• Tidak ada hasil yang ditemukan

chính sách tài chính phát triền kinh té số tại việt nam

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "chính sách tài chính phát triền kinh té số tại việt nam"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH PHÁT TRIỀN KINH SỐ TẠI VIỆT NAM

PhạmTiến Đạt*

* Thạc sĩ, Viện Chiến lược và Chính sách tài chính

** Thạc sĩ, Trường Đại học Kinh tế quốc dân

Nguyễn Văn Nghĩa**

Ngày nhận bài: 25/11/2021 Ngày nhận bài sửa: 05/01/2022 Ngày duyệt đăng: 06/03/2022

Tóm tắt: Sự phát triển mạnh mẽ của kỉnh tế số (KTS) thời gian qua đã đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Năm 2020, KTS Việt Nam chiếm 5,2% GDP và đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực Đông Nam A, đồng thời tạo ra các chuyển biến tích cực đoi với mọi mặt đời sổng kỉnh tê - xã hội. Hệ thông chính sách tài chính (CSTC) cho phát triên KTS đã bước đâu được xây dựng, góp phần thúc đẩy các doanh nghiệp cũng như kiểm soát các hoạt động có liên quan. Tuy nhiên, CSTC cho phát triển KTS tại Việt Nam còn một sổ bất cập như mức chỉ ngân sách cho cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin (CNTT) còn thấp, các chính sách ưu đãi thuế, tin dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT và kiếm soát thuế thương mại điện tử còn nhiều bất cập. Để đạt được các mục tiêu phát triển KTS, thời gian tới Việt Nam cần tập trung vào một số các giải pháp mang tính thống nhất, đồng bộ.

Từkhoá: Chính sách tài chính, kinh tế số, Việt Nam

DIGITAL ECONOMIC DEVELOPMENTFINANCIAL POLICY INVIETNAM Abstract: The strong development of the digital economy over the past time has made a positive contribution to the development of the country. In 2020, Vietnamese architects will account for 5.2% of GDP and achieve the highest growth rate in Southeast Asia, and at the same time create positive changes in all aspects of socio-economic life. The financial policy system (CSTC) for the development of architects has been initially built, contributing to promoting businesses as well as controlling related activities. However, the financial policy for the development of architects in Vietnam still has some shortcomings such as the low level of budget spending on information technology (IT) infrastructure, tax and credit incentives for businesses, operating in the field ofIT and controlling e-commerce taxes still have many shortcomings. In order to achieve the goals of architectural development, in the coming time, Vietnam needs to focus on a number of unified and synchronous solutions.

Keywords:Financial policy, digital economy, 1. Tổng quanvề KTSsự phát triểncủa KTS tại Việt Nam

KTS là một phần của nền kinh tế, thuật ngữ này trở lên phổ biến khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 tác động to lớn, mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy vậy, hiện vẫn đang tồn tại nhiều cách tiếp cận khác nhau về KTS. Theo nghĩa rộng, KTS là “một

Vietnam

nền kinh tế vận hành chủ yếu dựa trên công nghệ số”, đặc biệt là các giao dịch điện tử tiến hành thông qua Internet, KTS bao gồm tất cả các lĩnh vực và nền kinh tế (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ; sản xuất, phân phối, lưu thông hàng hóa, giao thông vận tải, logistic, tài chính ngân hàng, ...) mà công nghệ số được áp dụng (Nhóm cộng tác KTS Oxford).

Số25 tháng 3năm2022 21 Tạpchí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(2)

Hiểu theo nghĩa này, bất kỳ lĩnh vực nào áp dụng công nghệ số vào việc quản lý, vận hành đều được xếp vào KTS.

Theo nghĩa hẹp, nền KTS được đo lường bởi

“phần sản lượng kinh tế chỉ bắt nguồn hoặc chủ yếu bắt nguồn từ các công nghệ sổ với mô hình kinh doanh dựa vào hàng hóa hoặc dịch vụ số”ỵ. Theo nghĩa này, KTS bao gồm các hoạt động có mô hình kinh doanh gắn liền trực tiếp với công nghệ số: (i) Thương mại điện tử; các ứng dụng gọi xe công nghệ, các ứng dụng cung cấp dịch vụ du lịch; (ii) Sản xuất và cung ứng các sản phẩm công nghệ số như thiết bị CNTT, dịch vụ viễn thông, truy cập Internet, phát triển phần mềm... (iii) Phát triển các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ số như: nền kinh tế chia sẻ, tài chính tổng hợp, gọi vốn cộng đồng... Trong nghiên cứu này, KTS được tiếp cận theo nghĩa hẹp. Việc tiếp cận theo nghĩa này thực tế phù hợp với việc xác định quy mô, cơ cấu KTS, đồng thời cũng tạo thuận lợi để xây dựng khung phân tích cho việc xây dựng CSTC phát triển KTS.

