190
Educational Sciences, 2021, Volume 66, Issue 4D, pp. 190-199 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM THEO PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
Dương Tấn Giàu và Đào Thị Mộng Ngọc
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh
Tóm tắt. Trên cơ sở trình bày quan niệm về phong cách Hồ Chí Minh, tóm tắt phong cách Hồ Chí Minh ở các khía cạnh: tư duy, làm việc, lãnh đạo, diễn đạt, ứng xử và sinh hoạt, khái quát những vấn đề lí luận cơ bản của việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm như khái niệm rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, quy trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm và phân loại một số kĩ năng nghiệp vụ sư phạm, bài viết đề xuất các biện pháp rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh trong công tác đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm hiện nay.
Nội dung chính của bài viết trình bày ba biện pháp rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm đi từ khái quát chung như rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phương châm “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn” đến những biện pháp cụ thể như rèn luyện kĩ năng diễn đạt nói và kĩ năng diễn đạt viết, rèn luyện kĩ năng ứng xử trước những tình huống sư phạm.
Để làm rõ hơn các biện pháp được đề xuất, bài viết có phân tích một số ví dụ.
Từ khóa: nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện, phong cách Hồ Chí Minh.
1. Mở đầu
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc Việt Nam mà còn là một người thầy mẫu mực. Từ khi còn là người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, Người đã khởi nghiệp là nhà giáo, dạy tiểu học dưới mái trường Dục Thanh (Phan Thiết), dạy chữ, dạy người. Với tên gọi Nguyễn Ái Quốc, Người đóng vai trò người thầy chính trị, ra sức truyền bá, huấn luyện cán bộ cách mạng. Cùng với tiến trình cách mạng của dân tộc Việt Nam, Người còn tỏ rõ là người thầy cách mạng, thầy triết học và đạo đức, với những bài học giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên… [1].
Dù trong bối cảnh diễn ra cuộc đấu tranh ác liệt, chống lại sự xâm lược của đế quốc Mĩ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn luôn dành sự quan tâm đến công tác giáo dục. Trong bài nói chuyện với cán bộ giảng viên và sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vào ngày 21/10/1964, Người đã căn dặn: “Tất cả thầy trò, cán bộ, công nhân phải phấn khởi thi đua phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết điểm, làm thế nào để nhà trường này chẳng những là nhà trường sư phạm mà còn là nhà trường mô phạm của cả nước”. Lời căn dặn của Người đã trở thành kim chỉ nam cho các thế hệ thầy trò của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cũng như hệ thống đào tạo giáo viên trong cả nước [2].
Ngày nay, thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị và chuyên đề 2018 về học tập theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh, cán bộ giáo dục cũng phải ra sức học tập tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người. Đối với sinh viên sư phạm, việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường là điều quan trọng và cần thiết. Đơn cử, trong khuôn khổ hội thảo lấy ý kiến về Chương trình đào tạo đại học chuyên ngành Ngày nhận bài: 2/7/2021. Ngày sửa bài: 29/8/2021. Ngày nhận đăng: 10/9/2021.
Tác giả liên hệ: Dương Tấn Giàu. Địa chỉ e-mail: [email protected]
191 Sư phạm lịch sử năm 2016, 2020, Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh luôn nhận được góp ý của của giáo viên phổ thông cho học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm. Trong khuôn khổ một tham luận có giới hạn số trang, bài viết xin mạn đàm đến việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh nhằm góp phần nâng cao chất lượng học phần cũng như chất lượng đào tạo giáo viên.
2. Nội dung nghiên cứu
2.1. Khái quát về phong cách Hồ Chí Minh - Khái niệm
Theo Từ điển tiếng Việt của nhà nghiên cứu Hoàng Phê: “Phong cách là lối sống, cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử tạo nên cái riêng của một người hay một loại người nào đó (nói tổng quát)” [3; tr.782].
Theo tài liệu Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh:
“Nói đến phong cách Hồ Chí Minh là nói đến những giá trị đặc trưng, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người; thể hiện một nhân cách lớn, siêu việt, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn” [4; tr.88-89].
Từ đó có thể suy ra, phong cách Hồ Chí Minh là lối sống, cách sinh hoạt, làm việc, ứng xử tạo nên dấu ấn, giá trị đặc trưng, cái riêng của chủ tịch Hồ Chí Minh.
