn học bài và có th ể vê sau IÌÓ không dám mải chơi.

Một cái t á t như vậy thực hiện cả hai chức n ă n g là điều chỉnh h à n h vi và tác động vào ý thức của đứa trẻ, nhưng có thể cái t á t n h ư vậy là h à n h vi phi đạo đức hay bị ngăn cản bởi pháp luật, có nghĩa là t á t không m ang lại sự công bằng, không xây dựng được tình thương... C hính các lu ật gia xem pháp lu ậ t có h a i chức n ăn g n h ư vậy cũng lúng

23

(2)

2 4 N gổ H uy Curơng

túng khi p h â n biệt p háp lu ậ t vói các công cụ điều chỉnh khác [14, tr. 130].

Phỏng theo các chức n ăn g này, có định nghĩa :

“Pháp lu ậ t là hệ thống các qui tắc xử sự do nhà nước ban h à n h (hoặc thừa nhận) và bảo đ ả m thực h iện , thê hiện ỷ chí của gia i cấp thống trị trong xả hội, là yếu tô' điều ch ỉn h các quan hệ trong xã hội nh ằ m tạo ra trậ t tự và ôn đ ịn h trong xã hội ” [9, tr.226].

Định n g h ĩa này p h ả n á n h q uan điểm thực chứng p h á p lý, p h ản á n h b ản chất pháp lu ậ t theo q u an niệm của truyền thông pháp l u ậ t Xô-Viết, đồng thời phản ánh chức n ă n g th ứ n h ấ t của pháp luật (nói trên) và m ục tiêu của pháp luật.

Tiếp cận từ kh ía cạnh giá trị xã hội của pháp lu ật, các học giả ỏ các nước khác q u an niệm , p h áp lu ậ t có bôn chức năng cơ b ả n là:

- Chức n ă n g gìn giữ hoà bình;

- Chức n ă n g ấ n định hay th i h à n h các tiêu ch uẩn xử sự và duy trì t r ậ t tự;

- Chức n ă n g tạo điều kiện dễ dàng cho các dự đ ịn h hoặc kê hoạch;

- Chức n ă n g th ú c đẩy sự công bằng xã hội [1, tr.5].

Nhìn n h ậ n một cách bao q u á t trên phạm vi to àn xã hội, các chức n ă n g này cho phép p h â n biệt một cách tôi đa giừa pháp lu ật với các công cụ điều chỉnh khác, và góp p h ầ n th ú c đẩy sự tiến bộ xã hội.

Ngày n ay không ai không n h ậ n thức rằng hoà b ìn h và ổn định là cơ sở quan trọng n h ấ t cho việc p h á t triể n k in h tê, xã hội. Tư tưởng này đ ang th ịn h trị ở Việt Nam. Vì vậv p h áp lu ậ t hơn bao giò hêt

phải bảo đảm cho việc tạo ra hay c ủ n g cố cho cuộc sông th a n h bình bằng cách thức điều hoà các lợi ích trong xã hội và không th ể vì lợi ích nhóm. Các xu n g đột lợi ích ph ải được giải quyết theo t r ìn h tự hay qui trìn h pháp định với định hướng cân đốì giữa lợi ích của cá nhân, của một nhóm người với lợi ích chung của cộng đồng để làm sao lợi ích của cá n h â n được bảo đảm tối đa mà không cản trở sự p h á t triể n bình thường của cộng đồng, ơ đây chỉ còn một điểm t r a n h luận là đ ặ t lợi ích của cá n h â n hay lợi ích của cộng đồng lên trê n khi suy xét cho sự cân đổi này.

Bởi lợi ích của người n ày có th ể là sự th iệ t thòi của người khác hay sự th iệ t thòi của cộng đồng, vậy đ ặ t vấn đề ngang bằng giữa các lợi ích khi suy xét như vậy là không hiện thực, c ầ n lưu ý, sự cân đôi vừa nói chỉ có nghĩa là sự cắt xén lợi ích thích hợp, vừa đủ, chính đáng, hợp pháp của một bên cho bên cần được ưu tiên hơn khi đã suy xét kỹ lưõng. P h á p luật ph ản á n h các lợi ích này trớ th à n h quyền lợi. Hiểu rằng, xét về phương diện pháp lý, không ai có quyển đốì với ai trong bất kỳ lĩnh vực quan hệ nào, trừ khi các quan hệ đó được p h áp lu ậ t q uan tâm, bảo hộ hay xác định hoặc giới hạn, có nghĩa là nói tỏi quyền là đã bưốc vào địa h ạ t pháp lý. Khi chúng ta th ừ a nhận chức n ă n g gìn giữ hoà bình của pháp luật, thì cũng có nghía là chúng ta phải th ừ a n h ậ n ba chức n ă n g sau của nó.

Chức n ăn g ấn định h a y thi h àn h các tiêu ch uẩn xử sự và duy trì t r ậ t tự thể hiện sự lựa chọn có tín h cách kỹ th u ậ t cho việc hưống tới gìn giữ hoà bình. Khi con người, trong mối q u a n hộ với nhau, luôn luôn cần xử sự với n h au trong

Tạp chí Klioa học Đ H Q G H N , K inh tè - Luật, T.XXII, Sô ! . 2006

(3)

Quan niệm lại pháp luật 2 5

n h ữ n g giói h ạ n n h ấ t định và đầy thiện chí đế hướng tới sự tồn tại của cộng đồng và cũng chính là sự tồn tại của chính họ.