về đặc điểm, KTS có những đặc điểm khác biệt so với kinh tế truyền thống như: Dữ liệu chính là nguồn tài nguyên giá trị trong nền K.TS; nền KTS hình thành từ sự phát triển các công nghệ số mới; sự tương tác giữa diễn ra nhanh chóng, mạnh mẽ tạo ra những ảnh hưởng tích cực cho cả mạng lưới và nâng cao hiệu quả làm việc. KTS đã và đang thay đổi các nền kinh tế trên toàn cầu, với tốc độ cao ở cả các nước phát triển và các nước đang phát triển. Việc ứng dụng rộng rãi các công nghệ số mang lại lợi ích cho tất cả các đối tượng tham gia, chính phủ, doanh nghiệp và người tiêu dùng. KTS mang lại hiệu quả tích cực khi mà hiệu suất kinh tế đạt được ở mức cao, các ngành công nghiệp có bước chuyển biến đột phá trong mô hình kinh doanh, từ thương mại điện tử, đến phân phối, bán buôn và bán lẻ...

Nền KTS thế giới hiện có trị giá hơn 3.000 tỷ USD và sử dụng xấp xỉ 10% năng lượng điện của toàn thế giới1 2. Khu vực Đông Nam Á được đánh giá là khu vực có tốc độ phát triển KTS

1 Cục Thông tin khoa học và Công nghệ quốc gia, Bộ Khoa học và Công nghệ, (2018), Giải pháp, chính sách phát triển KTS

nhanh nhất thế giới. Bất chấp môi trường kinh tế đầy thách thức, các lĩnh vực KTS của khu vực này tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ, đạt 105 tỷ USD vào năm 2020 và đang trên đà vượt mốc 309 tỷ USD vào năm 2025. Trong đó, thương mại điện tử đã nổi lên như một ngành lớn nhất, tăng 63% đạt 62 tỷ USD vào năm 2020 và dự kiến sẽ tiếp tục quỳ đạo tăng trưởng, đạt 172 tỷ USD vào năm 2025. Mặt khác, du lịch là phân khúc bị ảnh hưởng nhiều nhất, giảm từ 58% còn 14 tỷ USD, tuy nhiên lĩnh vực này dự kiến sẽ tăng trở lại 60 tỷ USD vào năm 2025 (Google, Temasek và Bain & Company, Báo cáo KTS Đông Nam Á, 2020).

Việt Nam hiện được đánh giá là một trong những quốc gia có tốc độ phát triển KTS cao nhất trong khu vực ASEAN. Theo báo cáo về KTS khu vực Đông Nam Á được Google, Temasek và Bain & Company công bố tháng 11/2020, KTS Việt Nam năm 2020 trị giá 14 tỷ USD (chiếm 5,2% GDP), tăng 16% so với năm 2019 (mức tăng cao nhất trong khu vực). Dự báo KTS Việt Nam sẽ chạm mốc 52 tỷ USD vào năm 2025 (tăng hơn so với dự báo trước đó là 43 tỷ USD). Các lĩnh vực thương mại điện tử, phương tiện truyền thông trực tuyến, vận tải và thực phẩm đều đạt mức tăng trưởng mạnh từ 18 - 50%, chỉ có lĩnh vực du lịch trực tuyến do ảnh hưởng bởi các quy định về hạn chế đi lại, tiếp xúc nên ghi nhận mức giảm trong năm qua. Hiện KTS Việt Nam có giá trị đứng thứ 3 trong khu vực, đứng sau Indonesia (44 tỷ USD), Thái Lan (18 tỷ USD).

về đầu tư, giá trị đầu tư vào KTS của Việt Nam tăng nhanh, từ mức 156 triệu USD vào năm 2016 đã tăng lên mức 935 triệu USD vào năm 2019 (tức tăng gấp 6 lần sau 3 năm). Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề bời đại dịch Covid- 19 nhưng trong 6 tháng đầu năm 2020, đầu tư vào KTS của Việt Nam vẫn đạt 327 triệu USD bằng 40% so với mức của năm 2019. Mức tăng mạnh trên phản ánh sự quan tâm và đầu tư lớn của Việt Nam vào lĩnh vực này. Năm 2019, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về thu hút vốn vào KTS (sau Singapore với 7,1 tỷ USD và Indonesia với 3,2 tỷ USD).