- Nội dung phong cách Hồ Chí Minh
Phong cách Hồ Chí Minh phản ánh trong lối sống và cuộc đời hoạt động của Người. Về cơ bản, phong cách Hồ Chí Minh thể hiện trong 6 phương diện sau đây:
Bảng 1. Những nội dung cơ bản phong cách Hồ Chí Minh
Tư duy Làm việc Lãnh đạo Diễn đạt Ứng xử Sinh hoạt - Khoa
học, cách mạng, hiện đại - Độc lập, tự chủ, sáng tạo - Hài hòa, uyển chuyển, có lí có tình.
- Khoa học - Có kế hoạch - Đúng giờ - Đổi mới, sáng tạo, không chấp nhận lối cũ, đường mòn.
- Tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
- Đúng đường lối quần chúng - Tổ chức kiểm tra, kiểm soát tốt - Nêu gương.
- Nói, viết giản dị, dễ hiểu, thiết thực
- Ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng, sinh động, hàm lượng thông tin cao - Sinh động, gần gũi, gắn với hình ảnh, ví von, so sánh
- Biến hóa, nhất quán mà đa dạng.
- Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp - Chân tình, nồng hậu, tự nhiên
- Linh hoạt, chủ động, biến hóa - Vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa khoảng cách.
- Cần, kiệm, liêm, chính - Hài hòa, nhuần nhuyễn văn hóa Đông - Tây
- Tôn trọng quy luật tự nhiên, gắn bó với thiên nhiên.
Nguồn: Tác giả hệ thống hóa ngắn gọn từ [4; tr.89-118]
2.2. Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm trong chương trình đào tạo giáo viên - Khái niệm
Theo Từ điển Tiếng Việt của nhà nghiên cứu Hoàng Phê và các cộng sự: Rèn luyện:
“luyện tập nhiều trong thực tế để đạt tới những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo” [3; tr. 826]. Kĩ năng: “khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một lĩnh vực nào đó vào thực tế” [3; tr.520]. Nghiệp vụ: “công việc chuyên môn của một nghề” [3; tr.681].
Sư phạm: “khoa học về giảng dạy và giáo dục trong nhà trường” [3; tr.876].
192
Từ những thuật ngữ trên, có thể hiểu, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là quá trình luyện tập, vận dụng những kiến thức, tháo tác khoa học về giảng dạy và giáo dục vào thực tế để đạt đến những phẩm chất hay trình độ vững vàng, thông thạo. Trình độ vững vàng, thông thạo đã được quy định cụ thể trong chuẩn nghề nghiệp giáo viên (Thông tư 20/2018/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo).
- Quy trình rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm
Nhóm nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh Hưởng, Đoàn Văn Hưng và Nguyễn Thị Thế Bình trong giáo trình Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử cho rằng quy trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm gồm 3 bước:
Sơ đồ 1. Quy trình rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm
Nguồn: Sơ đồ hóa và tóm tắt lại từ tài liệu [5; tr. 16 – 17].
Bước 1 - Nhận thức (mục đích, cách thức, điều kiện,...): xác định mục đích giúp định hướng lập kế hoạch hành động để đạt kết quả mong muốn.
Bước 2 - Quan sát mẫu và làm theo mẫu: thấy được khả năng vận dụng tri thức vào hoạt động, rút ra ưu điểm, nhược điểm, củng cố vốn tri thức đã có, góp phần kiểm tra và uốn nắn kịp thời nhận thức bản thân.
Bước 3 - Luyện tập: các thao tác sư phạm dần dần được chính xác, thuần thục hơn. Những sai sót là không thể tránh khỏi song vẫn mang lại kết quả cần thiết. Sự nỗ lực, tính tự giác của người học đóng vai trò quyết định.
- Hệ thống kĩ năng nghiệp vụ sư phạm
Hệ thống kĩ năng nghiệp vụ sư phạm có thể được phân loại theo nhiều cách.
Phân chia theo đặc thù môn học: Kĩ năng chung mà giáo viên đảm nhận môn học nào cũng cần phải có; Kĩ năng riêng của giáo viên đảm nhận từng môn học.
Phân chia theo hình thức tổ chức dạy học: Kĩ năng dạy học bài học nội khóa; Kĩ năng dạy học bài ngoại khóa;
Phân chia theo tiến trình dạy học: Kĩ năng chuẩn bị bài học; Kĩ năng thực hiện bài học.
Phân chia kĩ năng nghiệp vụ sư phạm cơ bản mà giáo viên đảm nhận các môn học đều cần:
Kĩ năng khai thác, lưu trữ và xử lí thông tin giáo dục; Kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin trong dạy học; Kĩ năng sử dụng ngôn ngữ nói và thuyết trình; Kĩ năng viết và trình bày bảng; Kĩ năng sử dụng phương tiện dạy học [6; tr.15-16].