Vì vậy trong học th u y ế t của mình, Je a n Jacq u es Rousseau n h ấ n m ạn h tới tự do của con người, nhưng ông cũng khẳng định:

“Có m ột lúc nào đó các trở lực g ây hại cho sự sin h tồn của con người có th ể lấn á t sự k h á n g cự của từ ng cá n h â n, lúc đó tin h trạng nguyên th u ỷ sẽ không còn n ữ a, loài người sẽ bị tiêu diệt nếu họ không th a y đổi cách sống.

N h ư n g con người không th ể tạo ra lực mới, m à chỉ có th ể kết hợp và điều khiển nhữ ng lực sẵn có; cho nên phư ơng ph áp d u y n h ấ t đ ế con người tự bảo vệ là họ p h ả i kết hợp lại với n h a u th à n h m ột lực chung, được điều kh iển bằng m ột động cơ chung, kh iến cho m ọi người đều hành động m ột cách hài hoà” [7, tr.41].

T h ậ t vậy con người sinh ra trong tự do và có h o àn toàn tự do. Song m ặt khác, để bảo đảm cho sự tồn tạ i của chính bản th â n từ n g con người cụ th ể để được hưởng tự do, con người cần liên k ế t lại với n h a u trong n h ữ n g cộng đồng. Và trong sự liên k ế t đó, cộng đồng cần tới sự bền vững, và tự do của cá n h â n con người chỉ có th ể bị giới h ạ n bởi lý do bảo đảm sự tồn tại và p h á t triể n của cộng đồng một cách hợp lý, vừa đủ và không bị lạm dụng. N hữ ng quá trìn h này cần tới cách cư xử với n h a u giữa họ làm sao cá n h ân vẫn có được n h ữ n g lợi ích của mình, trong khi cộng đồng v ẫn liên tục p h á t triển. Vì t h ế tiêu c h u ẩn xử sự cần phải được th iế t lập. Các tiêu ch u ẩn xử sự ở đây, nhắc tối ở k h ía cạn h pháp lý, được chứa đựng trong các qui tắc m à n h ấ t loạt chúng p h ụ thuộc vào H iến p háp nơi thể

hiện ý chí chung của cộng đồng và là p h ầ n cao n h ấ t trong sinh h o ạ t chính trị, p háp lý của một cộng đồng chính trị cụ thể. Và bản t h â n Hiến p h á p cũng bị lệ thuộc vào n h ữ ng qui lu ậ t vốn có là các tự do vốn có của con người. N ên nhắc lại rằng, sự cân đối giữa lợi ích cá n h â n và lợi ích cộng đồng là điểm gay cấn n h ấ t của pháp lu ậ t m à tập tru n g ở câu chuyện đ ặ t lợi ích của cá n h â n h a y lợi ích của cộng đồng lên trước, khi suy xét về sự cân đốì này. Có lẽ chủ nghĩa lập hiến có x u ấ t p h á t điểm từ việc bảo vệ các tự do của cá nhân.

Hai chức n ă n g trê n d ẫ n tới sự xuất h iện của chức n ăn g th ứ ba, bơi sự ổn định và t r ậ t tự trong xã hội có thê được duy trì và th ú c đẩy chỉ k h i các dự định và k ế hoặch biến th à n h h iện thực. Nói cách khác, n h ữ n g mục tiêu đ ạ t được thông qua việc biến các dự định và kế hoặch trở th à n h hiện thực góp p h ầ n thúc đẩy sự p h á t triể n xã hội về h a i phương diện: T h ứ n h ấ t, các n h u cầu sông của con người được thoả mãn; T h ứ h a i, sự hợp tác của con người được t ă n g cường. Tại phương diện th ứ h a i cần p h ả i giải thích rằng: Các dự định hoặc k ế hoặch làm ăn thường được th ể hiện qua các hợp đồng m à p háp lu ậ t bảo hộ, bởi vậy khi pháp l u ậ t bảo đảm cho các hợp đồng được thi h à n h , th ì sự hợp tác giữa con người được củng cô". Thông qua ho ạt động làm ăn h a y thông qua việc ký k ế t và thực hiện các hợp đồng, ngoài việc hợp tác và làm tă n g khối lượng tư sản của các bên, nhu cầu của xã hội cũng được đáp ứ ng ngày một tốt hơn, bởi các sản p h ẩ m hay dịch vụ đươc tạo ra từ các h o ạ t động đó. Quy trìn h n ày p h ả n á n h một th iê n hưỏng

Tạp chi K lioa liọc Đ H Q G H N , Kinh tế- Luật, T.XXII. S ô 'Ị, 2006

(4)

2 6 N g ô Huy Cưctng

vinh viễn của con người là trao đối sản phẩm cho n h a u và phục vụ lẫn n h a u [12, tr. 20-24].

Dù muôn hay không, người t a không thể không nói tới sự xung đột giữa các lợi ích trong b ấ t kể một xã hội cụ thế nào.

Tuy nhiên nếu không được kiềm chế, những xung đột đó có thể ph á võ những cộng đồng n h ấ t định. Luôn hưống tối sự ổn định, pháp lu ậ t cần bảo đảm sự công bằng hay điều hoà giữa các lợi ích. Chức năng này của pháp lu ậ t có ý nghĩa to lớn đối với Việt Nam khi xây dựng đ ấ t nước với mục tiêu “dân g ià u , nước m ạ n h , xã hội công bang, dân ch ủ, văn m in h ”.

Ngoài các chức n ăn g chung như đã được phân tích ở trên, mỗi một ngành lu ật lại có những chức năng riêng biệt.

Các chức năng riêng biệt này p h ả n ánh nhu cầu p h á t triển của xã hội trong từng giai đoạn.

II. K hái n iệ m p h á p l u ậ t v à b ả n c h â t củ a p h á p lu ậ t

Phần trên đã n êu định nghĩa khái niệm pháp lu ật m à lý lu ận ch u ng về n h à nước và pháp l u ậ t của ta thường sử dụng. Định nghĩa này có n hiều điểm chung vối các q u an niệm khác trên t h ế giới về pháp luật, tấ t nhiên trong khuôn khổ của trường p hái thực chứng pháp lý.