2 https: //www. moha. gov. vn/ danh-muc/quan-ly-nha- nuoc-trong-nen-kinh-te-so-41241 .html

SỐ 25tháng 3năm 2022 22 Tạp chí Tài chính - Quảntrị kinh doanh

(3)

Biểu đồ 1: Giá trị KTSViệt Nam các lĩnh vựcchính

GMV cùa nén kinh tế Internet (tỳ đỏ la Mỹ)

GMV (tỳ đỏ la Mỹ) mỏi ngành

25%

Du lỊchtrực tuyên

2015 201? 2020 2025

Phuong tiện truyền thòng

(Google, Temasek và Bain & Company, Bảo cáo KTS Đông Nam Á, 2020)

Phát triển KTS gắn với thúc đẩy các hoạt động thương mại điện tử, các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các sản phẩm số hóa, các hoạt động kinh tế dựa trên nền tảng công nghệ số. Lĩnh vực CNTT và truyền thông (ICM) được coi là nền tảng, là hạt nhân của quá trình chuyển đổi số nền kinh tế. Phát triển KTS cần dựa trên nền tảng phát triển: (i) hạ tầng CNTT (mức độ phủ sóng, tốc độ và khả năng truy cập mạng internet; mức độ trang bị của người dân và doanh nghiệp đối với các thiết bị); (ii) hạ tầng kinh tế - xã hội (hệ thống pháp luật liên quan; sự sẵn sàng của người dân và doanh nghiệp với việc sử dụng các thiết bị; sự đa dạng hóa các hàng hóa - dịch vụ phù hợp với nền tảng số; sự hỗ trợ hiệu quả của các dịch vụ thanh toán, dịch vụ logistics, truyền thông, quảng cáo...). Việc này đòi hỏi việc ban hành và thực thi nhiều chính sách có liên quan3, trong đó có CSTC.

3 Tại Việt Nam, hiện đã ban hành 9 Luật liên quan trực tiếp đến phát triển KTS như: Luật CNTT (2006), Luật Viễn thông (2009), Luật Tần số vô tuyến (2009), Luật chuyển giao công nghệ (2018), Luật an ninh mạng (2018)..., bên cạnh đó là nhiều Nghị quyết, Quyết định của Chính phủ và các Chiến lược, kế hoạch tổng thể và sáng kiến phát triển các điều kiện tiền đề

2. CSTC pháttriển KTS

CSTC là một trong những chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng được Chính phủ xây dựng, triển khai nhằm đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tế, khái niệm CSTC hiện đang được hiểu với nhiều cách khác nhau, tuỳ vào mục tiêu nghiên cứu, nhất là dưới góc độ phạm vi.

CSTC có thể được hiểu theo nghĩa rộng hay nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, CSTC là toàn bộ các chính sách liên quan đến việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ quốc gia phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội. Theo nghĩa này, CSTC bao gồm chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ. Theo nghĩa hẹp thì CSTC chỉ bao gồm những chính sách thuộc phạm vi điều hành của Bộ Tài chính với ba nội dung chủ yếu, đó là: chính sách thu ngân sách nhà nước (NSNN), chính sách chi NSNN và CSTC khác.

cho KTS ở Việt Nam, với ttọng tâm tập trung vào hỗ trợ phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng trọng yếu, phát triển ngành CNTT và truyền thông, đẩy mạnh thương mại điện tử, ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất lao động.

SỐ 25 tháng 3 năm2022 23 Tạpchí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(4)

Trong nghiên cứu này, CSTCphát triển KTS được hiếu là một bộ phận của CSTC quốc gia, bao gồm tống thế các quan điểm, chủ trương, mục tiêu và giải pháp của Nhà nước nhằm huy động, quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực tài chính đảm bảo mục tiêu phát triển KTS phù hợp với yêu cầu của đất nước trong từng giai đoạn, thời kỳ nhất định.

CSTC phát triển K.TS có các đặc trưng cơ bản: (i) Đây là các giải pháp hành động mang tính can thiệp, định hướng, khuyến khích, kiểm soát của Nhà nước liên quan đến thu hút đầu tư, nghiên cứu, ứng dụng và phát triển các hoạt động liên quan đến lĩnh vực KTS, chính sách này được Nhà nước nghiên cứu kỹ lưỡng trước khi áp dụng vào thực tiễn. Các chính sách được biểu hiện qua các văn bản pháp luật được ban hành; (ii) Chính sách này tác động đến nhiều đối tượng liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến KTS như: Nhà nước (thông qua việc tăng, giảm trong thu, chi NSNN); tổ chức nghiên cứu, phát triển lĩnh vực CNTT (thông qua các ưu đãi về thuế, tín dụng cũng như những khoản chi hồ trợ trực tiếp); doanh nghiệp, cá nhân thực hiện hoạt động kinh doanh trên nền tảng số (thông qua các ưu đãi tài chính, các biện pháp quản lý thuế của Nhà nước); người lao động (thông qua việc thay đổi tiền lương, tiền công, hiệu quả công việc);

xã hội (thông qua việc làm, các tiện ích mà phát triển KTS mang lại); (iii) Các chính sách này được ban hành và thực thi ở các cấp độ khác nhau: bao gồm các chính sách ở cấp trung ương, địa phương, của các ngành, lĩnh vực cụ thể.

