• Tidak ada hasil yang ditemukan

SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG GIỮA PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE TRÊN SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG GIỮA PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE TRÊN SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

SO SÁNH KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ TỤT HUYẾT ÁP

SAU GÂY TÊ TỦY SỐNG GIỮA PHENYLEPHRINE VÀ EPHEDRINE TRÊN SẢN PHỤ MỔ LẤY THAI

Nguyễn Vũ An1, Võ Minh Thành1, Huỳnh Vĩnh Phúc1, Nguyễn Trung Cường1, Nguyễn Thị Thanh2

TÓM TẮT

Mục tiêu: Tụt huyết áp sau tê tủy sống có thể gặp ở 80% các ca mổ lấy thai, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng cho mẹ và thai nhi. Điều trị đầu tay là thuốc co mạch trong đó phenylephrine và ephedrine được dùng nhiều nhất. Tuy nhiên, các nghiên cứu tại Việt Nam và thế giới còn nhiều điểm chưa thống nhất về thuốc nào ưu thế hơn.

Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Chúng tôi tiến hành thử nghiệm lâm sàng không ngẫu nhiên, không mù trên 62 sản phụ khỏe mạnh, được tê tủy sống để mổ lấy thai chương trình, dùng phenylephrine hay ephedrine tiêm mạch chậm điều trị tụt huyết áp. Kết cục chính là hiệu quả điều trị tụt huyết áp và kết cục phụ là chỉ số về cung lượng tim ước đoán liên tục và tác dụng phụ của từng thuốc.

Kết quả: Không có sự khác biệt về đặc điểm chung, huyết áp trung bình và thời gian ổn định huyết áp giữa hai nhóm. Tổng liều phenylephrine thấp hơn so với ephedrine khi quy đổi tương đương tiềm lực (139,1 ± 56,3 µg với 15 ± 6,7 mg; p=0,01). Nhóm phenylephrine có cung lượng tim thấp hơn ephedrine (6,4 ± 1,5 với 7 ± 1,8 L.phút–1; p=0,02) và có xu hướng thay đổi tương tự với khuynh hướng tần số tim ở mỗi nhóm. Về tác dụng phụ, phenylephrine có khuynh hướng gây tần số tim chậm nhưng chưa có ý nghĩa (12,5% với 0%, p=0,05) còn ephedrine gây tần số tim nhanh (33,3% với 6,3%, p=0,007), trong đó không khác biệt về tỷ lệ tăng huyết áp phản ứng và buồn nôn/nôn.

Kết luận: Phenylephrine có hiệu quả điều trị tụt huyết áp sau tê tủy sống tương đương ephedrine trên sản phụ không tiền căn bệnh lý tim mạch hay tiền sản giật với liều sử dụng thấp hơn và ít gây tần số tim nhanh hơn.

Từ khoá: tụt huyết áp, tê tủy sống, mổ lấy thai

ABSTRACT

COMPARISON OF PHENYLEPHRINE VERSUS EPHEDRINE TO TREAT HYPOTENSION IN PARTURIENTS DURING SPINAL ANESTHESIA FOR CESAREAN SECTION

Nguyen Vu An, Vo Minh Thanh, Huynh Vinh Phuc, Nguyen Trung Cuong, Nguyen Thi Thanh

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 1 - 2021: 275 - 282 Objectives: Spinal hypotension may occur up to 80% of cases presenting for cesarean section, which could have several serious implications for both the mother and her fetus. Current first line therapy is utilizing vasopressor which consists of two of the-most-commonly-used phenylephrine and ephedrine. However, there are still many disagreements in data from Vietnam and international trials regarding which is more superior.

Methods: We performed a non-randomized, unblinded clinical trial of 62 healthy pregnant women presenting for cesarean section under spinal anesthesia, using either phenylephrine or ephedrine to treat spinal hypotension. Primary outcome includes efficacy in treating spinal hypotension and secondary outcomes include parameters of estimated continuous cardiac output and side effects for each drug.