Chẳng hạn, khi giải thích sự khác biệt giữa qui tắc pháp lu ậ t vói các qui tắc khác, Andrew Heywood nêu r a bôn đặc trư ng của pháp luật:

T h ứ n h ấ t , pháp lu ậ t do chính quyền làm ra, nên phản á n h ý chí của nh à nước và được ưu tiên hơn t ấ t cả các qui tắc xã hội khác.

T h ứ h a i, pháp lu ậ t có tín h b ắ t bưộc m à công d ân không được phép lựa chọn lu ậ t nào để tu â n th ủ và lu ậ t nào không để tu â n thủ, bởi pháp lu ậ t được hỗ trợ bằng một hệ thông cưỡng chế và hình phạt.

T h ứ b a, pháp lu ật bao gồm các qui tắc được th ừ a n h ận và công bô' mà đã được ban h à n h thông qua một qui trìn h lập pháp chính thức và công khai.

T h ứ t ư, pháp lu ậ t nói chung được công n h ậ n như một sự rà n g buộc với những người m à nó áp dụng, bởi vậy nó bao h à m n hững yêu sách đạo đức [2, tr.24-25].

Quan niệm này đã nhắc tới ý chí của n h à nước thay vì ý chí của giai cấp thống trị, bởi họ xem n h à nước được tạo nên bởi ý chí của toàn dân. Quan niệm này cũng đã n h ấ n m ạn h bản chất của pháp lu ậ t là ý chí, n hư ng m ang nội dung đạo đức.

C húng ta dễ dàng n h ậ n thấy các thuộc tín h của pháp lu ậ t dược nêu ra trong định nghĩa này không quá khác với các thuộc tín h mà các lu ậ t gia Việt Nam vẫn thường nhắc đên, bao gồm tính qui phạm phổ biến, tính xác định chặt chẽ về m ặt h ìn h thức và tính được bảo đảm bằng n h à nưóc [14, tr. 126-129]. Vấn đề còn lại của các quan niệm trên chính là bản ch ất của pháp luật. Nó đã làm cho có sự khác biệt giữa các quan niệm về pháp lu ậ t m à các lu ậ t gia trong lĩnh vực luật so sá n h vẫn thường đề cập đên trong p hần ý thức hệ của hệ thông pháp luật.

Vậy vấn đề cần lý giải ở đây là cơ sở đạo đức của pháp lu ậ t là gì theo quan niệm của các lu ậ t gia trên thê giỏi.

Trước hế t phải đề cập tới trường phái lu ậ t tự nhiên xu ất hiện vào khoảng thê

Tạp clú Khoa học Đ H Q G t ìN , Kinh lê - Luật, T.XXII, Sô 1,2006

(5)

Quan niệm lại pháp luật 2 7

kỷ XVII- XVIII tru y ền bá pháp lu ậ t được hệ thống hoá tro n g các trường đại học.

Trường phái này n h ấ n m ạnh tối các quyền tự nhiên của con người và đ ặt nền móng vững chắc cho việc p h ân chia pháp lu ậ t t h à n h lu ật công và lu ậ t tư. Và từ đó các môn khoa học p h á p lý mới được hình th à n h như: lu ậ t h iến pháp, lu ậ t hành chính, lu ậ t hình sự [10, tr. 40-46].

René David và Jo h n E .c. Brierley đã n h ận xét, trường ph ái lu ậ t tự nhiên có h ai sự th à n h công lớn đ áng lưu ý: T h ứ n h ấ t, m ang lại vai trò mới của pháp luật trong phương diện quan hệ giữa người điều chỉnh và người bị điều chỉnh, giữa người cai trị và các cá nhân. L u ậ t La Mã đã tạo ra công thức p h â n biệt giữa lu ật công và lu ật tư n h ư n g đã không quan tâm tới lu ậ t công. Trường phái lu ật tự nhiên đã đụng chạm tỏi cùng của khu vực cấm kỵ nàỵ. Từ t h ế kỷ th ứ XVIII các lu ật gia đã mở rộng nghiên cứu tối t ấ t cả các lĩnh vực của l u ậ t công và đã th àn h công trong việc xây dựng một hệ thông pháp lý song song với hệ thống lu ậ t tư truyền thông kể từ Cách m ạng Pháp 1789. T h ứ h a i, trường phái lu ậ t tự nhiên đã thúc đẩy p h áp điển hoá. Nó hợp n h ấ t sự thông th á i của các lu ậ t học sư La Mã và dẫn giải một cách hệ thống pháp lu ậ t làm p h ù hợp với xã hội ở th ế kỷ XVIII. Bởi th ê một đạo lu ậ t được thông qua bao h à m cả thực tiễn và lý thuyết m à tr ìn h độ cấu trúc vượt xa công trình p háp điển hoá của Hoàng đế Ju stin ian .

Tuy nhiên các ông cũng cho rằng pháp điển hoá - k ế t quả của trường phái luặt tự nhiên, có m ột số h ạ n chế n h ấ t định như: Giới h ạ n các trường đại học

trong việc diễn giải lu ậ t thực định; tạo ra cho các lu ậ t gia chỉ coi trọng pháp luật quốc gia mà bỏ qua ý tưởng lu ật là qui tắc ứng xử xã hội và có bản chất siêu quốc gia; và làm x u ấ t hiện trường phái thực chứng pháp lý (legal positivist) chỉ th ừ a n h ậ n các quy phạm của lu ật thực định, đ án h giá quá cao vai trò của pháp điển hoá, chỉ coi văn bản quy phạm pháp lu ậ t là nguồn của lu ậ t và thậm chí không công n h ậ n tư tưởng lu ậ t tự nhiên [10, tr. 59-69].