Nội dung của CSTC phát triển KTS bao gồm:

- Chính sách chi ngân sách nhà nước. Thể hiện quan điểm của Nhà nước về việc chi tiêu cho KTS. Điều này xuất phát từ sự đánh giá về vai trò của KTS đối với phát triển kinh tế - xã hội cũng như khả năng huy động nguồn lực tài chính phục vụ cho việc chi tiêu. Chính sách chi cho K.TS được thể hiện thông qua giá trị cũng như cơ cấu của các khoản chi. Các khoản chi này được thực hiện cho việc phát triển hạ tầng

CNTT, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý vận hành, hồ trợ trực tiếp cho các tổ chức, cá nhân liên quan...

- Chính sách thuế. Chính sách này liên quan đến việc đưa ra các hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp đối với các tổ chức, doanh nghiệp đầu tư và hoạt động trong lĩnh vực này như kinh doanh thương mại điện tử, sản xuất và cung cấp các sản phẩm, dịch vụ phần mềm CNTT. Nội dung chính sách thuế để phát triển KTS tập trung vào các các chính sách hỗ trợ như miễn, giãn, giảm thuế và khấu trừ thuế cho các đối tượng phải nộp thuế gồm các tổ chức nghiên cứu, doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình... đối với các loại thuế TNDN, thuế GTGT, thuế XNK, thuế TTĐB...

Bên cạnh đó, với việc ra đời một số lĩnh vực hoạt động động gắn với K.TS, chính sách thuế còn bao gồm các quy định mới về quản lý thuế như thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, truyền thông trực tuyến, các hoạt động của mô hình kinh tế chia sẻ...

- Chính sách tín dụng. Chính sách này tập trung vào việc ưu đãi lãi suất, điều kiện, thủ tục vay nhằm giảm chi phí đầu vào, thúc đẩy hoạt động của các tổ chức, doanh nghiệp. Các chính sách này từng bước hướng tới việc xây dựng danh mục các dự án, lĩnh vực KTS được nhận ưu đãi tín dụng. Các hình thức hồ trợ của chính sách tín dụng thường bao gồm: (i) Bảo lãnh tín dụng, tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu; (ii) Cho vay phát triển, tạo điều kiện để các đối tượng được tiếp cận vốn vay, phát triển, mở rộng sản xuất.

3. Thực trạng CSTC phát triển KTS ViệtNam

Phát triển KTS là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn hiện nay.

Ngày 03/6/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định số 749/QĐ-TTg Phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, theo đó mục tiêu đến năm 2025, KTS chiếm 20% GDP và chiếm 30% GDP vào năm 2030.

Số25 tháng 3 năm 2022 24 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(5)

Bảng 1: Mục tiêu phát triển KTS của Việt Nam đến năm2030

Năm

Chiếm GDP

(%)

Tỷ trọngKTS trong từng ngành, lĩnh vực (%)

Năng suất lao động hàng năm tăng tối thiểu

(%)

Mục tiêu về công nghệ

thông tin

Mục tiêu về chỉ số cạnh tranh (GCI)

Mục tiêu về đổi mói sáng

tạo (GII)

Đến năm

2025 20 10 7 Nhóm 50 nước

dẫn đầu

Nhóm 50 nước dẫn đầu

Nhóm 35 nước dẫn đầu Đến năm

2030 30 20 8 Nhóm 30 nước

dẫn đầu

Nhóm 30 nước dẫn đầu

Nhóm 30 nước dẫn đầu (Nguôn: Quyêt định sô 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020)

thông, hỗ trợ nghiên cứu phát triển và đổi mới Ở góc độ CSTC, phát triển KTS đã có một số

văn bản pháp lý liên quan như: (i) Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 1/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế;

(ii) Quyết định 392/QĐ-TTg ngày 27/3/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu phát triển ngành công nghiệp CNTT đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025;

(ii) Nghị quyết số 41/NQ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ về chính sách ưu đãi thuế thúc đẩy việc phát triển và ứng dụng CNTT tại Việt Nam, nhằm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp CNTT và đẩy mạnh thu hút đầu tư phát triển CNTT trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng mở rộng; (iv) Nghị định 1154/2013/ND-CP ngày 08/11/2013 của Chinh phủ quy định về khu CNTT tập trung; (vi) Nghị định 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 quy định về doanh nghiệp KH&CN; Thông tư 96/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp; (vii) Thông tư 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế TNDN đối với doanh nghiệp KH&CN được quy định tại Nghị định 13/2019/NĐ-CP; (viii) Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định về việc thu, nộp thuế đối với hoạt động TMĐT. Bên cạnh đó là hệ thống các ưu đãi về thuế được thể hiện trong các văn bản pháp luật về thuế có liên quan như Luật thuế thu nhập doanh nghiệp, Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu.

