• Tidak ada hasil yang ditemukan

SO SÁNH KẾT QUẢ PHÔI HỌC CỦA KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH NOÃN NON CAPA-IVM CHO CÁC NOÃN THU ĐƯỢC TỪ NANG <6 MM VÀ ≥6 MM

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "SO SÁNH KẾT QUẢ PHÔI HỌC CỦA KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH NOÃN NON CAPA-IVM CHO CÁC NOÃN THU ĐƯỢC TỪ NANG <6 MM VÀ ≥6 MM"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

SO SÁNH KẾT QUẢ PHÔI HỌC

CỦA KỸ THUẬT TRƯỞNG THÀNH NOÃN NON CAPA-IVM CHO CÁC NOÃN THU ĐƯỢC TỪ NANG <6 MM VÀ ≥6 MM

Lê Hoàng Anh1, Phạm Hoàng Huy1, Phan Thị Kim Anh1, Đặng Quang Vinh1, Vương Thị Ngọc Lan2

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Đối với kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm cổ điển, kích thước nang noãn có vai trò quan trọng trong khả năng trưởng thành của noãn. Tuy nhiên, chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát khả năng trưởng thành và kết quả phôi của noãn non thu nhận từ các kích thước nang khác nhau của trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM).

Mục tiêu: So sánh kết quả phôi học của kỹ thuật nuôi cấy IVM hai bước mới (được gọi là CAPA-IVM) cho các noãn thu đươc từ nang <6 mm và ≥6 mm.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu trên bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang hoặc kiểu hình buồng trứng đa nang, <38 tuổi, có tối thiểu 25 nang (2-9mm) trên siêu âm và được thực hiện kỹ thuật CAPA-IVM. Tại thời điểm chọc hút noãn, phức hợp noãn-tế bào hạt (COC) thu nhận được được chia vào 2 nhóm phụ thuộc vào kích thước nang (<6 mm và ≥6 mm).

Kết quả: Có 731 COC được khảo sát, trong đó, 578 COC thu được từ nang có kích thước <6 mm và 153 COC từ nang ≥6 mm. Tỷ lệ trưởng thành, thụ tinh, tạo phôi và phôi tốt của noãn ở 2 nhóm lần lượt là 61,1% và 72,5%, p=0,01; 48,8% và 60,8%, p=0,008; 31,7% và 43,1%, p=0,008; 17,6% và 26,8%, p=0,01.

Kết luận: Các noãn thu được từ nang có kích thước 6mm cho kết quả phôi học tốt hơn những noãn đến từ nang có kích thước <6 mm.

Từ khóa: thụ tinh trong ống nghiệm, trưởng thành noãn non, kích thước nang, kết quả phôi học

ABSTRACT

COMPARISON OF THE EMBRYOLOGY OUTCOMES OF CAPA-IVM FOR OOCYTES COLLECTED FROM FOLLICLES OF <6 MM and ≥6 MM

Le Hoang Anh, Pham Hoang Huy, Phan Thi Kim Anh, Dang Quang Vinh, Vuong Thi Ngoc Lan

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 155 - 160 Background: Follicular size has an impact on the capability to mature of the oocytes in the conventional in- vitro fertilization (IVF). However, there is no study investigating the capability to mature and embryology outcomes of the immature oocytes collected from different follicular sizes in the IVM technique.

Objective: To compare the embryology outcomes of immature oocytes collected from follicles of <6 mm and

≥6 mm in CAPA-IVM technique.

Methods: This was a prospective cohort study conducted on patients who were diagnosed with PCOS or PCO, aged <38 years, had a minimum of 25 follicles (size from 2 to 9 mm) on ultrasound and treated with CAPA-IVM. At oocyte collection, the cumulus-oocyte complexes (COC) were distributed to two groups depending on the follicular sizes that they were collected from (<6 mm or ≥6 mm).