Giải thích h ạ t n h â n của quan niệm lu ậ t tự nhiên, E d m und M.A Kwaw viết:

“K h á i niệm chủ yếu của lu ật tự nhiên là có sự ton tại của n h ữ n g nguyễn tắc đạo đức khách quan m à dựa trên bản chất cốt yếu của vũ trụ, của vạn ưật, của n h â n loại và có th ể được tìm thấy bởi lý do tự nhiên, và lu ậ t thông thường của con người chỉ trở th à n h sự thực trong chừng m ực m à nó tu â n th ủ theo những nguyên tắc đ ố ' [10, tr. 6].

Nội dung đạo đức vừa nói trong quan niệm pháp lu ậ t của các lu ậ t gia trên thê giới có lẽ chính là lu ật tự nhiên mà thường được xem là cao hơn lu ậ t của con người.

Tư tưởng này có gốc rễ sâu xa từ q u an niệm của người Hy Lạp cổ đại về sự chi phối của các quy lu ật của tự nhiên đốì vói con người. Quan niệm này được th ể hiện một cách r ấ t rõ n é t trong vở bi kịch Antigone của Sophocle. Nhà vua Créon cấm chôn xác của người an h của Antigone vì đã p h ạm trọng tội. Antigone th ừ a n h ậ n đã biết lệnh, n h ư ng không thi h à n h , và đã đốĩ đáp với nh à vua rằng:

“Vì sao? Vì lu ậ t ấy không do thần Zeus và th ầ n Công lý ban bố. Theo tỏi,

Tạp ch í Khoa học Đ H Q G H N , Kinh tế- Luật, T.XX11. SỔI, 2006

(6)

2 8 N gô Huy Cương

các m ệnh lệnh của ngài không thê lân át được những ỷ chí của th ầ n nhản. Y chí ấy là nhữ ng luật, tuy không th à n h ưăn, nhưng không sao xoá nhoà được. N h ữ n g điều luật ấy thời nào củng có và khổng ai có th ể biết rõ đã có tự bao g iờ ’ [13, tr. 84].

Tuy nhiên, người ta cho rằ n g các quan niệm cổ đại này gần vối qui lu ậ t của tự nhiên (law of n atu re) hơn là lu ật tự nhiên (n atu ral law). Kể từ thời của Socrates, Plato và Aristotle, do n h u cầu tìm kiếm công lý trong pháp luật, nên tư tưởng về lu ậ t tự nhiên ngày càng được củng cô" dù theo hướng t h ế tục hay th ần thánh.

Cicéro- một triế t gia La Mã cổ đại theo trường phái khắc kỷ - tuyên bô", khi bàn về nền cộng hoà:

“Pháp luật chân chính là lý trí đú n g đắ n, p h ù hợp với tự nhiên, được truyền bá giữa mọi người, vĩnh hang, bất diệt...

Nó không cần người diễn g iả i hay dẫn giải trừ bản thân nó, hoặc củng khổng có

luật nào ở Rom e và m ột lu ậ t khác ở A thens, m ột luật nào trong hiện tại và m ột lu ậ t khác trong tương lai sắp tới, trừ m ột đạo lu ậ t m à lu ậ t đó là vĩnh hă ng và không thê thay đổi, bao quát- tấ t cả mọi người và m ãi m ãi; và đó lả thượng đ ế của tất cả, là tác giả, là thấm p h á n ; N g ­ ười đề xu ấ t lu ậ t đó dược xem n h ư người thầy và người cai trự [3, tr. 3].

Thời kỳ T ru n g cổ, tư tưởng lu ậ t tự nhiên của thiên chúa giáo cũng đã từng thịnh hành. Sự áp đ ặ t của chúa tròi được coi là lu ậ t tự nhiên có liên hệ vối con người bởi sự khai sáng và luôn luôn ràng buộc con ngưòi vối nội dung không thay đối. Khi mà yêu cầu của n h à nưỏc hay chính quyền khác với lu ật của chúa trời,

thì lu ậ t của nh à nước bị xếp ở h àn g thứ yếu. St Thomas Aquinas (1225-1274) viết:

“S ự dẫn d ắ t đầy lý tín h này của nhữ ng vật sáng tạo về p h ía chúa... chúng ta có th ể gọi là lu ậ t vĩnh cửu. N h ư n g của tấ t cả n h ữ n g vật khác, nhữ ng người có lỷ trí bị p h ụ thuộc vào thượng đ ế siêu p h à m theo m ột cách thức rất đặc biệt; những người th a m gia đang tự bản thân họ đ- ược tạo nên trong chúa, m à trong đó họ kiểm soát các h à n h động của họ và hành động của nhữ ng người khác. Vậy họ có m ột sự san xẻ trong bản thân lý tính siêu p h à m , nh ận được từ đó m ột kh u yn h h- ướng tự nhiên cho những hành động và nhữ ng giới hạn n h ư vậy khi đang điều chỉnh sự th a m gia vào luật vĩnh cửu bởi n hữ ng người có lý trí được gọi là luật tự n hiên”.

Vào th ế kỷ XIII, Bracton tuyên bô" rằng:

“5a/z thân nhà vua không bị phụ thuộc vào con người m à p h u thuộc vào chúa trời và vào ph á p luật, bài vì pháp luật tạo ra nhà vua” [5, tr.3].

Tư tưởng lu ậ t tự nhiên đã được Grotius - một triết gia, một lu ật gia*

khẳng định lại rằn g chân lý được con người m ang đến tồn tại độc lập với chúa.