Nhìn chung, khung khổ CSTC phát triển KTS đã bước đầu được tạo lập và phát huy hiệu quả; tháo gỡ từng bước những khó khăn trong thúc đẩy phát triển hạ tầng CNTT và truyền

sáng tạo cũng như đây mạnh ứng dụng, nghiên cứu, phát triển và chuyển giao các công nghệ cốt lõi của cách mạng công nghiệp 4.0 tạo tiền đề phát triển KTS. Một số các chính sách cụ thể như:

về chính sách chi NSNN. Hiện nay NSNN chi cho lĩnh vực CNTT được thực hiện cho việc phát triển hạ tầng CNTT, chi phát triển các mạng internet nhất là các kết mạng tốc độ cao như 4G, 5G; chi cho đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý vận hành; hỗ trợ trực tiếp cho các tổ chức, cá nhân liên quan... Việc phân bổ ngân sách cho CNTT có ảnh hưởng lớn đến mục tiêu phát triển KTS, hay hoàn thiện Chính phủ điện tử. Thời gian qua, với việc quan tâm đến phát triển lĩnh vực CNTT, Nhà nước đã chú trọng đến hoạt động tăng chi tiêu cho hoạt động này.

Hàng năm Nhà nước vẫn thực hiện chi cho phát triển hệ thống CNTT ở các cấp trung ương và địa phương, đặc biệt các khoản chi gắn với việc phát triển Chính phủ điện tử.

Tuy nhiên, hiện nay mức chi ngân sách cho lĩnh vực CNTT còn hạn chế, chỉ khoảng 0,3 - 0,4% GDP. Trong khi trung bình các nước trong khu vực ASEAN là 1,3 - 1,5%, đối với các nước phát triển, mức chi còn lớn hơn (trong khoảng 2 - 2,5%). Đồng thời, hiện nay trong khoản mục chi của NSNN chưa có khoản mục

“chi cho CNTT” trong Luật NSNN, các khoản chi cho hoạt động này được nằm rải rác trong các khoản mục chi khác. Điều này gây khó khăn cho công tác lập kế hoạch phát triển tổng thể cũng như các hoạt động triển khai vào thực tế.

về chỉnh sách ưu đãi thuế. Nhiều ưu đãi thuế với các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực

Số25 tháng3 năm 2022 25 Tạp chí Tài chính - Quăn trị kinh doanh

(6)

CNTT được ban hành, tập trung vào các ưu đãi thuế TNDN, thuế xuất khẩu, thuế GTGT. Theo đó, các doanh nghiệp được áp dụng mức thuế suất thuế TNDN 10% trong thời hạn 15 năm, miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp theo đối với thu nhập doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới tại khu công nghệ thông tin tập trung. Đối với doanh nghiệp thành lập mới từ dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin có quy mô lớn cần đặc biệt thu hút đầu tư, thì thời gian áp dụng thuế suất ưu đãi có thể kéo dài nhưng tổng thời gian áp dụng thuế suất 10% không quá 30 năm4.

4 Điều 22, Nghị định 154/2013/NĐ-CP; khoản 1, Điều 19, Thông tư 78/2014/TT-BTC được sửa đổi, bổ sung bời khoản 1, Điều 11, Thông tư 96/2015/TT-BTC;

Khoản 1, Điều 3, Thông tư 03/2021/TT-BTC

Các doanh nghiệp còn được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu đe tạo tài sản cố định và phục vụ sản xuất sản phẩm, dịch vụ CNTT của doanh nghiệp5. Ngoài ra, các doanh nghiệp nêu trên được miễn thuế GTGT khi cung cấp các hàng hóa dịch vụ ra thị trường.

Với việc ban hành các chính sách ưu đãi thuế đã góp phần hồ trợ các doanh nghiệp giảm chi phí, tăng lợi nhuận và tăng cường khả năng tái đầu tư trở lại, mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh. Tuy nhiên, với việc chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp thực hiện các dự án mới, trong các khu CNTT tập trung làm hạn chế khả năng tiếp cận ưu đãi đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và không nằm trong khu vực tập trung.