Results: The total number of COC collected were 731, in which, 578 were from follicles of <6 mm and 153

1Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, Trung tâm nghiên cứu HOPE, Bệnh viện Mỹ Đức TP. Hồ Chí Minh

(2)

were from follicles of ≥6 mm. The maturation rate of group with follicles of < 6mm and group with follicle of ≥6 mm were 61.1% and 72.5% (p=0.01). Rates of fertilization, embryo and good embryos were significantly lower in group with follicles of < 6mm as compared to group with follicle of ≥6 mm (48.8% versus 60.8%, p=0.008; 31.7%

versus 43.1%, p=0.008; and 17.6% versus 26.8%, p=0.01, respectively).

Conclusion: Follicular size has an impact on the embryology outcomes of immature oocytes in CAPA-IVM.

Oocytes collected from follicles of ≥ 6mm result in better embryology outcomes as compared to follicles of <6 mm.

Key words: in-vitro fertilization, in-vitro maturation, follicular size, embryology outcomes

ĐẶT VẤN ĐỀ

Sinh lý sự phát triển của nang noãn được bắt đầu từ những nang noãn nguyên thuỷ với kích thước 50 µm, phát triển qua các giai đoạn khác nhau, thành nang noãn sơ cấp, nang noãn thứ cấp, rồi thành nang noãn có hốc với kích thước 2-5 mm. Sau đó các nang noãn có hốc bước vào giai đoạn chọc lọc và vượt trội, kết quả là chỉ có 1 nang noãn phát triển đến giai đoạn nang noãn trưởng thành hay còn gọi là nang De Graaf với kích thước 20 mm để phóng noãn(1). Trong thụ tinh ống nghiệm (TTON) cổ điển, khác với sinh lý, bệnh nhân được sử dụng nội tiết để kích thích sự phát triển đa noãn, tăng số lượng noãn thu được, từ đó, tăng số lượng phôi và cơ hội có thai. Mục tiêu của TTON là thu nhận noãn trưởng thành ở giai đoạn trung kỳ giảm phân II. Khả năng noãn trưởng thành có liên quan đến kích thước nang noãn chứa nó. Nang noãn có kích thước từ 16- 22 mm thì mới có thụ thể với LH trên tế bào hạt và có khả năng đáp ứng với đỉnh LH ngoại sinh để khởi động quá trình trưởng thành của noãn bên trong nang(2).

Nuôi trưởng thành noãn non trong ống nghiệm là kỹ thuật thu nhận noãn non từ các nang nhỏ kích thước 2-10 mm mà không cần kích thích buồng trứng. Noãn non sẽ được trưởng thành bên ngoài cơ thể. Để tạo điều kiện cho quá trình trưởng thành noãn bên ngoài cơ thể, bệnh nhân được sử dụng FSH (Follicle Stimulating Hormone, còn gọi là Kích noãn bào tố) trong thời gian ngắn, từ 2 đến 3 ngày(3). Kỹ thuật này có nhiều ưu điểm so với TTON do giảm nguy cơ quá kích buồng trứng, giảm chi phí do kích thích buồng trứng, thuận tiện cho

bệnh nhân do không cần phải theo dõi sự phát triển nang noãn(4,5,6).

Trường hợp trưởng thành noãn trong ống nghiệm (IVM) thành công đầu tiên trên thế giới đã được Cha KY báo cáo vào năm 1991(7), thực hiện trưởng thành noãn non được thu nhận qua nội soi ở một phụ nữ cho noãn. Tại Việt Nam, IVM được bắt đầu thực hiện vào năm 2006(8). Hiện nay, bệnh viện Mỹ Đức, TP. Hồ Chí Minh thực hiện nhiều chu kỳ IVM nhất thế giới, vào khoảng 300 chu kỳ hàng năm. Từ khi IVM được áp dụng thành công đến nay, phác đồ thực hiện IVM đã có nhiều cải tiến, tỉ lệ thành công của IVM tăng rõ rệt(9). Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có nhóm chứng đầu tiên trên thế giới, so sánh kỹ thuật IVM so với TTON, cho thấy tỉ lệ trẻ sinh sống là tương đương sau chuyển phôi lần đầu, tuy nhiên, tỉ lệ trẻ sinh sống cộng dồn của IVM vẫn thấp hơn TTON(6). Nghiên cứu để cải thiện tỉ lệ thành công của IVM là vấn đề cốt lõi để IVM được ứng dụng rộng rãi hơn trong thực hành lâm sàng. Có nhiều nghiên cứu liên quan đến môi trường sử dụng để tăng tỉ lệ trưởng thành noãn, từ đó, tăng số phôi và tỉ lệ có thai(3,10). Bên cạnh đó, chúng tôi cũng quan tâm liệu rằng kích thước của nang chứa noãn có liên quan đến khả năng trưởng thành của noãn bên ngoài cơ thể và tiềm năng phát triển phôi như đối với TTON hay không? Không có nhiều nghiên cứu thực hiện về vấn đề này. Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này với mục tiêu so sánh kết quả phôi học của noãn được thu nhận từ nang <6 mm và ≥6 mm khi thực hiện kỹ thuật CAPA-IVM. Kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở cho chúng tôi cải thiện phác đồ thực hiện IVM, giúp tăng hiệu quả của IVM.