Thực vậy, nếu chúa không hoà hợp với t ấ t cả các nguyên tắc đó, thì không phải là chúa [6, tr.3]. Đến nay các công trình nghiên cứu về lu ậ t tự nhiên, về nh à nưóc pháp quyền đểu ghi n h ậ n các công lao vĩ đại của J o h n Lock, J e a n - Jacques Rousseau, S ain t Louis Montesquieu và Thomas Paine - n hữ ng người đã tạo ra ký nguyên hiến pháp th à n h văn và đặt nền móng vững chắc cho học th u y ết nhà nước pháp quyền hiện đại. Điều không thể phủ n h ậ n được là học thuyết này có

Tạp chi Khoa học D H Q G H N , Kinh tể- Luật, T XXII, S ố 1, 2006

(7)

Quan niộm lại pháp luật 2 9

sự gắn bó chặt chẽ với tư tưởng k h ế ước xã hội. Học th u y ết này đã đ ặ t vấn đề về tính hợp pháp của các h à n h vi của chính quyền, tạo dựng các ý tưởng về hiến pháp th à n h văn, và đề cập đến khái niệm cơ bản về quyền con người... Ngay sau các tư tưởng của s. L. Montesquieu là một thòi kỳ nở rộ của chủ nghĩa lập hiến và cách m ạng d â n chủ. Nhiều Bản văn Hiến pháp và n h iều văn kiện có tính chính trị - pháp lý đã thể hiện r ấ t n h u ầ n nhuyễn các tư tưởng này. Ví dụ: Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ ngày 4/7/1776;

Hiến pháp của Tiểu bang M assachusetts 1780; Hiến pháp Hoa Kỳ 1789; Tuyên ngôn N h ân quyền và D ân quyền 1789 của Pháp; Đạo lu ậ t vê N h â n quyền của Hoa Kỳ 1791. Cách m ạng Pháp đã lấy khẩu hiệu từ trong £Ông trìn h nghiên cứu của J. J. Rousseau: “Con người sinh ra tự do, như ng rồi đ â u đ â u con người củng sông trong xiềng xích” [8; 7, tr.29].

Và xuất p h á t từ k h ẩ u hiệu này, các luật gia trên t h ế giỏi n h ấ n m ạnh, n hữ ng lu ật nào mà đ ặ t con người trong xiềng xích là những lu ậ t vô giá trị, khi họ bàn về khái niệm và bản ch ất của p háp l u ậ t . Họ cho rằng lu ậ t tự n hiên m an g đến tín h hợp pháp cho sự hô hào cách m ạng [6, tr.4].

Thông qua các nghiên cứu này, có thể thấy, cho dù th ừ a n h ậ n lợi ích nhóm trong việc xem xét b ả n c h ấ t của pháp luật, n hưng khi đã hưóng tới việc xây dựng n h à nước p h áp quyền, người ta không thể quên và cũng không thể không cân nhắc một cách th ậ t kỹ lưỡng tới tín h ch ất tự n hiên của pháp luật. Nói cách khác, giai cấp th ô n g trị, vì lợi ích của mình, không th ể tước đi t ấ t cả n hững gì tự nhiên ban tặn g cho con người, trước h ế t là quyền được sông,

quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Tuy nhiên, cách thức cho hưởng quyền và p h ạm vi của sự bó hẹp các quyền phụ thuộc vào bản chất của sự thống trị.

III. K hái n iệ m h ệ t h ô n g p h á p lu ậ t Hiện nay khi nói tới hệ thông pháp luật, lý lu ận chung về nh à nước và pháp lu ậ t của ta thường đề cập tới định nghla hay quan niệm về nó dựa theo các quan điểm triế t học pháp quyền Mác - Lê Nin được tập hợp lại trong bộ môn lý luận chung về n h à nước và pháp lu ật - một bộ môn tương đối đặc trư n g của các nước theo con đường XHCN.

Khởi đầu cho lý luận về hệ thống pháp luật, lý lu ận chung về nhà nước và pháp lu ậ t của ta thường lấy tiền để từ q uan điểm của Àngghen được thể hiện trong bức th ư gửi Sm ít rằng: “Trong một quốc gia hiện đ ạ i, ph á p lu ậ t không nhữ ng p h ả i là sự biểu hiện các điều kiện k in h tê] m à còn là sự biểu hiện hài hoà bên trong'. Bởi vậy có định nghĩa: “Hệ thống p h á p lu ậ t là cơ cấu bên trong của p h á p lu ậ t, được qui đ ịn h m ột cách khách quan bởi các điều kiện k in h t ế - xã hội, biêu hiện ở sự p h â n chia hệ thống ấy th ành các bộ p h ậ n cấu th à n h (ngành, c h ế định) khác n h a u

,

p h ù hợp với đặc điểmy tín h chất của các quan hệ xã hội mà nó điều c h ỉn h, như n g các bộ p h ậ n khác nh a u ấy có mối qu a n hệ qua lại chặt chẽ và thống n h ấ t với n h a u ”. Lập lu ận này có nghĩa là hệ thống pháp lu ậ t là cơ cấu bên trong của pháp luật, còn các nguồn của pháp lu ậ t là h ìn h thức biểu hiện bên ngoài của p h áp luật. Nhưng giữa chúng có mối liên hệ qua lại trong một chỉnh th ể thỗng n h ấ t [9, tr. 335-345]. Cũng có

Tạp chi Khoa học Đ H Q G t ìN. K inh tế- Luật, T.XXII, SỔI, 2006

(8)

3 0 N g ỏ H uy C u a n g

thể h iểu hình thức th ể hiện bên ngoài của pháp lu ậ t là hệ thông pháp lu ậ t thực định [14, tr. 183]. Nếu như xem pháp lu ật là một tập hợp các qui tắc xử sự do nhà nước b an h à n h hoặc th ừ a n h ận, thì hệ thống pháp lu ậ t chỉ đơn giản là một tập hợp các qui tắc xử sự, và xây dựng hệ thống p háp lu ậ t chỉ đơn giản là việc tạo ra các nguồn có chứa đựng các qui tắc đó, theo q u a n niệm nói trên.