Results: There is no difference in general characteristics, mean arterial pressure and time to normalize blood

1Khoa Gây mê Hồi sức, Bệnh viện Nhân dân Gia Định

2Bộ môn Gây mê Hồi sức, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh

(2)

pressure between two groups. Total equipotent dose of phenylephrine is less than ephedrine (139.1 ± 56.25 µg vs 15 ± 6.7 mg; p=0.01). Phenylephrine has lower cardiac output than ephedrine (6.4 ± 1.5 vs 7 ± 1.8 L.min–1; p=0.02), whose trend is similar to heart rate in each group. On side effects, there are more cases of bradycardia in phenylephrine group although without statistical significance (12.5% vs 0%, p=0.05) as there are more tachycardia in ephedrine group (33.3% vs 6.3%, p=0.007). Both have the same rate of reactive hypertension and nausea/vomiting.

Conclusion: Phenylephrine is as effective as ephedrine in treating spinal hypotension in healthy pregnant women without previous cardiovascular disease or pre-eclampsia with lower equipotent dose and less tachycardia.

Keywords: spinal hypotension, spinal anesthesia, cesarean section

ĐẶT VẤN ĐỀ

Tụt huyết áp sau gây tê tủy sống (GTTS) xảy ra đến 80% các ca mổ lấy thai nếu không được điều trị dự phòng thích hợp(1). Tụt huyết áp mức độ nặng làm giảm tưới máu mô cả cơ thể dẫn đến hậu quả nặng nề cho cả mẹ và thai nhi. Hiện nay, nhiều phương pháp được khuyến cáo nhằm cải thiện tụt huyết áp sau GTTS bao gồm bù dịch, nghiêng bàn hay đẩy tử cung sang bên, và quan trọng nhất là dùng thuốc co mạch.

Ephedrine và phenylephrine là thuốc co mạch thường sử dụng nhất.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm so sánh hiệu quả huyết động giữa ephedrine và phenylephrine trong điều trị tụt huyết áp. Các tác giả Thomas DG(2), Ngan KWD(3) và Prakash S(4) cho thấy không có sự khác biệt giữa hai thuốc về khả năng duy trì huyết áp ổn định, với pH máu cuống rốn ở nhóm phenylephrine ít toan hơn ephedrine dù Apgar của trẻ là như nhau(3,4). Dyer sử dụng LiDCO theo dõi liên tục huyết động ghi nhận phenylephrine ưu thế hơn hẳn ephedrine trong việc đảo ngược nhanh chóng các thay đổi bởi GTTS với mức huyết áp cao hơn(5). Tại Việt Nam, Phạm Lê Hoàn cho kết quả phenylephrine tốt hơn ephedrine với liều dùng thấp hơn, huyết động ổn định nhanh chóng hơn và không có tác dụng phụ(6). Và ngược lại, Trần Minh Long nhận thấy phenylephrine và ephedrine không khác nhau trong điều trị tụt huyết áp sau GTTS, khác biệt nằm ở máu cuống rốn trẻ sơ sinh nhóm phenylephrine ít toan hơn nhóm ephedrine(7). Với những kết quả chưa thống nhất trong y văn, chúng tôi thực hiện nghiên cứu để trả lời câu hỏi phenylephrine có

hiệu quả điều trị tụt huyết áp hơn ephedrine trên sản phụ được GTTS để mổ lấy thai hay không.

Mục tiêu

So sánh hiệu quả điều trị tụt huyết áp sau GTTS giữa hai thuốc trên sản phụ mổ lấy thai.

So sánh các thông số về cung lượng tim ước đoán liên tục khi điều trị tụt huyết áp sau GTTS hai thuốc trên sản phụ mổ lấy thai.

So sánh tỷ lệ các tác dụng phụ giữa hai thuốc khi điều trị tụt huyết áp sau GTTS trên sản phụ mổ lấy thai.

ĐỐI TƯỢNG – PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu

Sản phụ có chỉ định mổ lấy thai chương trình dưới GTTS tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định từ tháng 12/2019 đến tháng 04/2020.

Tiêu chuẩn nhận vào

Sản phụ trên 18 đến 35 tuổi có chỉ định mổ lấy thai chương trình dưới GTTS, phân nhóm ASA II, tuổi thai từ đủ 37 đến 40 tuần, đơn thai, biểu đồ tim thai–cơn gò nhóm I, huyết áp trung bình giảm từ 80–50% mức nền sau GTTS.