Hệ thống kĩ năng nghiệp vụ cơ bản của giáo viên lịch sử: Kĩ năng chuẩn bị bài học lịch sử; Kĩ năng thực hiện bài học lịch sử và kĩ năng đánh giá kết quả học tập lịch sử của học sinh [7; tr.84-91].
2.3. Định hướng và biện pháp rèn luyện kĩ năng nghệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh
Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh được tham luận này đề cập từ định hướng chung đến việc rèn luyện một số kĩ năng cụ thể.
2.3.1. Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm theo phương châm “Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”
Nhận thức (mục đích, cách thức, điều kiện,...) Quan sát mẫu và làm theo mẫu
Luyện tập
193 Hiện nay, chương trình giáo dục đã chuyển từ hướng tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực, không chỉ chú trọng việc người học biết cái gì (know – what) mà còn biết làm, có khả năng làm được việc (know – how). Mà để làm được việc, người học phải làm và thường xuyên được làm, được luyện tập, thực hành. Từ lâu, Người đã đúc kêt “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”. Điều đó hoàn toàn phù hợp với định hướng đổi mới giáo dục và cho thấy tầm nhìn xa trông rộng của Người, giá trị thời đại của phương châm này.
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là một học phần bắt buộc trong Chương trình Đào tạo giáo viên ở các trường sư phạm. Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành thông tư 12/2021/TT-BGDĐT ngày 5/4/2021 về việc Ban hành Chương trình và thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho người có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp có nguyện vọng trở thành giáo viên trung học cơ sở, trung học phổ thông, trong đó học phần A7 – Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm được quy định là học phần bắt buộc với thời lượng 3 tín chỉ (= 0 tiết lí thuyết + 90 tiết thảo luận/ thực hành). Tính bắt buộc phản ánh tầm quan trọng của học phần này. Thật vậy, để trở thành giáo viên, sinh viên sư phạm ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường phải được thực hành, luyện tập thường xuyên, để vận dụng những lí thuyết đã học vào thực tiễn dạy học.
Ngoài ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng quy định rõ 90 tiết của học phần này chủ yếu là thảo luận/thực hành cho thấy việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cần chú trọng tính thực hành.
Có thể sử dụng “Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn” làm phương châm cho việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh. Năm 1947, lấy bút danh X.Y.Z, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc có nêu rõ: “Nói tóm lại, mỗi cán bộ, mỗi đảng viên phải học lí luận, phải đem lí luận áp dụng vào công việc thực tế” [8; tr.12],
“Chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành” [8; tr.14].
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phương châm “Học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn” đòi hỏi mỗi sinh viên còn ngồi trên ghế giảng đường, với tư cách là chủ thể của quá trình đào tạo, phải tích cực, chủ động, năng động, sáng tạo trong việc học tập các kiến thức chuyên ngành và vận dụng vào việc rèn luyện trong học phần Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
Học tập phong cách Hồ Chí Minh, trong việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, trước hết, sinh viên sư phạm cần rèn tác phong làm việc, phản ánh qua việc chuyên cần (luôn đúng giờ, làm việc có kế hoạch, khoa học, luôn có thái độ muốn đổi mới). Trong quá trình phụ trách học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, chúng tôi nhận thấy đa số sinh viên có thái độ học tập chuyên cần, làm việc có kế hoạch, nhiệt huyết, và luôn luôn có sự sáng tạo đội mới. Một bộ phận sinh viên đã tham gia vào các hội, nhóm giáo viên mà ở đó, các giáo viên giàu kinh nghiệm ở phổ thông chia sẻ nhiều sáng kiến kinh nghiệm nên có sự học hỏi ở mức độ nhất định, cập nhật xu thế đổi mới dạy học và thực tiễn dạy học ở phổ thông. Bên cạnh đó, một bộ phận sinh viên cũng đến lớp trễ, chưa đầu tư cho kế hoạch bài dạy và có sự chậm trễ nhất định trong hạn nộp các sản phẩm (kế hoạch bài dạy, bài trình chiếu đa phương tiện) theo yêu cầu học phần, cần chấn chỉnh.
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng diễn đạt cho sinh viên sư phạm
Kĩ năng diễn đạt biểu hiện ở hai kĩ năng thành phần cơ bản của người giáo viên là nói và viết. Thông tư 12//2021/BGDĐT-GDTrH và giáo trình Rèn luyện kĩ năng nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử của nhóm tác giả Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh Hưởng, Đoàn Văn Hưng và Nguyễn Thị Thế Bình, yêu cầu cần đạt của kĩ năng diễn đạt thể hiện trên các yếu tố: từ ngữ, âm lượng, ngữ điệu và phát âm (xem Sơ đồ 2).