Thuế đối với hoạt động thương mại điện tử. Luật Quản lỵ thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 đã bổ sung hoạt động thương mại điện tử và quy định rõ hon về trách nhiệm của các bộ, ngành liên quan nhằm thực hiện quản lý thuế hoạt động thương mại điện tử. Điều 15 Luật quản lý thuế quy định chi tiết về trách nhiệm phối hợp của các bộ, ngành trong quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.

Luật Quản lý thuế năm 2019 quy định, hoạt động thương mại điện tử cũng phải áp dụng hóa đơn điện tử khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ.

Các nội dung như: đăng ký thuế; khai, nộp thuế;

quản lý thông tin người nộp thuế; kiểm tra,

thanh tra người nộp thuế và xử lý nợ thuế cũng đã được ban hành cụ thể.

Tuy nhiên, việc áp dụng Luật này vào thực tế còn gặp phải một số khó khăn, như thiếu cơ chế giám sát các cá nhân, doanh nghiệp đặc biệt các loại hình bán hàng qua mạng, quảng cáo trực tuyến thông qua Google, Facebook, Zalo...; một số hoạt động thương mại điện tử chưa có trong danh mục ngành nghề kinh doanh điều chỉnh hoặc khó xác định tính chất ngành nghề kinh doanh; vấn đề xác định doanh thu, thu nhập của các đối tượng kinh doanh thương mại điện tử còn phức tạp và khó khăn...

về chính sách ưu đãi tín dụng. Hiện các doanh nghiệp được hưởng các ưu đãi về tín dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, Quỹ phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật. Theo đó, các doanh nghiệp nếu có tài sản thế chấp được ưu đãi vay với lãi suất ưu đãi hoặc hồ trợ lãi suất vay tối đa 50% lãi suất vay vốn tại ngân hàng thương mại thực hiện cho vay. Đối với các dự án phát triển sản phẩm khả thi được các quỹ trên cho vay với lãi suất ưu đãi hoặc bảo lãnh để vay vốn tại các ngân hàng thương mại6.

Tuy nhiên, để nhận các ưu đãi này, các doanh nghiệp cần phải đảm bảo các yêu cầu nhất định. Đối với ưu đãi tín dụng từ các Quỳ phát trien KH&CN quốc gia, các doanh nghiệp phải đảm bảo doanh thu của sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công nghệ đạt tỷ lệ tối thiểu 30% trên tổng doanh thu của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay Quỹ phát triển KJH&CN quốc gia hiện đã tạm dừng cấp vay vốn cho các doanh nghiệp để tập trung vào hồ trợ hoạt động hỗ trợ nghiên cứu, trong khi Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia tạm dừng xét duyệt hồ sơ tài trợ từ năm 2018 cũng gây khó khăn cho các doanh nghiệp này trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ưu đãi.

5 Khoản 3, Điệu 22, Nghị định 154/2013/NĐ-CP 6 Khoản 4, Điều 12, Nghị định 13/2019/NĐ-CP

SỐ 25 tháng 3năm 2022 26 Tạp chí Tài chính - Quảntrị kinh doanh

(7)

Như vậy, CSTC phát triển K.TS vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần khắc phục để đảm bảo phát triển KTS phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế: chưa có quy hoạch chiến lược cho phát triển lĩnh vực CNTT, chưa có khoản mục

“chi cho CNTT” trong Luật NSNN; đầu tư từ NSNN cho CNTT còn hạn chế; các ưu đãi về thuế, tín dụng cho lĩnh vực CNTT còn bất cập;

việc quản lý thuế đổi với hoạt động thương mại điện tử mới chỉ là bước đầu đưa vào áp dụng và còn nhiều điếm cần bổ sung...

4. Khuyến nghị chính sách choViệt Nam Việt Nam có nhiều tiềm năng để phát triển K.TS với những lợi thế bởi mức độ phổ biến của internet, tỷ lệ người dùng điện thoại thông minh cao, hệ thống chính sách pháp luật được dần hoàn thiện, đặc biệt là Chính phủ số đang được triển khai xây dựng mạnh mẽ. Điều quan trọng trong thời gian tới là cần điều chỉnh, hoàn thiện các CSTC phù họp với mục tiêu và bối cảnh mới. Cụ thể:

[1] Xây dựng và công bố quy hoạch phát triển ngành CNTT làm cơ sở trao đổi thông tin giữa các cơ quan, đơn vị, qua đó tạo sự liên kết, đồng bộ trong quá trình đầu tư và phát triển hạ tầng dựa vào ứng dụng CNTT. Việc xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển ngành CNTT cần đồng bộ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước, đồng thời phù hợp với sự phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng phát triển công nghệ của thế giới.

[2] Với việc coi trọng lĩnh vực CNTT và truyền thông, Nhà nước cần tăng chi cho lĩnh vực này tương xứng với vị trí, vai trò của nó.