Tiêu chuẩn loại trừ

Sản phụ có tiền căn bệnh tim mạch, bệnh lý gây tăng tần số tim (như cường giáp) hay mạch máu não, dị ứng hay chống chỉ định với thuốc tê, thuốc mê, phenylephrine và ephedrine, thai kỳ nguy cơ cao, chống chỉ định GTTS hay phải chuyển mê toàn diện đặt nội khí quản, có các biến cố bất thường do GTTS hay phẫu thuật, dùng nhiều hơn một loại thuốc co mạch để điều trị tụt huyết áp hay thuốc ngoài ephedrine và

(3)

phenylephrine.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu đoàn hệ có nhóm chứng, không mù với chọn mẫu thuận tiện.

Cỡ mẫu

Cỡ mẫu trong nghiên cứu của chúng tôi được tính toán dựa trên công thức:

Theo Dyer RA(5), nhóm ephedrine có kết quả là 78,2 ± 8,6 mmHg và nhóm phenylephrine 86,3

± 9,1 mmHg. Dựa vào công thức trên, chúng tôi tính toán cần ít nhất 20 sản phụ mỗi nhóm và để tránh mất mẫu, chúng tôi chọn 30 sản phụ mỗi nhóm (tổng cộng 60 sản phụ).

Tiến hành nghiên cứu

Sản phụ thỏa tiêu chí chọn vào được khám tiền mê, tư vấn tham gia nghiên cứu và lấy đồng thuận. Sản phụ được gắn kiểm báo theo dõi tiêu chuẩn và truyền 500–1000 mL dịch tinh thể trước GTTS kèm thở oxy 3 L.phút–1 qua cannula mũi.

Định chuẩn máy monitor Life Scope BSM–3562 (Nihon Kohden, Tokyo, Nhật Bản) với tuổi, chiều cao, cân nặng, giới tính, thời gian lan truyền sóng mạch, huyết áp không xâm lấn và điện tim của sản phụ để có các thông số về cung lượng tim ước đoán liên tục. Dữ liệu được ghi nhận liên tục mỗi phút sau GTTS thành công đến khi bắt được trẻ sơ sinh và sau đó mỗi 2,5 phút. Thuốc tê sử dụng là 1,8 mL bupivacaine 0,5% ưu trọng (Aguettant, Lyon, Pháp) và 20 μg fentanyl (Hameln Pharma GmbH, Hameln, Đức) tiêm vào khoang dưới nhện thật chậm. Sau GTTS, sản phụ được nằm ngửa nghiêng trái 150 kèm đẩy tử cung sang trái đến khi sát khuẩn da phẫu thuật. Khi tụt huyết áp xảy ra, sản phụ được điều trị với ephedrine 3–6 mg hay phenylephrine 50–100 μg tiêm tĩnh mạch (Aguettant, Lyon, Pháp) tùy theo tần số tim của sản phụ (<60 lần.phút–1 dùng ephedrine; ≥60 lần.phút–1 dùng phenylephrine) và lặp liều đến

khi huyết áp ổn định, kèm truyền nhanh dịch tinh thể. Sau bắt bé, tất cả các sản phụ sẽ được dùng oxytocin (Vinphaco, Vĩnh Phúc, Việt Nam) truyền tĩnh mạch 0,3 đến 0,6 đơn vị.phút–1, và/hay methylergonovine (Vinphaco, Vĩnh Phúc, Việt Nam) với carbetocin (Ferring Pharmaceuticals, Saint–Prex, Thụy Sĩ) tùy lâm sàng.

Biến số nghiên cứu Biến số chính

Huyết áp trung bình (mmHg), tần số tim (lần.phút–1) ghi nhận ở bốn thời điểm: lúc chưa GTTS (lấy trung bình 3 lần đo làm mức nền), trước dùng thuốc co mạch (ngay trước khi dùng thuốc co mạch), sau dùng thuốc co mạch (khi huyết áp trung bình ổn định từ 80–120% mức nền sau 3 lần đo liên tiếp cách nhau 1 phút), sau bắt bé 5 phút.

Thời gian ổn định huyết áp (phút): thời gian từ lúc dùng thuốc co mạch cho đến khi huyết áp ổn định từ 80–120% mức nền sau 3 lần đo liên tiếp cách nhau 1 phút. Chọn thời điểm của lần đo đầu tiên trong 3 lần đo để tính thời gian.

Tổng liều ephedrine (mg) và tổng liều phenylephrine (μg).