Lí luận dạy học đã chỉ ra người giáo viên có hai nhiệm vụ: một là giảng giải, giải thích, lí giải, truyền thụ và hai là tổ chức, hướng dẫn học sinh thực hiện nhiệm vụ. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm Đời sống mới có những chỉ dẫn trong công tác tuyên tuyền, giải thích (tương ứng với nhiệm vụ thứ nhất của giáo viên). Trước hết, việc giải thích phải bắt đầu từ những khái niệm, thuật ngữ, những phương pháp cụ thể: “Phải chịu khó nói rõ cho mọi người hiểu đời sống mới có ích thế nào, cách thi hành đời sống mới thế nào” [9; tr.34].
194
Sơ đồ 2. Yêu cầu cần đạt của kĩ năng diễn đạt
Nguồn: Sơ đồ hóa và tóm tắt lại từ tài liệu [5; tr.22-25].
Thứ hai, việc giải thích, giảng giải phải được lặp đi lặp lại nhiều lần để người nghe thấm nhuần: “Nói một lần họ chưa hiểu thì nói nhiều lần. Nói đi, nói lại, bao giờ người ta hiểu, người ta làm mới thôi” [9; tr.34]. Thứ ba, việc giảng giải, giải thích phải chú ý đến đối tượng lắng nghe để sử dụng từ ngữ cho gần gũi, dễ hiểu: “Nói thì phải nói một cách giản dơn, thiết thực với hoàn cảnh mỗi người; nói sao cho người ta nghe rồi làm được ngay” (Tân Sinh, 2007, tr.34).
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Bác cũng đề cập: “Người tuyên truyền bao giờ cũng phải tự hỏi: Viết cho ai xem? Nói cho ai nghe?... Nhiều người tưởng: mình viết gì, nói gì, người khác cũng đều hiểu được cả. Thật ra, hoàn toàn không như thế” [8; tr.107]. Thứ tư, việc giảng giải, giải thích phải bắt nguồn từ những điều đơn giản, dễ hiểu trước, rồi sau đó mới có thể nói đến việc lớn, phức tạp: “Việc dễ, việc nhỏ làm được rồi, sẽ nói đến việc to, việc khó. Có người tuyên truyền đời sống mới mà đem nào “khách quan, chủ quan”, nào “tích cực, tiêu cực”, nào “khoa học hóa” và gì gì hóa. Nghe thì hay thật, nhưng chẳng mấy người hiểu là nói cái gì. Mà người nào hiểu thì có cảm tưởng rằng đời sống mới là một điều cao xa, oanh liệt, khó làm” [9; tr.34]. Chỉ bằng đôi ba dòng ngắn gọn, súc tích, giản dị, dễ hiểu, nhưng hàm lượng thông tin cao về việc hướng dẫn về biện pháp thực hành đời sống mới, Người đã cung cấp những chỉ dẫn quý báu cho giáo viên trong việc giảng giải, giải thích, hướng dẫn cho học sinh trong quá trình dạy học.
Trong việc diễn đạt, Người cũng dùng cách liên hệ, so sánh, cụ thể, sinh động. Chẳng hạn, Người sử dụng hình ảnh “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa sau” [10; tr.12] để nói về việc Cụ Phan Bội Châu hi vọng nhờ Nhật Bản đánh đuổi Pháp, bởi lẽ không thể dựa vào đế quốc để đánh đế quốc, hình ảnh “con đỉa hai vòi” [11] để nói về chủ nghĩa đế quốc với một vòi bám vào giai cấp công nhân ở các nước tư bản và một vòi bám vào tầng lớp lao động ở các nước thuộc địa để cho thấy sợi dây liên hệ giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Hoặc như nói về mối quan hệ giữa lí luận và thực hành, Người ví như mối
•Giọng vừa đủ
• Không to quá
• Không nhỏ quá
• Phản ánh xúc cảm đối với bài giảng
• Quan hệ mật thiết độ tư duy của học sinh nên cần quan sát học sinh để lúc nhanh, lúc chậm, lúc nhấn mạnh ý nghĩa,...
•Sử dụng từ phổ thông
• Giải thích thuật ngữ rõ ràng
• Diễn đạt sinh động, có hình ảnh
• Tránh các từ "tuyệt", ..."tốt", "cừ khôi", ờ ờ...