C ũng x u ấ t p h á t từ các qui tắc xử sự, các lu ậ t gia ở các nước khác q u an niệm rằng, pháp lu ậ t là một hệ thống các qui tắc có mục đích hướng dẫn các h à n h vi của con người trong một tổ chức cụ thể của họ. Q uan niệm này gợi ý, không nên xem p háp lu ật chỉ đơn th u ầ n là các qui tắc, m à phải xem chúng là một p h ầ n của qui trìn h hay tổ chức xã hội. Và qui trìn h hay tổ chức này được nhìn n h ậ n như hệ thống pháp lu ậ t (legal system) [4, tr.l].

Có thể có quan điểm lập lu ận rằng, lý luận chung vể n h à nước và pháp lu ậ t của ta cũng không tách rời các qui tắc xử sự ra khỏi điều kiện k in h t ế hay điều kiện sinh h oạt vật ch ất của giai cấp thống trị, theo quan điểm của Mác. Tuy nhiên quan niệm này chỉ n h ấ n m ạn h tới nội dung và định hướng của các qui tắc xử sự, chứ không góp p h ầ n n h ìn n h ậ n rộng rãi hơn về hệ thông pháp luật. Quả th ậ t quan niệm này chỉ xoay q u a n h các qui tắc xử sự đơn th u ầ n , bị tách biệt một cách tương đối với n h à nước, tu y có nhắc tới mối quan hệ giữa chúng. P h á p lu ậ t theo quan niệm n à y chỉ được xem là công cụ của nh à nưốc để q uản lý xã hội. Cụ th ể Hiến pháp 1992 tuyên bố: “N h à nước quản lý xã hội bằng p h a p luật, không ngừng tăng cường p h á p c h ế xã hội chủ

nghĩa" (Điểu 12). Khác hơn, các l u ậ t gia thuộc Họ Ph áp lu ậ t La Mã - Đức, Họ Pháp lu ậ t Anh- Mỹ và một số họ p h á p lu ậ t khác vẫn tâm niệm n h à nước chỉ là một cấu trúc pháp lý. Nên khi nói tới lịch sử pháp lu ậ t hay lý lu ận p háp lu ậ t là đã có cả lịch sử hay lý luận về n h à nưốc.

Trong khi, c,ác nước thuộc Họ P h á p l u ậ t Xã hội C hủ nghĩa có cách gọi riên g là

“lịch sử nh à nước và pháp lu ậ t” và “lý lu ận chung về n h à nước và pháp l u ậ t ”.

Ngày nay khi nói tới hệ thống p h áp luật, người ta phải đề cập tối th iể u tới các vấn đề như: Lịch sử pháp luật; tô chức tư pháp; tổ chức n h à nước; nghề luật; đào tạo pháp lý; phong cách tư duy pháp lý; ý thức hệ của hệ thông pháp luật; cấu trúc pháp lý; nguồn của p háp luật; cách thức xây dựng p h áp luật; các chế định đặc trư n g và nổi b ậ t của một hệ thống p háp lu ậ t cụ thể. Hệ thống pháp lu ậ t ở đây được xem là to àn bộ k h u n g cảnh, điều kiện, tổ chức và qui trìn h (tạo lập và sinh hoạt) pháp lý của một cộng đồng chính trị n h ấ t định.

IV. P h â n loại p h á p l u ậ t

Lý lu ậ n chung về n h à nước và pháp lu ậ t của ta cho r ằ n g sự khác biệt trước hế t của các lĩnh vực quan hệ xã hội được pháp lu ậ t điều chỉnh là căn cứ để phân tích các ng àn h lu ậ t [9, tr.339]. Vì vậy, đối tượng điều chỉnh là căn cứ căn bản để p h ân loại pháp luật. Tuy nhiên, bên cạnh đó việc p h â n loại còn được bổ sung bởi phương pháp điều chỉnh.

Phương pháp điều chỉnh của pháp luật, theo các quan niệm này, trước hêt là cách sử dụng p háp lu ậ t để mô hình hoá, điển hình hoá và định hướng các quan hệ xã hội và nó bao gồm:

Tạp clú Khoa học D H Q G H N , Kinh té - Luật, T.XXJI, Sô 1,2006

(9)

Q uan niệm lại pháp luật

3 1

Xác định địa vị p háp lý của các bên trong quan hệ xã hội đã được điều chỉnh hoá, mô hình hoá;

Xác định cơ sở p h á t sinh, biến đổi hoặc chấm dứt tồn tạ i của các quan hệ pháp luật;

Xác định tín h ch ất của các quyền và nghĩa vụ của chủ thể;

Xác định các biện pháp tác động p háp lý đốì với n h ữ n g trường hợp vi phạm hoặc không thực hiện nghĩa vụ chủ thể, khả năng, tín h ch ất và mức độ của các chế tài tương ứng;

Xác định n h ữ n g biện p háp nhằm thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả các quyển và nghla vụ của chủ thể [14, tr. 350].