Biến số phụ

Cung lượng tim ước đoán liên tục–estimated continuous cardiac output [esCCO (L.phút–1)];

chỉ số tim ước đoán liên tục–estimated continuous cardiac index [esCCI (L.phút–1.m–2)];

thể tích nhát bóp ước đoán liên tục–estimated continuous stroke volume [esSV (mL)]; chỉ số thể tích nhát bóp ước đoán liên tục–estimated continuous stroke volume index [esSVI (mL.m

2)] cách ghi nhận giống như huyết áp trung bình.

Tác dụng phụ: nôn/buồn nôn; tần số tim chậm (<60 lần.phút–1); tần số tim nhanh (>100 lần.phút–1); tăng huyết áp phản ứng (huyết áp trung bình >120% giá trị nền).

Thu thập và xử lý số liệu

Tất cả các số liệu sẽ được ghi nhận vào một bảng thu thập số liệu soạn sẵn. Nhập liệu bằng Epidata 3.1 và phân tích bằng Stata 13.0. Kiểm

(4)

tra tính phân phối chuẩn bằng phép kiểm Kolmogorov–Smirnov. Biến số định lượng được biểu diễn bằng trung bình ± độ lệch chuẩn nếu tuân theo phân phối chuẩn, ngược lại bằng trung vị [khoảng tứ vị]. Biến số định tính được biểu diễn bằng tần số (tỷ lệ %). So sánh sự khác biệt giữa hai nhóm bằng phép kiểm Student hoặc phép kiểm Mann–Whitney tùy theo phân phối ở các biến số định lượng.

Liều của ephedrine và phenylephrine sẽ được quy đổi sang liều tương đương tiềm lực dựa theo nghiên cứu của Saravanan S(1), là 8 mg ephedrine tương đương với 100 μg phenylephrine trước khi so sánh. Các biến số định tính sẽ được so sánh bằng phép kiểm Chi

bình phương hay phép kiểm chính xác Fisher.

Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p <0,05.

Y đức

Nghiên cứu đã được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (chứng nhận số 530/ĐHYD–HĐĐĐ ngày 22/10/2019) và bệnh viện Nhân dân Gia Định (chứng nhận số 82/CN–HĐĐĐ ngày 19/12/2019).

KẾT QUẢ

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 62 sản phụ được GTTS để mổ lấy thai chương trình tại khoa Gây mê Hồi sức, bệnh viện Nhân Dân Gia Định từ tháng 12/2019–04/2020 (Hình 1).

Hình 1. Lưu đồ nghiên cứu Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu

Biến số Ephedrine (n = 30) Phenylephrine(n = 32) P

Tuổi mẹ (năm) 29,7 ± 0,9 30,8 ± 0,9 0,4

Tuổi thai (tuần) 39 ± 0,1 38,8 ± 0,2 0,3

Chiều cao (cm) 152,9 ± 0,8 154,1 ± 0,8 0,3

Cân nặng (kg) 67,5 ± 1,7 64,7 ± 1,7 0,2

Tổng lượng dịch truyền (mL) 833,3 ± 36,9 809,4 ± 33,6 0,6

Tổng lượng máu mất (mL) 316,7 ± 17,2 304,7 ± 15 0,6

Mức phong bế

T4 14 17

0,9

T5 9 8

T6 7 7

Sản phụ thỏa tiêu chí nhận vào và được gây tê tủy sống (n = 75)

Loại khỏi nghiên cứu (n = 13) do:

Thỏa các tiêu chí loại trừ (n=3)

Không đồng ý tham gia nghiên cứu (n = 10)

Nhóm ephedrine (n = 30)

Nhóm phenylephrine (n = 32)

Đưa vào phân tích (n = 30)

Đưa vào phân tích (n = 32) Chọn mẫu

Phân nhóm không ngẫu nhiên

Theo dõi

Phân tích

(5)

Biến số Ephedrine (n = 30) Phenylephrine(n = 32) P Thuốc co hồi tử

cung khác

Không 3 2

>0,05

Carbetocin 9 15

Methylergonovine 26 26

Biến số chính

Tổng liều thuốc sử dụng ở nhóm phenylephrine là 139,1 ± 56,3 μg so với nhóm ephedrine là 15 ± 6,7 mg (p=0,01 khi quy đổi tương đương tiềm lực 100 μg phenylephrine=8 mg ephedrine(1)). Thời gian ổn định huyết áp không khác biệt giữa phenylephrine và ephedrine (2,5 ± 1,2 phút với 2,4 ± 1,4, p=0,9).