• Nói ngọng
• Nói lắp
• Sử dụng nhiều thổ ngữ
• Nói nhanh, ngắt quãng, thêm liên từ không cần thiết
Phát âm Từ ngữ
Âmlượng Ngữ điệu
195 quan hệ giữa mũi tên hoặc viên đạn và đích bắn: “Lí luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn), Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên” [8; tr.14] hay trong mối quan hệ giữa kinh nghiệm và lí luận thì “Có kinh nghiệm mà không có lí luận, cũng như một mắt sáng, một mắt mờ” [8; tr.12]. Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người chỉ rõ: “Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững, thuyền mới chạy” [12]. Trong Di chúc, đối với vấn đề Đảng cách mạng, Người mong mỏi phải “giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình” [13; tr.45]…
Người còn sử dụng số liệu để cụ thể hóa, nâng cao sự thuyết phục những đều mình diễn đạt. Trong bài viết với nhan đề “Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc”, đăng trên Tập san Inprekorr, bản tiếng Pháp, số 67, Người viết: “Mặc dù Trung Quốc rất suy nhược, mặc dù nội bộ Trung Quốc bị chia rẽ, nhưng dẫu sao, con số 11.139.000km2 của nó vẫn là một miếng mồi quá to mà cái mõm của chủ nghĩa đế quốc thực dân không thể trôi ngay một lúc được. Và không thể trong một ngày mà đẩy một cách tàn bạo 489.500.000 người Trung Quốc vào xiềng xích của chế độ nô lệ thuộc địa. Cho nên, người ta cắt vụn Trung Quốc ra. Cách này chậm hơn nhưng khôn hơn” [14].
Người cũng đưa ra ví dụ gần gũi để minh họa, làm rõ vấn đề mình đang luận bàn. Ví dụ, để minh họa cho biện pháp nêu gương trong thực hành đời sống mới, Người lấy ví dụ về việc trồng khoai Tàu của người Hà Lan và việc sử dụng phân hóa học: “Mấy trăm năm trước, vài người Hà Lan lấy giống khoai bên Tàu về, khuyên đồng bào họ trồng. Ban đầu chẳng những không ai chịu trồng, mà cũng không ai dám ăn. Mấy người đó tự trồng lấy khoai, rồi nấu lên ăn với nhau.
Người xung quanh thấy vậy, mới bắt chước trồng. Chẳng mấy lâu khắp cả nước Hà Lan ai cũng trồng khoai” [9; tr.35]. “Phân hóa học là một thứ phân rất tốt. Nhưng lúc đầu cũng không ai chịu dùng. Sau có vài người dùng, trồng cây lên rất tốt. Lúc bấy giờ thấy kết quả, ai cũng đua nhau dùng” [9; tr.35]. Một cách khác, Bác sử dụng tranh vẽ để chuyển tải những thông điệp mà mình đang muốn làm rõ. Nét bút của Người nhìn chung tối giản nhưng vẫn chuyển tải được những thông điệp chính trị sâu sắc và thời sự.
Tranh cổ động “Việt Nam độc lập” trên báo
Việt Nam độc lập, Cao Bằng, số 21/8/1941 [12] Biếm họa “Vi hành” (Incognito!...) do Nguyễn Ái Quốc vẽ đăng báo Le Paria số 5
ngày 1 – 8 – 1922 [16; tr.12]
Biếm họa “Triển lãm thuộc địa”* do Nguyễn Ái Quốc vẽ, đăng báo Le Paria số 26, tháng 6 – 1924 [16; tr.11]
Biếm họa “Văn minh bề trên” (Civilisation supérieure) do Nguyễn Ái Quốc vẽ, đăng báo Le Paria, tháng 5 – 1922 [16; tr.11]
196
*Theo Họa sĩ Lý Trực Dũng trong công trình Biếm họa Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc có 5 tranh biếm họa đăng trên báo Le Paria, trong đó 2 tranh đã xác định tên là “Vi hành” và “Văn minh bề trên”, còn bức tranh trên báo Le Paria số 26, tháng 6 - 1924, chưa xác định tên, chúng tôi suy đoán có thể tên
“Triển lãm thuộc địa” (thích hợp hơn cả so với tên Hội nghị An-giê (La Confé rence D’Angier), Sự phục thù của Tu-tăng Ca-mông (Represailles de Toutan Kamon) [16].