Cách thức p h â n loại này đã gây nên những lúng tú n g n h ấ t định. Chẩng hạn khi phân biệt giữa lu ậ t dân sự và lu ật thương mại người ta sẽ vấp phải những khó khăn. T h ứ n h ấ t, đỗi vói cả hai ngành lu ật này, dưòng n h ư r ấ t khó phân biệt vê đôi tượng điều chỉnh. T h ứ h a i, dường như hai n g à n h lu ậ t này sử dụng chung một phương p h áp điều chỉnh, tuy nhiên có phần tă n g hay giảm một vài yếu tô' nào đó tro n g phương pháp điều chỉnh như trên đã nêu, n hư ng r ấ t khó xác định. Chang thế, giò đây có nhiêu quan điểm cho rằ n g cần ph ải xoá đi sự phân biệt không cần th iế t giữa hai ngành lu ật này.

Khắc phục n h ữ n g điểm h ạ n chế này, các lu ậ t gia ỏ các nước có tru y ền thông phân chia lu ậ t d â n sự và lu ậ t thương mại thường p h â n tích sự khác biệt giữa hai ngành lu ậ t n ày ở tín h chất của sự thê hiện ý chí n h ằ m tạo lập các quyền lợi.

Điều này cho th ấy , có lẽ việc phân chia pháp lu ậ t n ên căn cứ vào điểm cốt

yêu của p háp lu ậ t là quyền lợi m à đã được p h â n tích ở trên. Vì vậy vấn đề quan trọng nhâ't hay cách thức phân loại quan trọng n h ấ t là p h ân loại pháp lu ật th à n h lu ậ t tư và lu ậ t công.

Việc p h â n chia các ngành lu ật th à n h lu ậ t tư và lu ậ t công là cách thức p h ân loại căn b ả n n h ấ t mà các lu ậ t gia thuộc Họ Pháp lu ậ t La Mã - Đức thường sử dụng đê nghiên cứu và xây dựng pháp luật. Cách thức này cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới các lu ậ t gia thuộc Họ Pháp lu ậ t Anh - Mỹ. Và ngày nay, nó cũng đã được nhắc đến nhiều ở Việt Nam. Có thể nói, khi xây dựng một hệ thông pháp lu ậ t hưóng tới nền kinh t ế thị trường và hướng tới n h à nước pháp quyền, thì không thể không nói tới việc p hân loại pháp lu ậ t th à n h lu ậ t tư và lu ật công.

P h â n loại n h ư vậy tác động toàn diện từ căn nguyên, bản ch ất của pháp luật, cơ cấu hệ thông pháp lu ậ t cho tới kỹ t h u ậ t xây dựng và viết văn bản pháp luật, cũng n h ư kỹ n ă n g giải quyết các tra n h chấp pháp lý.

L u ật tư m ang tín h triế t lý sâu sắc b ắ t nguồn từ thực tiễn đời sống xã hội tru y ền thống, có sự ổn định cao và không bị ảnh hưởng nhiều bơi các trào lưu tư tưởng chính trị. Các yếu tô" kinh tế, xã hội mới chỉ có tín h chất bổ sung cho nó.

Bằng chứng là các vấn đê trong lu ậ t tư hiện nay không mấy th ay đổi so với các v ấn đề pháp lý từ thời La Mã cổ đại. Vậy sự p hân biệt này sẽ có tác dụng làm ổn định đời sống của n h â n dân từ việc tách bạch một cách tương đối với các’ý tưởng q uản lý n h à nước chưa được kiểm chứng.

L u ật tư tác động thường ngày tới các q uan hệ th ị trường m ang trong m ình yếu

Tạp ch i Khoa học Đ H Q G H N , K inh tế- Luật, T.XXII, S ố ỉ, 2006

(10)

32 N gổ H uy Cương

tô" “tự tổ chức, tự điều chỉnh”. T ấ t nhiên, lu ậ t công có vai trò to lón trong việc cho phép các quan hệ thị trường p h á t triể n từ nền kinh t ế k ế hoạch hoá tập tru n g , bảo vệ các quan hệ thị trường và điều tiết các khiếm kh u y ết của kinh t ế thị trường.

Sự phân biệt lu ậ t tư và lu ậ t công là một th à n h tựu q u an trọng trong lĩnh vực q u an hệ giữa người cai trị và người bị cai trị. Tuy nhiên các lu ậ t gia đều cho rằ n g L u ậ t La Mã đã tạo ra công thức p h â n biệt giữa lu ậ t tư và lu ậ t công, n hư ng chỉ đến khi trường phái lu ậ t tự nhiên x u ấ t h iện từ th ế kỷ XVIII trở đi, người ta mói k h á m phá ra t ấ t cả các lĩnh vực của lu ậ t công và tạo ra một hệ thông lu ậ t công bên cạnh hệ thống lu ậ t tư.

Hiện nay nhiều lu ậ t gia Việt N am qu an niệm lu ậ t công là một hệ thông ph áp lu ậ t điều chỉnh mối q u an hệ giữa n h à nước và tư n h â n và có phương p háp điều chỉnh đặc trư n g là phương pháp m ệnh lệnh-phục tùng, còn lu ậ t tư là một hệ thống pháp lu ậ t điều chỉnh môì q u an hệ giữa các tư n h â n vối n h a u , và có phương pháp điều chỉnh đặc trư n g là phương pháp thoả th u ận , tự định đoạt.

Vì q uan niệm như vậy, nên họ lúng tú n g trong việc lý giải một số quy tắc mà n h à nước can thiệp sâu vào quan hệ giữa các tư n h â n trong một sô' ng àn h lu ậ t tư.

T ấ t nhiên b ấ t kể sự p h â n loại p háp lu ậ t nào cũng có khiếm khuyết, n h ư n g khiếm khuyết của việc p h â n biệt lu ậ t tư và lu ậ t công không phải ở chỗ không lý giải được các hiện tượng này. Việc không

lý giải được có lẽ là do quan niệm chưa th ậ t chính xác về lu ật tư và luật công.