(3)

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Các bệnh nhân được điều trị bằng kỹ thuật CAPA-IVM tại Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, Bệnh viện Mỹ Đức,TP. Hồ Chí Minh từ tháng 05/2017 đến tháng 12/2017.

Tiêu chuẩn chọn mẫu

Bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang PCOS hoặc kiểu hình buồng trứng đa nang, <38 tuổi, có tối thiểu 25 nang (2-9 mm) trên siêu âm và được thực hiện kỹ thuật trưởng thành noãn non CAPA-IVM để điều trị hiếm muộn.

Tiêu chuẩn loại

Xin trứng, có chẩn đoán di truyền phôi.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu đoàn hệ tiến cứu.

Cỡ mẫu và cách chọn mẫu

Chọn mẫu toàn bộ trong thời gian nghiên cứu.

Phương pháp tiến hành

Bệnh nhân được giải thích và ký đồng thuận tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân sẽ tiêm HP- hMG với liều là 150 IU/ngày bắt đầu từ ngày 2 của chu kỳ kinh trong 2-3 ngày. Chọc hút noãn sẽ được tiến hành 42-46 giờ sau khi tiêm mũi HP-hMG cuối cùng.

Tại thời điểm chọc hút noãn, noãn thu nhận được của bệnh nhân được chia vào 2 nhóm phụ thuộc vào kích thước nang tại thời điểm chọc hút (<6 mm và ≥6 mm).

Kỹ thuật trưởng thành noãn được thực hiện theo phương pháp CAPA-IVM. Dịch nang chứa noãn chưa trưởng thành được hòa với môi trường Collect (LifeGlobal, Canada) có bổ sung 10 mg/ml HSA, 50 nM CNP và 20 nM Estradiol.

Noãn thu nhận sau chọc hút sau đó sẽ được nuôi cấy tiền trưởng thành trong dĩa 4 giếng có chứa môi trường CAPA (môi trường Medicult IVM;

Origio, Denmark có bổ sung 1 mIU/mL rFSH, 5

human serum albumin [SAGE, Đan Mạch] và 25 nM CNP [Tocris Bioscience; Abingdon, Anh]) có phủ dầu ở điều kiện 37°C, 6% CO2, 20% O2 trong 24 giờ. Sau đó, các noãn này sau đó được chuyển qua nuôi cấy tiếp trong môi trường nuôi trưởng thành Medicult IVM có chứa 5 ng/ml Insulin, 10 nM E2, 100 ng/ml human recombinant Amphiregulin (rhAREG; Tocris Bioscience) và 100 mIU/ml recombinant FSH trong 30 giờ ở cùng điều kiện như nuôi cấy tiền trưởng thành(3,6,10,11).