Kĩ năng nói thể hiện ở nhiều dạng: thông báo, kể chuyện, tường thuật… Cách tuyên bố của Người khi đọc Tuyên ngôn độc lập có thể xem là mẫu mực về dạng “tuyên bố”/ thông báo trong đó nhấn mạnh những thông điệp rất quan trọng khi nói trước quốc dân đồng bào cả nước [xem thêm 19]. Đơn cử một đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Những giá trị vĩnh hằng, thiêng liêng, cao cả được Người dừng và nhấn mạnh từng từ, rất dứt khoát. Đây cũng có thể xem là định hướng cho giáo viên trong việc truyền tải thông điệp, giá trị bài học đến học trò trong bài giảng.
Tóm lại, cách diễn đạt của Người khi nói cũng như khi viết là mẫu mực để sinh viên sư phạm noi theo.
2.3.2. Rèn luyện kĩ năng ứng xử trong những tình huống sư phạm
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê, tình huống l: “sự diễn biến của tình hình, về mặt cần phải đối phó” [3; tr.996]. Sư phạm: “khoa học về giảng dạy và giáo dục trong nhà trường”
[3; tr.876]. Tình huống sư phạm là những tình huống nảy sinh trong quá trình điều khiển hoạt động và quan hệ sư phạm buộc nhà sư phạm phải giải quyết để đưa các hoạt động và các quan hệ đó trở về trạng thái ổn định, phát triển khớp nhịp nhằm hướng tới mục đích, yêu cầu, kế hoạch đã được xác định của một tổ chức” [18; tr.90].
Rèn luyện kĩ năng ứng xử tình huống sư phạm là điều quan trọng và cần thiết. Bởi lẽ người giáo viên hằng ngày, hằng giờ phải giao tiếp, ứng xử với mọi người (giáo viên, học sinh, phụ huynh, cán bộ quản lí (hiệu trưởng, hiệu phó, giáo vụ, quản sinh,…), công nhân viên nhà trường,…).
Trong quá trình quan sát giờ dạy của sinh viên, dự giờ giáo sinh thực tập giảng dạy ở trường phổ thông, tiếp thu, lắng nghe ý kiến đóng góp từ giáo viên phổ thông và của chính kinh nghiệm của chúng tôi những năm dạy học, chúng tôi nhận thấy trong việc ứng xử sư phạm của sinh viên sư phạm, giáo viên trẻ có một số ưu điểm, hạn chế như sau:
Ưu điểm Hạn chế
- Có tinh thần tiếp thu, học hỏi giáo viên:
lắng nghe, nhờ thầy/ cô là giảng viên đảm nhận học phần, giáo viên hướng dẫn thực tập giảng dạy chỉ dẫn thêm, tự tìm hiểu các thông tin liên quan trong các nhóm giáo viên trên Facebook, Zalo.
- Thân tiện, gần gũi với học sinh: lắng nghe, tiếp thu, chia sẽ, trao đổi với học sinh và nhận được sự yêu quý của học sinh.
- Kính trọng, lễ phép với cán bộ, nhân viên cơ sở thực tập.
- Thiếu kĩ năng kiềm chế cảm xúc: trước những góp ý (nhất là hạn chế) từ bạn bè, giáo viên hướng dẫn, bỏ ngang việc thực tập.
- Xử lí tình huống sư phạm chưa khéo léo:
dẫn đến sự không hợp tác của học sinh.
- Một số hạn chế khác như chưa hoàn thành đúng hạn nộp kế hoạch bài dạy, đến lớp chưa đúng giờ, quá gần gũi với học trò (xưng hô hành động, cử chỉ,…), trang phục chưa phù hợp (mặc váy thay vì áo dài theo quy định),…
Theo phong cách Hồ Chí Minh trên phương diện ứng xử, việc xử lí tình huống sư phạm cần chú ý các điểm sau:
• Khiêm tốn, nhã nhặn, lịch thiệp
• Chân tình, nồng hậu, tự nhiên
197
• Linh hoạt, chủ động, biến hóa
• Vui vẻ, hòa nhã, xóa nhòa khoảng cách.