Theo đó, NSNN sẽ tập trung chi cho việc phát triển hạ tầng CNTT như: nghiên cứu cơ bản, nâng cao mức độ phổ cập Internet của người dân, tăng cường đào tạo, nâng cao trình độ tin học người dân, doanh nghiệp. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư để đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực CNTT. Chương trình đào tạo nhân lực CNTT cần hướng đến đẩy nhanh xã hội hóa giáo dục CNTT, đặc biệt là cập nhật giáo trình đào tạo CNTT gắn với các xu thế công nghệ mới như internet kết nối vạn vật, trí tuệ nhân tạo (AI), công nghệ robot, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên tiếp cận lĩnh vực này càng sớm

càng tổt, đẩy mạnh liên kết đào tạo và thực hành giữa các trường và khu vực doanh nghiệp trong ứng dụng CNTT.

Trong khi đó, cần có các giải pháp thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư mạnh hơn vào lĩnh vực ứng dụng, triển khai (mở rộng đầu tư, thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm như phần mềm, các sản phấm ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại...) thông qua các ưu đãi thuế, tín dụng. Tiến tới mục tiêu chi cho CNTT chiếm khoảng 1% GDP. Tuy mức chi này vẫn thấp hơn bình quân trong khu vực, nhưng cao hơn gấp hơn 2 lần so với giai đoạn vừa qua. Đây là mức chi phù họp, nhất là trong bối cảnh chi NSNN bị giới hạn do bội chi ở mức cao, trong khi nguồn lực từ khu vực tư nhân đầu tư vào lĩnh vực này vẫn còn hạn chế.

Nội dung đầu tư tập trung vào những công nghệ mới, phù họp với xu thế phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0. Đặc biệt chú trọng vào hoàn thiện cơ sở hạ tầng, trang thiết bị triển khai dịch vụ 5 G để có thể theo kịp xu hướng thế giới. Công nghệ 5G sẽ tạo cơ sở hạ tầng tốt cho việc kết nối theo xu hướng internet kết nối vạn vật, mở ra nhiều cơ hội kinh doanh rất lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam.

[3] Nghiên cứu ban hành, sửa đổi các quy định về thuế, tín dụng thúc đẩy phát triển KTS.

Thời gian tới cần mở rộng đối tượng được nhận ưu đãi thuế, tín dụng cũng như nghiên cứu nâng cao mức ưu đãi cho các đối tượng. Đồng thời nghiên cứu hoàn thiện các quy định về quản lý thuế đối với thương mại điện tử, ứng dụng gọi xe công nghệ, các hoạt động kinh tế chia sẻ...

Hiện nay, việc áp dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại, hoạt động của các doanh nghiệp CNTT không bị giới hạn bởi phạm vi không gian (trong các khu công nghiệp hay các khu CNTT tập trung). Do vậy, nên quy định theo hướng đối tượng nhận ưu đãi là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực CNTT, không bị bó hẹp bởi yêu cầu về không gian.

Đồng thời, nghiên cứu việc phân chia mức độ ưu đãi cho từng đối tượng (tương ứng với vai trò trong chiến lược phát trien K.TS đã được xây dựng). Nghiên cứu giảm thiểu các thủ tục hành chính, quy trình xem xét, phê duyệt ưu đãi thuế, tín dụng đối với các doanh nghiệp.

Số 25 tháng 3 năm2022 27 Tạp chí Tài chính - Quản trị kinh doanh

(8)

Việc quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử, ứng dụng gọi xe công nghệ, các hoạt động kinh tế chia sẻ cần được tiếp tục nghiên cứu bổ sung các quy định theo hướng hoàn thiện khung pháp lý về quản lý các hoạt động này, đặc biệt là các quy định về quản lý thuế đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài có hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam.

Nghiên cứu phát triển hệ thống thu thập, xử lý thông tin liên quan đến các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động thương mại điện tử; nghiên cứu, thành lập đơn vị chuyên trách đế quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử.

Nghiên cứu, xem xét việc thu thuế GTGT đối với các tổ chức, cá nhân nước ngoài dựa trên giá trị giao dịch. Đồng thời, tăng cường vai trò của các ngân hàng thương mại trong việc khấu trừ nghĩa vụ thuế tại nguồn đối với các giao dịch thương mại điện tử mà các tổ chức, cá nhân có tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại.