Đánh giá trưởng thành noãn và tách noãn được tiến hành sau 30 giờ. Noãn trưởng thành được thụ tinh bằng kỹ thuật tiêm tinh trùng vào bào tương noãn (ICSI). Noãn sau đó sẽ được nuôi trong tủ cấy ở điều kiện 37oC, 5% CO2, 5%O2. Kiểm tra thụ tinh được tiến hành 16-18 giờ sau ICSI. Phôi được nuôi cấy đến ngày 3 trong môi trường (Life Global, Canada). Mỗi giọt môi trường nuôi cấy phôi có thể tích 30µL, chứa từ 2-3 phôi. Vào ngày 3, phôi được đánh giá hình thái và phân loại theo tiêu chuẩn của đồng thuận Istanbul của Hiệp hội các nhà phôi học Alpha(12). Các phôi đủ tiêu chuẩn sẽ được trữ lạnh lại theo phương pháp thủy tinh hoá sử dụng môi trường của Cryotec (Nhật Bản).

Phân tích và xử lý số liệu

Số liệu được xử lý bằng phần mềm R, p <0,05 được xem là sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.

Y đức

Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học bệnh viện Mỹ Đức, số 27/MĐ-HĐĐĐ, ngày 10/8/2017.

KẾT QUẢ

Đặc điểm của bệnh nhân được trình bày trong Bảng 1.

Bảng 1: Đặc điểm nền và đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân

Đặc điểm Tần suất (n=40)

Tuổi, năm 28,53,4

Chỉ số khối cơ thể, kg/m2 21,82,5 Thời gian vô sinh, năm 2,91,5 Nguyên nhân vô sinh, n (%)

(4)

Đặc điểm Tần suất (n=40)

Nguyên phát 24 (60,0)

Thứ phát 16 (40,0)

Số chu kỳ TTON trước đó - n, (%)

1 38 (95,0)

2 2 (5,0)

Chẩn đoán - n, (%)

Hình ảnh BTĐN 4 (10,0)

Hội chứng BTĐN 36 (90,0)

Số ngày KTBT, ngày 2,50,6 Tổng liều FSH sử dụng, IU 378,883,1 Tổng số nang ở lần siêu âm cuối 35,315,4 Độ dày NMTC ngày chọc hút (mm) 6,12,1

Có tổng cộng 40 bệnh nhân thoả tiêu chuẩn nghiên cứu. Tổng số COC thu nhận được từ 40 bệnh nhân này là 731, trong đó, có 578 COC thu được từ nang có kích thước <6 mm (79,1% tổng

số COC) và và 153 COC từ nang ≥6 mm (20,9%

tổng số COC). Kết quả phôi học của noãn thu được từ 2 nhóm được trình bày trong Bảng 2.

Hình thái noãn tại thời điểm chọc hút, sau khi nuôi cấy CAPA và sau khi nuôi trưởng thành được thể hiện ở Hình 1. Tại thời điểm chọc hút, noãn thu nhận được ở trạng thái GV, bao xung quanh là các lớp tế bào cumulus ở trạng thái nén chặt (A). Sau quá trình nuôi cấy tiền trưởng thành, có sự tăng sinh về số lượng lớp tế bào cumulus bao xung quanh noãn, lớp cumulus vẫn ở trạng thái nén chặt (B). Lớp tế bào cumulus chuyển sang trạng thái nở rộng sau quá trình nuôi cấy trưởng thành noãn (c).

Bảng 2: Kết quả phôi học giữa hai nhóm COC có kích thước nang <6 mm và 6 mm

COCs <6 mm (N=578)

COCs ≥6 mm

(N=153) RR (KTC 95%) Giá trị P

Tỷ lệ trưởng thành noãn (MII), % 353 (61,1) 111 (72,5) 1,18 (1,06 - 1,34) 0,01

Tỷ lệ 2PN, % 282 (48,8) 93 (60,8) 1,25 (1,07 - 1,45) 0,008

Tỷ lệ tạo phôi, % 183 (31,7) 66 (43,1) 1,36 (1,10 - 1,69) 0,008

Tỷ lệ phôi tốt, % 102 (17,6) 41 (26,8) 1,52 (1,11 - 2,08) 0,01

A B C

Hình 1. Hình ảnh noãn được thực hiện trưởng thành bằng kỹ thuật CAPA-IVM. A: Noãn thu nhận tại thời điểm chọc hút; B: Noãn sau khi nuôi cấy tiền trưởng thành trong 24 giờ; C: Noãn sau khi nuôi cấy IVM trong