X uất p h á t từ quyền lợi, lu ật tư được quan niệm là ngành lu ật xác lập và giới h ạn các quyền lợi tư, còn luật công là ng àn h lu ậ t xác lập và giới hạn các quyền lợi công. Tại đây cần lưu ý rằng, quyền lợi công là các quyền lợi chung của cộng đồng mà n h à nước chỉ là một tổ chức đ- ược n h â n dân uỷ quyền để đại diện và bảo vệ. Chẳng th ế mà các lu ật gia Hoa Kỳ q u a n niệm, lu ậ t công liên quan tới mối quan hệ giữa công dân và xã hội bao gồm lu ậ t hiến pháp, lu ật h àn h chính và lu ậ t h ình sự [11, tr.3].

Việc p h ân biệt giữa lu ật tư và lu ật công r ấ t hữu ích cho việc xây dựng hệ thông pháp lu ật đáp ứng các yêu cầu của nh à nưỏc pháp quyền, trưốc h ế t làm rõ quyền lợi của tư n h â n và quyền lợi của cộng đồng, sau nữa, ngăn cản việc xâm phạm một cách b ất hợp pháp của các cờ q uan công quyền vào quyền lợi tư, cuỗi cùng xác định giới hạn của quyền lợi công và h à n h vi của các cơ quan công quyền.

V. T h a y cho lời k ế t

Thực tiễn đã đòi hỏi phải xây dựng n h à nước pháp quyền. Rồi việc xây dựng n h à nước pháp quyền lại đòi hỏi phải cải cách tư pháp, cải cách thể chế, cải cách h à n h chính và cải cách pháp luật. Vì vậy, pháp lu ậ t chỉ có thể được cải cách th à n h công khi có một tư duy khác hơn về nó. Các vấn đề lý lu ận về pháp luật r ấ t rộng, nhưng trước h ế t hãy quan niệm lại về nó.

Tạp chí Khoa học Đ H Q G H N , Kinh tế- Luật, T XXII, Số I, 2006

(11)

Quan niệm lại pháp luật 3 3

TÀI L IỆ U T H A M KH ẢO

1. A. Jam es Barner, Terry Morehead Dworkin & Eric L. Richards, Law for Business, 1991, Sài Gòn, 1960.

2. Andrew Heywood, Key concepts in politics, Macmillan Press LTD, 2000.

3. Arthur R. Hogue, Origins o f the Commom Law , A Liberty Press Edition, 1996.

4. Edmund M. A. Kwaw, The guide to legal analysis, legal methodology and legal w riting, Emond Montgomery Publications Limited, Canada, 1992.

5. Hilaire Barnett, Constitutional and A dm inistrative L a w, Lawman (India) Private Limited, New Delhi, 1996.

6. J. E. Smyth, D. A. Soberman, J Barnes, Terry Morehead Dworkin & Eric L. Richards, Law for Business, IRWIN, 1991.

7. Jean Jacques Rousseau, Bàn về k h ế ước xã hội, NXB Thanh niên Thành phô» Hồ Chí Minh, 1992.

8. Jean Jacques Rousseau, The Social Contract or Principles o f Political R ig h t, 1762, Translated by G. D. H. Cole, [http://www.constitution.org/iir/socon.htm].

9. Khoa Luật - Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, Giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp lu ậ t, Hà Nội, 1993.

10. René David and John E.c. Brierley, Major legal systems in the world today- An introduction to the comparative study o f la w, Second edition, The Free Press, New York, London, Toronto, Sydney, Tokyo, Singapore, 1978.

11. Robert w. Emerson & John w. Hardwicke, Business law, Third edition, Barron’s educational series, Inc, 1997.

12. u ỷ ban Khoa học Nhà nước và Quỹ Hoà bình Sasakawa, Kinh tê thị trờng: Lý thuyết và thực tiễn, tập I, 1993, tr.20-24.

13. Vũ Văn Mẫu, Dân luật khái luận,. H. Telfer, R. Johansan, Australian Business L a w, Prentice- Hall of Australia Pty. Ltd, 1980.

14. Viện nghiên cứu Nhà nưốc và Pháp luật, N hữ ng vấn đề lý luận cơ bản về N hà Nước và Pháp lu ậ t, Nxb Chính trị Quốc gia, 1995.

VNU. JOURNAL OF SCIENCE, ECONOMICS-LAW, T.XXII, NọỊ, 2006

RETHOUGHT ON LAWS Dr. Ngo H u y C u o n g

Faculty o f Law, Vietnam N ational University, Hanoi

The rule of law is a theory for binding th e S ta te by laws. Therefore laws need to be reth o u g h t w hen buiding th e rule of law state. It is very im p o rta n t for Việt Nam now. In th is Article, th e a u th o r concentrates to com pare c e rta in ideas of laws extracted from the general theory of sta te and laws of Việt N am w ith some ideas of th a t from other countries so as to reth in k of laws according to legal reform in Việt Nam now. Issu es in this Article include th e conception, n atu re, function a n d classification of laws, an d the notion of legal system.

Tạp chi Khoa học Đ H Q G H N , Kinh tế- Luật, T.XXII, S ố Ị , 2006

Referensi

Dokumen terkait

- Phát triển của cơ thể động vật là quá trình biến đổi bao gồm sinh trưởng, phân hoá biệt hoá tế bào và phát sinh hình thái các cơ quan và cơ thể - Các hoocmôn ảnh hưởng đến sinh

10 Phương pháp xác định độ nhạy của mê gôm mét Độ nhạy của mê gôm mét nhóm cơ điện analog có thể xác định bằng một trong các phương pháp sau: 1 - Để xác định độ nhạy ở điểm cần