Tóm lại, KTS sẽ là xu thế tất yếu của thế giới trong thời gian tới, điều này phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới nhất là trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đang làm thay đổi toàn bộ cách thức kinh doanh cũng như quản lý kinh tế. Để đạt được mục tiêu KTS chiếm 30% GDP vào năm 2030, các CSTC được đưa ra cần tập trung vào việc thúc đẩy đổi mới, tăng cường nâng cấp cơ sở hạ tầng CNTT và truyền thông. Nghiên cứu ban hành thêm các ưu đãi về tài chính, tín dụng theo hướng mở rộng, tập trung vào các doanh nghiệp có tiềm năng lớn, sức lan toả cao, đồng thời đơn giản thủ tục hành chính, tạo khả năng dễ dàng tiếp cận cho các đối tượng thụ hưởng. Bên cạnh đó, cần nhanh chóng hoàn thiện hệ thống thuế đối với các hoạt động kinh doanh mới như thương mại điện tử, kinh tế chia sẻ... để tránh thất thoát thuế và tạo nguồn lực đầu tư phát triển các bộ phận cấu thành của KTS.

Tài liệu thamkhảo

1. Nghị định 154/2013/NĐ-CP ngày 08/11/2013 của Chính phủ quy định về khu CNTT tập trung;

2. Nghị định 13/2019/NĐ-CP ngày 01/02/2019 quy định về doanh nghiệp KH&CN;

3. Thông tư 96/2015/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 78/2014/TT-BTC hướng dẫn về thuế thu nhập doanh nghiệp;

4. Thông tư 03/2021/TT-BTC ngày 11/01/2021 hướng dẫn về miễn thuế, giảm thuế TNDN đối với doanh nghiệp KH&CN được quy định tại Nghị định 13/2019/NĐ-CP; 5. Luật Quản lý thuế năm 2019;

6. Quyết định số 749/QD-TTg ngàỵ 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ Phê duyệt Chương trinh chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030;

7. Cục Thương mại điện tử và Kinh tế số, Bộ Công thương (2020), Sách trắng Thương mại điện tử Việt Nam 2020;

8. Vũ Thị Liên, Phạm Thị Chanh (2020), Phát triển KTS: Kinh nghiệm từ Singapore, Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam, Tạp chí Chứng khoán;

9. Lê Thị Thuỳ Vân (2020), Giao dịch thương mại điện tử: Xu hướng phát triển, các giải pháp tránh thất thu thuế ở các nước và hàm ý cho Việt Nam;

10. Tổ chức khoa học quốc gia Australia kết hợp với Bộ KH&CN Việt Nam (2019), Báo cáo tương lai kinh tế số Việt Nam hướng tới năm 2030 và 2045;

11. Google, Temasek và Bain & Company (2020), Báo cáo KTS Đông Nam Á 2020;

12. UNCTAD (2019), Digital economy report 2019: Value creation and capture: Implications for developing countries Investment and technology.

So 25 tháng 3năm 2022 28 Tạp chí Tài chính -Quản trị kỉnh doanh

Referensi

Dokumen terkait

Thứ ba, hỗ trợ về vốn thông qua chính sách ưu đãi tín dụng: 1 Thành lập các quỹ hỗ trợ cho giai đoạn đầu khởi nghiệp như Quỹ Sáng kiến giai đoạn đầu dành riêng cho DNKN; 2 Thành lập Quỹ

ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thị trường bất động sản ở Việt Nam trong thời gian qua, ngoài những bất động sản truyền thống được pháp luật ghi nhận và điều chỉnh, hàng loạt các loại hình bất động

Quá trình cải cách chính sách tài chính được thực hiện và triển khai mạnh mẽ ở tất cả các lĩnh vực như: Thu - chi ngân sách nhà nước CẢI CÁCH CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH THÚC ĐẨY CƠ CẤU LẠI

Cụ thể như Chính phủ Anh đã xây dựng cơ chế tài trợ trực tiếp cho các dự án đầu tư xanh, thực hiện bảo lãnh của Chính phủ cho các dự án cơ sở hạ tầng xanh cũng như tham gia tài trợ cho

Còn nếu tiếp cận theo nội dung, chính sách quản lý nhà nước đối với mô hình này gồm nhiều khía cạnh khác nhau như ban hành, tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật; xây dựng chiến

Việc trả nợ các khoản vay của Chính phủ được tổ chức thực hiện chặt chẽ và đảm bảo đúng hạn, bao gồm cả nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ và nghĩa vụ nợ cho vay lại, không để xảy ra

Nghiên cứu của chúng tôi báo cáo 1 trường hợp gia đình thực hiện kĩ thuật PGT-M với sự kết hợp của phương pháp trực tiếp và gián tiếp; qua đó phát hiện được hiện tượng ADO khiến chẩn

Oudheusden, p.lại cho rằng, TCTD là việc cung cấp các dịch vụ tài chính phù hợp và thuận tiện cho mọi thành viênxã hội với mức chi phí hợp lý, thông qua những cách thức thuận tiện, phù