Huyết áp trung bình và tần số tim mỗi nhóm được thể hiện ở Hình 2.

Biến số phụ

Kết quả về esCCO và esCCI được trình bày ở Hình 3. Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống

kê giữa hai nhóm qua các thời điểm nghiên cứu ngoại trừ esCCO sau dùng thuốc co mạch (p=0,02); và esCCI sau dùng thuốc co mạch (p=0,04), esCCO lẫn esCCI sau bắt bé 5 phút (lần lượt p=0,01 và p=0,02). esSV và esSVI được thể hiện qua Bảng 2. Phenylephrine có khuynh hướng gây ra tần số tim chậm nhiều hơn (12,5%

với 0%, p=0,05) và ngược lại ephedrine gây ra tần số tim nhanh nhiều hơn (33,3% với 6,3%, p=0,007). Không có sự khác biệt về buồn nôn/nôn (23,3% với 12,2%, p=0,3) và tăng huyết áp phản ứng giữa hai nhóm (12,3% với 9,4%, p=0,6).

kết quả được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) và khoảng tin cậy 95%

(*) Phép kiểm Mann–Whitney (p=0,003)

Hình 2: Tần số tim (A) và huyết áp trung bình (B) qua các thời điểm nghiên cứu giữa phenylephrine và ephedrine

(6)

Kết quả được trình bày dưới dạng trung bình (độ lệch chuẩn) và khoảng tin cậy 95% (*) Phép kiểm Student (†) Phép kiểm Mann–Whitney

Hình 3: Các thông số esCCO và esCCI giữa phenylephrine và ephedrine Bảng 2: Các thông số về esSV và esSVI giữa phenylephrine và ephedrine

Biến số Thời điểm nghiên cứu Ephedrine (n = 30) Phenylephrine (n = 32) P

EsSV (mL)

Mức nền 76,6 ± 9,5 72,7 ± 10,5 0,1

Trước dùng thuốc co mạch 74,3 ± 10,3 72,4 ± 11,3 0,5

Sau dùng thuốc co mạch 75,8 ± 11,2 71,3 ± 10,4 0,1

Sau bắt bé 5 phút 78,6 ± 9,2 70 ± 10,8 0,001

EsSVI (mL.m–2)

Mức nền 46,4 ± 5,3 44,8 ± 6,1 0,3

Trước dùng thuốc co mạch 44,8 ± 5,9 44,5 ± 6,4 0,8

Sau dùng thuốc co mạch 45,5 [36 – 52] 43,5 [36 – 50] 0,1

Sau bắt bé 5 phút 47,5 [40 – 55] 44 [34 – 49] 0,003

BÀN LUẬN

Ở cả hai nhóm, sau dùng thuốc co mạch, huyết áp trung bình không khác biệt và đều trong 20% mức nền, không trường hợp nào tụt huyết áp trên 50%. So sánh với Dyer RA(5), Ngan KND(8), Prakash S(4), Trần Minh Long(7), Phạm Lê Hoàn(6), huyết áp đều đạt mục tiêu điều trị là trong 20% mức nền. Chúng tôi ghi nhận xu hướng huyết áp giống nhau ở hai nhóm là giảm sau GTTS và trở lại ổn định cho đến sau bắt bé.

Khuynh hướng này tương tự với các nghiên cứu khác; và các tác giả đều kết luận rằng hiệu quả điều trị tụt huyết áp giữa phenylephrine và ephedrine là như nhau(4,5,6,7,8).

Sau khi dùng thuốc co mạch, phenylephrine khiến tần số tim giảm về dưới mức nền trong khi ephedrine không thay đổi tần số tim đáng kể và

ổn định hơn. Tuy nhiên, sau bắt bé 5 phút, tần số tim của nhóm phenylephrine tăng trở lại và không có sự khác biệt so với ephedrine. So với Dyer RA(5), Prakash S(4), Phạm Lê Hoàn(6), Trần Minh Long(7), xu hướng thay đổi tần số tim này tương tự, với phenylephrine luôn thấp hơn ephedrine sau dùng thuốc co mạch và tăng trở về mức nền bằng với ephedrine lúc sau bắt bé.