30-32 giờ (Nguồn: Đơn vị Hỗ trợ sinh sản IVFMD, bệnh viện Mỹ Đức)

BÀN LUẬN

Có nhiều nghiên cứu đã khẳng định mối tương quan giữa kích thước nang noãn và kết quả phôi học trong TTON. Từ đó, tiêu chuẩn về kích thước nang để thực hiện khởi động trưởng thành noãn trong kỹ thuật TTON là tối thiểu 17- 18 mm. Nghiên cứu của Abbara A (2018) chỉ ra rằng tỷ lệ nang noãn có kích thước 12-19 mm vào ngày khởi phát trưởng thành noãn càng cao thì số lượng noãn trưởng thành thu nhận càng

nhiều(13). Tuy nhiên đối với IVM, vẫn chưa có nhiều nghiên cứu khảo sát các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng trưởng thành noãn, đặc biệt là yếu tố về kích thước nang noãn vào ngày chọc hút.

Sự trưởng thành noãn bao gồm sự trưởng thành nhân và sự trưởng thành tế bào chất, trong đó sự trưởng thành về tế bào chất đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của phôi sau

này(10,11). Trong phác đồ IVM chỉ sử dụng mồi

FSH, người ta thấy rằng việc chỉ sử dụng mồi

(5)

FSH trong một thời gian ngắn giúp thu nhận được các noãn đồng nhất hơn về chất lượng và thời điểm trưởng thành(4,10). Các khối phức hợp noãn-tế bào hạt (COC) thu nhận được hầu hết đến từ các nang có kích thước 2-10 mm. Ở các bệnh nhân có hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS), phần lớn các nang thu nhận được có kích thước <6 mm (chiếm từ 70-80% tổng số nang) và hầu hết các noãn đến từ các nang này được cho là có tiềm năng trưởng thành kém (<50%)(10,14). Các nghiên cứu trước đó trên động vật có vú đều cho thấy kích thước của nang tại thời điểm chọc hút quyết định đến tiềm năng phát triển tiếp của phôi sau này. Việc thiết kế được môi trường nuôi cấy giúp cải thiện được tỷ lệ trưởng thành cũng như chất lượng phôi của các noãn đến từ nang có kích thước nhỏ sẽ giúp cải thiện được hiệu quả điều trị của IVM vì các nang có kích thước nhỏ chiếm phần lớn các nang noãn trong buồng trứng của bệnh nhân PCOS(10,11).

Có nhiều nghiên cứu trên động vật để đánh giá về mối tương quan của kích thước nang và tiềm năng phát triển của phôi. Những lý do cho khả năng phát triển kém của những noãn có nguồn gốc từ nang <6 mm bao gồm sự trưởng thành tế bào chất và nhân không hoàn chỉnh, có sự tổng hợp không đầy đủ mRNA của mẹ cần cho quá trình nén và biệt hóa phôi ở các giai đoạn tiếp theo, không sản xuất các protein cần thiết cho khả năng trưởng thành trong ống nghiệm cũng như tỷ lệ noãn đi vào con đường thoái hoá cao hơn và tỷ lệ bất thường trong thụ tinh cao hơn so với noãn có nguồn gốc từ nang

≥6 mm. Ngoài ra, các nghiên cứu trước đây đã báo cáo rằng noãn từ các nang nhỏ có sự phân bố hạt vỏ không đều, hệ thống xuất bào bị lỗi và do đó, không có khả năng hỗ trợ sự phát triển của phôi. Một số nghiên cứu về biểu hiện gen của các noãn đến từ nang có kích thước <6 mm và các nang lớn hơn cho thấy có một số gen như H2A, FSHR, GHR, v.v. có liên quan đến tiềm năng phát triển của noãn. Gen H2A của noãn có liên quan đến kích thước của các nang noãn.

Noãn được thu nhận từ các nang có kích thước

<6 mm có mức độ phiên mã H2A thấp. Do đó, khả năng phát triển của noãn đã bị ảnh hưởng và cũng như các giai đoạn phát triển của phôi bị ảnh hưởng(15).