Theo vị trí việc làm mà việc đào tạo giáo viên của khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh hướng tới, bên cạnh việc có thể giảng dạy ở phổ thông, giáo viên còn có thể giảng dạy ở hệ Giáo dục nghề nghiệp – Giáo dục thường xuyên, mà đối tượng giảng dạy ở hệ này được gọi là học viên. Trong thực tế giảng dạy ở hệ này, chúng tôi phải giải quyết khá nhiều tình huống sư phạm. Một số tình huống tiêu biểu có thể kể đến như học viên ngủ trong giờ học, học viên báo mất đồ cá nhân, học viên sử dụng điện thoại cá nhân mà chưa có sự cho phép của giáo viên, học viên nghịch, không cho bạn kế bên học, học viên đánh nhau trong lớp học, học viên sử dụng chất kích thích và ngất trên lớp, phụ huynh “định” đánh học viên nào đó đã đánh con mình, giáo viên bộ môn và học viên xung đột với nhau, giáo viên giận học viên nên bỏ tiết,… Đơn cử ví dụ cụ thể, một nhóm học viên (“nặc danh”) không đồng ý về cách xếp chỗ của giáo viên chủ nhiệm nên đăng tin trên confession của trường (trang Facebook để học sinh trong trường bày tỏ các ý kiến liên quan đến trường học) để “chỉ trích” giáo viên chủ nhiệm của mình nhưng lại vấp phải phản ứng của các bạn khác trong lớp. Trong tình huống này, trước tiên, giáo viên chủ nhiệm nên bình tĩnh, tôn trọng người học dù học viên có thể chưa đúng; sau đó, giáo viên thu thập thông tin về vấn đề này, với thái độ chân thành, nhã nhặn, trong giờ sinh hoạt lớp, phân tích vì sao phải xếp chỗ như thế và yêu cầu các nhóm học viên dừng đả kích nhau trên mạng. Thực tế, tình huống này đã được chúng tôi giải quyết ổn thỏa.
Tất nhiên, mỗi tình huống có những đặc trưng riêng nên cách xử lí cũng khác nhau. Song, trong mọi tình huống, giáo viên nên bình tĩnh, có tinh thần khiêm tốn, chân thành, linh hoạt theo đối tượng, và luôn hòa nhã với học viên. Giáo viên cũng có thể “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, tức là lấy những cái không thay đổi (phải tôn trọng mối quan hệ thầy – trò, coi người học là trung tâm) để ứng xử với những tình huống muôn hình vạn trạng, muôn màu muôn vẻ, và đôi khi phải biết “lùi để tiến”, nhường nhịn, kiềm chế cảm xúc, kiệm lời để giữ lấy cái lớn, cái lâu dài (như không xúc phạm người học trong lúc nóng giận để tình cảm thầy – trò khó lấy lại được về sau, khó có thể tương tác trong quá trình dạy học...). Ngoài ra, giáo viên có thể dựa vào nội quy đã thống nhất đầu năm học để giải quyết, sau đó là quy định về việc xử lí học sinh vi phạm của ngành giáo dục, dựa vào cán bộ nhà trường (quản sinh, đồng nghiệp) và sự hỗ trợ từ phía gia đình.
Tóm lại, kĩ năng xử lí tình huống sư phạm đã được học trong các học phần chung khác (như Tâm lí học, Giáo dục học) song việc tự bản thân giáo viên tương lai tự tìm hiểu thêm để vận dụng, củng cố trong học phần rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cũng là điều quan trọng và cần thiết.
3. Kết luận
Qua quá trình nghiên cứu việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh, chúng tôi rút ra một số kết luận như sau:
Thứ nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là một lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam mà còn là một nhà giáo mẫu mực. Việc rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh là điều cần thiết.
Thứ hai, trong khuôn khổ tham luận có giới hạn số trang, bài viết mới chỉ đề xuất rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh trên các khía cạnh: định hướng chung (rèn luyện theo phương châm “học đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn”), rèn luyện kĩ năng diễn đạt và rèn luyện kĩ năng ứng xử trong các tình huống sư phạm.
Cuối cùng, vấn đề rèn luyện nghiệp vụ sư phạm theo phong cách Hồ Chí Minh cần và nên được nghiên cứu thêm (nhất là nghiên cứu các tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Đời sống mới,…) để lan tỏa giá trị phong cách Hồ Chí Minh cũng như nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên sư phạm.
198
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Mai, 2015. Hồ Chí Minh – Người thầy mẫu mực, vĩ đại. http://www.thuvien dongnai.gov.vn/nhagiaotbvn/Lists/Posts/Post.aspx?List=b9667888%2D1c77%2D40ff%2D 8bd6%2D48c48ad73416&ID=51
[2] Thư mời hội thảo khoa học quốc gia: “Trường Đại học Sư phạm Hà Nội - 70 năm thực hiện lời căn dặn của Bác đối với ngành giáo dục” của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.1.
[3] Hoàng Phê, 2003. Từ điển Tiếng Việt. Nxb Đà Nẵng.
[4] Ban Tuyên giáo Trung ương, 2016. Những nội dung cơ bản của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Nxb Chính trị quốc gia sư thật Hà Nội.
[5] Nguyễn Thị Côi, Trịnh Đình Tùng, Trần Viết Thụ, Nguyễn Mạnh Hưởng, Đoàn Văn Hưng và Nguyễn Thị Thế Bình, 2009. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm môn Lịch sử. Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
[6] Thông tư 12/2021/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc Ban hành Chương trình và thực hiện bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho người có bằng cử nhân chuyên ngành phù hợp có nguyện vọng trở thành giáo viên trung học cơ sở, trung học phổ thông.
https://hoatieu.vn/thong-tu-12-2021-tt-bgddt-chuong-trinh-boi-duong-nghiep-vu-su-pham- thcs-thpt-207700
[7] Nguyễn Phương Thanh, 2017. Hình thành kĩ năng dạy học cho sinh viên nghành sư phạm lịch sử - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án Tiến sĩ, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
[8] X.Y.Z, 2011. Sửa đổi lối làm việc. Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
[9] Tân Sinh, 2007. Đời sống mới. Nxb Trẻ TP Hồ Chí Minh.
[10] Trần Dân Tiên. Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch. Nxb Nghệ An.
[11] Nguyễn Ái Quốc. 1924. “Cách mạng Nga và các dân tộc thuộc địa”. Báo La Vie Ouvrière, số 20, nǎm 1924. https://tennguoidepnhat.net/2012/09/21/cach-mang-nga-va-cac-dan-toc- thuoc-dia-1924/
[12] Nguyễn Ái Quốc, 2012. Đường Kách mệnh. Nxb Chính trị Quốc gia – Sự thật Hà Nội.
https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/book/sach-chinh-tri/duong- cach-menh-340
[13] Nhiều tác giả, 2009. Toàn văn Di chúc của chủ tịch Hồ Chí Minh, Tái bản lần thứ 14. Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
[14] Nguyễn Ái Quốc, 1924. “Các nước đế quốc chủ nghĩa và Trung Quốc”. Tập san Inprekorr, tiếng Pháp, số 67, ngày 24-9-1924. http://huyendoanumt.org.vn/index.php/vi/thongbao/
Hoc-tap-va-lam-theo-Bac/Ho-Chi-Minh-toan-tap-tap-1-nam-1924-87/
[15] V.H.T, 2015. Minh họa tuyên truyền cổ động độc đáo của báo Việt Nam độc lập.
http://ape.gov.vn/minh-hoa-tuyen-truyen-co-dong-doc-dao-cua-bao-viet-nam-doc-lap- d758.th
[16] Lý Trực Dũng, 2011. Biếm họa Việt Nam. Nxb Mỹ thuật Hà Nội.
[17] Tuyên ngôn độc lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
https://www.quangbinh.gov.vn/3cms/tuyen-ngon-doc-lap-nuoc-viet-nam-dan-chu-cong- hoa.htm
[18] Nguyễn Việt Hùng, Hà Thế Truyền. Modul 33. Giải quyết tình huống sư phạm trong công tác chủ nhiệm. File PDF. https://ptdbnguyendinhchieu.hcm.edu.vn/tai-lieu/module-thcs- 33-giai-quyet-tinh-huong-su-pham-trong-cong-tac-chu-nhiem-cm43954-211990.aspx [19] Hà Đỗ, 2019. Bác Hồ Đọc “Tuyên Ngôn Độc Lập” 2/9/1945 Bản Đầy Đủ Nhất.
https://www.youtube.com/watch?v=Hd_r8W19WWI&t=102s
199 ABSTRACT
Practicing pedagogical skills according to Ho Chi Minh's style
Duong Tan Giau and Dao Thi Mong Ngoc Department of History, Ho Chi Minh City University of Education (HCMUE) On the basis of presenting the concept of Ho Chi Minh style, summarize Ho Chi Minh's style in the following aspects: thinking, working, leading, expressing, behaving, and living, generalizing legal issues basic theories of pedagogical training such as the concept of pedagogical training, the pedagogical training process and the classification of some pedagogical skills, the article proposes measures to train pedagogical skills according to the Ho Chi Minh style in teacher training in pedagogical schools today. The main content of the article presents three methods of training pedagogical skills, from generalization such as pedagogical training under the motto “Learning goes hand in hand with practice, theory with reality” to specific measures such as practicing speaking and writing skills, and practicing behavioral skills in pedagogical situations. To clarify the proposed measures, the article analyzes some examples.
Keywords: pedagogical profession, training, Ho Chi Minh style.