Nhìn chung, ephedrine luôn có khuynh hướng gây tăng tần số tim và duy trì ổn định tần số tim ở mức này trong khi phenylephrine làm giảm tần số tim và duy trì ổn định quanh mức này.

Thời gian ổn định huyết áp ở cả hai nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong các nghiên cứu sử dụng huyết áp không xâm lấn, ngoại trừ Trần Minh Long truyền liên tục thuốc co mạch(7), các tác giả khác(4,6) và chúng tôi dùng từng liều tiêm mạch chậm sau mỗi lần đo

(7)

huyết áp với hàm lượng thuốc dao động tùy theo đáp ứng của sản phụ. Do đó khó có thể so sánh chính xác thời gian ổn định huyết áp giữa các nghiên cứu với nhau. Dyer RA sử dụng huyết áp động mạch xâm lấn ghi nhận thời gian ổn định huyết áp của ephedrine là 81,8 giây còn phenylephrine là 61,8 giây(5). Kết quả này phù hợp với thời gian đạt đỉnh tác dụng của thuốc co mạch (phenylephrine là 1 phút, còn ephedrine là 1,5 phút). Với thời gian đạt đỉnh tác dụng của ephedrine như vậy, việc sử dụng thời gian đo huyết áp mỗi phút trên lâm sàng có thể không cho thấy được tác dụng co mạch đầy đủ của ephedrine, trong khi phenylephrine thì dễ dàng nhận biết. Do đó đưa đến điều trị tụt huyết áp với ephedrine diễn ra quá mức dẫn đến các tác dụng phụ không mong muốn như tăng huyết áp phản ứng và tần số tim nhanh.

Với cùng một mức huyết áp ổn định sau dùng thuốc co mạch, nhóm phenylephrine cần một lượng thuốc ít hơn so với ephedrine. Khi quy đổi về tương đương tiềm lực, Phạm Lê Hoàn cho thấy tổng liều phenylephrine và số lần tiêm thuốc thấp hơn so với ephedrine(6). Mặt khác, Prakash S không ghi nhận sự khác biệt giữa tổng liều dùng hay số lần tiêm thuốc(4). Về kết cục chính, cả hai nghiên cứu trên và chúng tôi đều ghi nhận mức huyết áp ổn định quanh 20% mức nền. Tương tự, Ngan KND báo cáo không có sự khác biệt số liều tiêm tĩnh mạch giữa hai nhóm ephedrine và phenylephrine(8).

Cung lượng tim giảm đáng kể ở nhóm phenylephrine và tăng ở nhóm ephedrine khi so sánh với mức nền. Các nghiên cứu khác và chúng tôi đều cho thấy liều phenylephrine đủ cao để gây tăng huyết áp phản ứng và nhịp chậm xoang sẽ gây giảm cung lượng tim đáng kể so với mức nền và cần phải tránh trên thực hành lâm sàng(5,9). Đối với nhóm ephedrine, đặc điểm chung của các nghiên cứu cho thấy hiệu quả ổn định cung lượng tim, dù tăng cao hơn mức nền nhưng không đáng kể(2,5,7).

Thể tích nhát bóp có giá trị ổn định qua các thời điểm trong nghiên cứu của chúng tôi. Với

cung lượng tim là tích số giữa tần số tim và thể tích nhát bóp, sự thay đổi cung lượng tim trong nghiên cứu của chúng tôi có khuynh hướng giống với sự thay đổi của tần số tim. Kết quả này cho thấy cung lượng tim được quyết định chủ yếu bởi tần số tim hơn là thể tích nhát bóp khi điều trị tụt huyết áp sau GTTS. Các nghiên cứu khác cũng báo cáo kết quả tương tự(5,9). Điều này gợi ý sự thay đổi tần số tim có thể sử dụng như một tham số thay thế khi không thực hiện đo cung lượng tim(5). Cung lượng tim ở mẹ được chứng minh có liên quan chặt chẽ đến lưu lượng máu tử cung nhau hơn huyết áp không xâm lấn đo ở cánh tay(10). Do đó nắm bắt trực tiếp thông số về thay đổi cung lượng tim (hay gián tiếp qua sự thay đổi tần số tim) có thể giúp ích trong chọn lựa và sử dụng thuốc co mạch hợp lý nhằm duy trì tối ưu huyết áp sau GTTS cũng như đảm bảo lưu lượng máu tử cung nhau hằng định (dựa trên việc ổn định cung lượng tim).