Trên đối tượng người, có rất ít y văn khảo sát về kích thước nang và mối tương quan đến hiệu quả điều trị của IVM. Nghiên cứu của Guzman L (2012) ghi nhận tỷ lệ trưởng thành của noãn sau IVM là 50,8% sau 40 giờ nuôi cấy trưởng thành. Mặc dù nang <6 mm được cho là có tiềm năng phát triển kém, nhưng theo Guzman L, các phôi đến từ các noãn trên vẫn có tỷ lệ thai diễn tiến là 34,6% trong các chu kỳ chuyển phôi trữ lạnh chứng tỏ những noãn này vẫn có tiềm năng phát triển và làm tổ(14).

Trong nghiên cứu này, noãn thu nhận tại thời điểm chọc hút cũng phần lớn đến từ các nang có kích thước <6 mm, giống với các báo cáo khác. Điều này cho thấy nhóm nang noãn <6 mm là đối tượng chính trong các chu kỳ IVM.

Kết quả trưởng thành noãn và tạo phôi của noãn thu được từ nang <6 mm thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với noãn thu từ nang ≥6 mm. Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự với nghiên cứu trước đây chúng tôi thực hiện so sánh 2 kỹ thuật trưởng thành noãn non khác nhau (CAPA- IVM) và IVM tiêu chuẩn(3).

Từ kết quả của nghiên cứu này, chúng tôi nhận thấy kích thước nang có liên quan với khả năng trưởng thành của noãn và tiềm năng phát triển của noãn. Về phía lâm sàng, chúng tôi đề xuất nên xem xét thay đổi phác đồ sử dụng mồi FSH để có nang kích thước lớn hơn 6 mm và nên lấy kích thước nang là tiêu chuẩn xác định thời điểm chọc hút noãn non nhằm thu được những noãn có khả năng hơn. Về phía labo, trong tình huống có noãn thu được từ nang <6 mm, nên xem xét thay đổi phác đồ nuôi cấy noãn non như cân nhắc kéo dài thời gian nuôi cấy trưởng thành và nuôi cấy tiền trưởng thành trong CAPA-IVM nhằm "khả năng hoá" các noãn này.

(6)

Hạn chế của nghiên cứu

Thiết kế quan sát và kết cục chỉ đánh giá đến kết quả phôi học mà chưa đánh giá kết quả chuyển các phôi phát triển từ các noãn thu từ các nang có kích thước khác nhau này vào buồng tử cung, bởi vì, suy cho cùng, kết quả thai kỳ mới là kết cục mong đợi của bệnh nhân khi điều trị IVM. Ngoài ra, nghiên cứu chưa đủ năng lực mẫu để có kết luận chắc chắn về kết quả phôi học vượt trội của nhóm noãn thu được từ nang

>6 mm so với ≤6 mm.

KẾT LUẬN

Kích thước nang có liên quan đến kết quả phôi học trong kỹ thuật trưởng thành noãn non CAPA-IVM. Các noãn thu được từ nang có kích thước 6 mm cho kết quả phôi học tốt hơn những noãn đến từ nang có kích thước <6 mm.

Cần thêm nghiên cứu với thiết kế ngẫu nhiên có nhóm chứng với kết cục là tỉ lệ thai sau chuyển phôi nhằm có kết luận chắc chắn hơn về tác động này.

Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số FWO.106- YS.2017.02

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giang Huỳnh Như (2019). Sự sinh noãn. Hồ Mạnh Tường, Đặng Quang Vinh, Vương Thị Ngọc Lan. Trong Thụ tinh trong ống nghiệm, ấn bản lần thứ 1, pp.27-39. Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Vương Thị Ngọc Lan (2019). Kích thích buồng trứng và các tác động trên kết quả kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Hồ Mạnh Tường, Đặng Quang Vinh, Vương Thị Ngọc Lan. Trong Thụ tinh trong ống nghiệm, ấn bản lần thứ 1, pp.343-372. Nhà xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh.

3. Vuong Thi Ngoc Lan, Le Hoang Anh, Ho Ngoc Anh Vu, et al (2020). Live births after oocyte in vitro maturation with a prematuration step in women with polycystic ovary syndrome.

Journal of Assisted Reproduction and Genetics, 37:347–357.

4. Fadini R, Dal Canto MB, Mignini Renzini M, Brambillasca F, Comi R, Fumagalli D, Lain M, Merola M, Milani R, De Ponti E (2009). Effect of different gonadotrophin priming on IVM of oocytes from women with normal ovaries: a prospective randomized study. Reproductive BioMedicine Online, 19:343–35.

5. Vuong Thi Ngoc Lan, Ho Manh Tuong, Gilchrist RB, Smitz J (2019). The Place of In Vitro Maturation in Assisted Reproductive Technology. Fertility and Reproduction, 1(1):11-15.

6. Vuong Thi Ngoc Lan, Ho Ngoc Anh Vu, Ho Manh Tuong, Dang Quang Vinh, Phung Huy Tuan, Giang Huynh Nhu, Le Hoang Anh, Pham Duong Toan, Wang R, Smitz J, Gilchrist RB, Norman RJ, Mol BW (2020). In-vitro maturation of oocytes versus conventional IVF in women with infertility and a high antral follicle count: a randomized non-inferiority controlled trial. Human Reproduction, 35(11):2537–2547.

7. Cha KY, Koo JJ, Ko JJ, Choi DH, Han SY, Yoon TK (1991).

Pregnancy after in vitro fertilization of human follicular oocytes collected from nonstimulated cycles, their culture in vitro and their transfer in a donor oocyte program. Fertility and Sterility, 55:109–113.

8. Đặng Quang Vinh, Hồ Mạnh Tường, Vương Thị Ngọc Lan, Phùng Huy Tuân, Nguyễn Thị Thu Lan, Lê Thuỵ Hồng Khả (2009). Hiệu quả của kỹ thuật trưởng thành trứng non trong ống nghiệm. Thời sự Y học, 35:2-6.

9. Ho Ngoc Anh Vu, Braam SC, Pham Duong Toan, Mol BW, Vuong Thi Ngoc Lan (2019). The effectiveness and safety of in vitro maturation of oocytes versus in vitro fertilization in women with a high antral follicle count. Human Reproduction, 34(6):1055- 1064.

10. Sanchez F, Lolicato F, Romero S, De Vos M, Van Ranst D, Verheyen G, Anckaert E, Smitz JE (2017). An improved IVM method for cumulus-oocyte complexes from small follicles in polycystic ovary syndrome patients enhances oocyte competence and embryo yield. Human Reproduction, 32(10):2056- 2068.

11. Sanchez F, Romero S, De Vos M, Verheyen G, Smitz J (2015).

Human cumulus-enclosed germinal vesicle oocytes from early antral follicles reveal heterogeneous cellular and molecular features associated with in vitro maturation capacity. Human Reproduction, 30(6):1396-409.

12. Alpha Scientists in Reproductive Medicine and ESHRE Special Interest Group of Embryology (2011). The Istanbul consensus workshop on embryo assessment: proceedings of an expert meeting. Human Reproduction, 26(6):1270-1283.

13. Abbara A, Vuong Thi Ngoc Lan, Ho Ngoc Anh Vu, Clarke SA, Jeffers L, Comninos AN, Salim R, Ho TM, Kelsey TW, Trew GH, Humaidan P and Dhillo WS (2018). Follicle Size on Day of Trigger Most Likely to Yield a Mature Oocyte. Frontiers in Endocrinology, 9:193.

14. Guzman L,Ortega-Hrepich C,Albuz FK,Verheyen G, Devroey P, Smitz J,Devos M (2012). Developmental capacity of in vitro–

matured human oocytes retrieved from polycystic ovary syndrome ovaries containing no follicles larger than 6 mm.

Fertility and Sterility, 98(2):503-507.

15. Zaeem S, Muhammad S, Muhammad S, Ali H, Amjad R, Nasim A (2020). Effect of follicle size on oocytes recovery rate, quality, and in-vitro developmental competence in Bos indicus cows.

Animal Reproduction, 17(3):e20200011.

Ngày nhận bài báo: 10/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020

Referensi

Dokumen terkait