Chúng tôi ghi nhận tỷ lệ sản phụ có tần số tim nhanh sau dùng ephedrine cao hơn so với phenylephrine. Ngược lại, phenylephrine có khuynh hướng gây tần số tim chậm nhiều hơn so với ephedrine nhưng chưa cho thấy ý nghĩa thống kê (p=0,05). Tuy nhiên, chúng tôi không điều trị gì cho hai tình trạng này. Ephedrine có tác động trên thụ thể α và β làm tăng tần số tim và sức co bóp cơ tim với thời gian đạt tác dụng đỉnh có thể đến 90 giây(5) khiến cho việc đánh giá hiệu quả co mạch và nâng huyết áp bị chậm trễ khi dùng huyết áp không xâm lấn. Điều này đưa đến xử trí không chính xác, đặc biệt khi dò liều tối ưu và dễ quá liều thuốc, với hậu quả sau cùng là tần số tim nhanh và tăng huyết áp phản ứng nhiều hơn. Cả hai thuốc đều không khác biệt về tỷ lệ tác dụng phụ là buồn nôn/nôn cũng như tăng huyết áp phản ứng.

KẾT LUẬN

Phenylephrine có hiệu quả điều trị tụt huyết áp sau tê tủy sống tương đương ephedrine trên sản phụ không tiền căn bệnh lý tim mạch hay tiền sản giật với liều sử dụng thấp hơn và ít gây tần số tim nhanh hơn.

(8)

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Saravanan S, Kocarev M, Wilson RC, et al (2006). "Equivalent dose of ephedrine and phenylephrine in the prevention of post- spinal hypotension in Caesarean section". Br J Anaesth, 96(1):95- 9.

2. Thomas DG, Robson SC, Redfern N, et al (1996). "Randomized trial of bolus phenylephrine or ephedrine for maintenance of arterial pressure during spinal anaesthesia for Caesarean section". Br J Anaesth, 76(1):61-5.

3. Ngan KWD, Khaw KS, Lau TK., et al (2008). "Randomised double-blinded comparison of phenylephrine vs ephedrine for maintaining blood pressure during spinal anaesthesia for non- elective Caesarean section". Anaesthesia, 63(12):1319-26.

4. Prakash S, Pramanik V, Chellani H, et al (2010). "Maternal and neonatal effects of bolus administration of ephedrine and phenylephrine during spinal anaesthesia for caesarean delivery:

a randomised study". Int J Obstet Anesth, 19(1):24-30.

5. Dyer RA, Reed AR, van Dyk D, et al (2009). "Hemodynamic effects of ephedrine, phenylephrine, and the coadministration of phenylephrine with oxytocin during spinal anesthesia for elective cesarean delivery". Anesthesiology, 111(4):753-65.

6. Phạm Lê Hoàn, Nguyễn Đức Lam (2017). "Đánh giá hiệu quả của phenylephrin điều trị tụt huyết áp trong gây tê tuỷ sống để mổ lấy thai". Y học Việt Nam, 8(2):20-24.

7. Trần Minh Long, Nguyễn Quốc Kính (2018). "So sánh hiệu quả xử trí tụt huyết áp của phenylephrine và ephedrine ở sản phụ được gây tê tủy sống để mổ lấy thai". Nghiên cứu Y học, 117(1):127-136.

8. Ngan KWD, Lee A, Khaw KS, et al (2008). "A randomized double-blinded comparison of phenylephrine and ephedrine infusion combinations to maintain blood pressure during spinal anesthesia for cesarean delivery: the effects on fetal acid-base status and hemodynamic control". Anesth Analg, 107(4):1295- 302.

9. Langesaeter E, Rosseland LA, Stubhaug A (2008). "Continuous invasive blood pressure and cardiac output monitoring during cesarean delivery: a randomized, double-blind comparison of low-dose versus high-dose spinal anesthesia with intravenous phenylephrine or placebo infusion". Anesthesiology, 109(5):856- 63.

10. Robson SC, Boys RJ, Rodeck C, et al (1992). "Maternal and fetal haemodynamic effects of spinal and extradural anaesthesia for elective caesarean section". Br J Anaesth, 68(1):54-9.

Ngày nhận bài báo: 10/8/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 06/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait