• Tidak ada hasil yang ditemukan

Sinh kế của lao động di cư tự do tại Thành phố Hà Nội trong

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "Sinh kế của lao động di cư tự do tại Thành phố Hà Nội trong"

Copied!
15
0
0

Teks penuh

(1)

Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

Sinh kế của lao động di cư tự do tại Thành phố Hà Nội trong đại dịch Covid -19

Phạm Văn

Quyết*

,

Phạm

Văn

Huệ**

,

Đinh Quang

Hùng ***

Tóm tắt: Thông qua các dữ liệu thống kê, các nghiên cứu của đồng nghiệp và kết quả khảo sát của nhóm nghiên cứu, bài viết hướng đến một số phát hiện liên quan đến các chiều cạnh cơ bản trong thực tế sinh kế của nhóm lao động di cư tự do ờ Hà Nội trong thời kỳ bùng phát của đại dịch Covid-19. Trước hết, đại dịch đã gây ảnh hưởng nặng nề đến chiều cạnh quan trọng nhất trong sinh kế của lao động nhập cư tự do là việc làm và thu nhập. Do vậy, dạng sinh kế ứng phó của họ khi đó phổ biến nhất là cắt giảm chi tiêu ở mức tối đa, chỉ giới hạn trong khoản tiền mà họ có được. Trở về quê để tránh dịch bệnh, đồng thời cũng để giúp giảm bớt các khoản chi tiêu đắt đỏ ở Hà Nội cũng là dạng sinh kế ứng phó được một bộ phận lao động nhập cư tự do lựa chọn. Tìm kiếm một nguồn thu nhập khác phù hợp với thực tế cũng được các lao động hướng đến, song họ phải chấp nhận nguy cơ rủi ro cao của bệnh dịch. Việc tiếp cận của một bộ phận lao động nhập cư tự do đến các gói hỗ trợ của xã hội, đặc biệt là gói hỗ trợ của chính phủ vẫn còn có những hạn chế bất cập nhất định. Khi đại dịch bùng phát, việc phân biệtđối xử, sự nétránh, e ngại trong giao tiếp,ứng xửvới người nhậpcư tự doở mộtvài trường hợp tại Hà Nội được thể hiện rõ rànghơn. Điều đó càng làmgia tăng hơnmức độcủa kỳ thị cảm nhận ở mỗicá nhân,giađìnhngười nhậpcư.

Từ khóa: sinh kế; di cư; lao động nhập cư; đai dịch Covid - 19.

Ngày nhận 31/5/2021; ngày chinh sửa 14/9/202Ỉ; ngày chấp nhận đăng 28/02/2022 .<

DOI: https://doi.Org/10.33100/tckhxhnv8.l.PhamVanQuyet.vcs 1. Dấn nhập

Dịch bệnh và chiến tranhtừ thời xa xưa đãđược biếtđến như những kẻ manrợhủy hoại sinh kể, trựctiếp thông qua việc cướp đi mạng sống của con người và làm tan nát những vùng đất mà chúng đi qua, phá hủy tài sản sinh kế, gián tiếp thông qua việc hạn chế quyền tự do đi lại, hạn chế các chiến lược sinh kế và việc tiếp cận với cácnguồn

' Trường Đại học Khoa học hội vàNhân văn, ĐHQG Nội;email: [email protected]

" Trường Đại học Khoa học hộiNhân văn, ĐHQG Nội.

Trường Đại họcViệtNhật,ĐHQGNội.

lựctự nhiênvà xã hội. Sau hơn một năm, kể từ tháng 3 năm 2020, khi Coronavirut (Covid-19), được Tổ chức Y tế thế giới (WHO) thông báonhưmột dịch bệnhxảy ra trên toàn thế giới, ảnh hưởng thường xuyên đến một bộ phận lớn dân cư(Tổ chức Di cư quốc tế (lOM) 2020), đến nay đại dịch Covid-19 đã lan ra hầu khắp các quốc gia và vùng lãnh thổ, ảnh hưởng trực tiếp đến toàn nhân loại. Đại dịch Covid-19 không chỉ đã gây ra cuộc khủng hoảng y tế thế giới, mà còn là nguyên nhân cơ bản củacuộc khủng hoảng kinh tế, xã hội của các quốc gia, tàn phánghiêmtrọng tổng thể nền kinh tế vàthị trường lao động toàn cầu, là cú sốc kinh tế 95

(2)

96 Phạm Văn Quyết và cộng sự/ Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, Sô 1 (2022) 95-109

lớn nhất trong vòng 35 năm qua (Lê Thị ThanhBình 2021). Đạidịch Covid-19 đã tác động đến mọi mặtđời sống, sinh kế củacác tầng lớp dân cư ở tất cả các quốc gia, đặc biệttrực tiếp nhất đếnngười lao động và các nhóm dễ bịtổn thương.

Hầu hết lao động nhập cưtựdo khi đến miền đất mới đều nuôi hy vọng về sự cải thiện sinh kế, song đạidịch Covid-19 đãphá hủytất cả,đã đẩyhọ rơi vào tình cảnhthất nghiệp, thiếu việc làm, giảm hoặc mất thu nhập, nợ tiền nhà, thiếu lương thực và những vật dụng thiết yếu khác. Họ dễ trở thành một trong những nhóm dễ bị tổn thương nhất. Tuy đại dịch Covid-19 mới được nhắc đến hơn một năm nay, song sự tác động của nó đến đời sống và cuộc mưu sinh các nhómcư dân dễ bị tổn thương, nhất là tácđộng đếnnhóm lao động nhập cư, lao động trong khu vực phi chính thức đãđược nhiều nhà nghiên cứu, nhiều tổ chức quốc tế ở Việt Nam cũng như ở các nước đề cập đến. Nghiên cứu “Đánh giá nhanh tác động của đại dịch Covid-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế chính và việc làm: ứng phó, điều chỉnh và khả năng phục hồi” của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO 2020) hay “Một số đánh giá tác động xã hội của đại dịch COVID-19”

của NguyễnMinh Phong (2020), “Tác động của đại dịchCovid-19 và những vấn đề phát triển đặt ra” của Trần Quốc Toản (2021) đã phần nào cho thấy được tác động ghê gớm của đại dịch Covid đối với vấn đề việc làm, thu nhập, sinh kế của người lao động: ILO dự báo cuộc khủng hoảng kinh tế và lao động do dịch COVID-19 gây ra có thể làm tăng thêm 25 triệu người thất nghiệp trên toàn cầu, sovới số lượng ngườithất nghiệp sẵn cólà 188 triệu trongnăm 2019, v.v. ước tính sẽ có thêm từ 8,8 triệu đến 35 triệu người lao động rơi vào cảnh đóinghèo trên khắpthế giới, sovới mức ước tính trước đây cho năm 2020 (ILO 2020). Trêncơ sở phân

tích các số liệu của ILO, của Bộ Laođộng - Thương binh và Xã hội, nghiên cứu của Nguyền Minh Phongvà TrầnQuốc Toản đã hướng đến những kết luận về sự ảnh hưởng nặng nề, nghiêm trọng của đại dịch Covid- 19 đến cuộc sống mưu sinh của hàng triệu người lao động, nhất là lao động giản đơn thu nhập thấp không thường xuyên, hoặc nhóm lao động trong các khuvực phi chính thức, tự làm.

Công trình nghiên cứu “Tác động của đại dịchCovid-19 tới lao động, việc làm ở một số nhóm dễ bị tốn thương” của Lê Thị Thanh Bình (2020) và “Social Policy, COVID-19 and Impoverished Migrants:

Challenges and Prospects in Locked Down India” của Senguptavàđồng nghiệp (2020) đãtậptrung phântích nhiềuvề việc làm, thu nhập, đời sốngcủa nhóm lao động trong khu vực không chính thức, nhóm dễ bị tổn thương, khi bị đẩy vào cuộc khủng hoảng sống còn, do mất việc làm, mất thu nhập, thiếu lương thực và nghèo khổ trong đại dịch Covid-19 ở Việt Nam và ở Án Độ. Đặc biệt các nghiên cứu “Covid-19 Destroyed Thailand’s Economy, and the Livelihoods of Migrant Workers” của Leadholm (2020) và

“Manufactured Maladies: Lives and Livelihoods of Migrant Workers During Covid-19 Lockdown in India” của Adhikari và cộng sự (2020) đãđề cập nhiều đến đời sống, sinh kế của người lao động di cư ở Thái Lan và ởẤnĐộ. Trongkhi bài viết của Leadholm phân tích những rào cản, những khó khăn dường như không lối thoát trong cuộc mưu sinh cùa lao động nhập cư từ Myanmar ở tỉnh Phang Nga (Changwat) miền Nam TháiLan,thì bài viếtcủa cáctác giả Adhikari và cộng sự đề cập đến tình trạng không lương thựcvàtiềnbạc, mức độ đói, mất sinh kế và thu nhập cùng sự bế tắc

“đi không được, ở không xong” của hàng vạn lao động nhập cư tại các đô thị của Ấn

(3)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, sổ 1 (2022) 95-109 97

Độ trong 68 ngày đất nước bị phong tỏa để tránh lây lan Coronavirut.

Mặc dù đã có những nghiên cứu ở các vùng miền khác nhau về tác động của đại dịch Covid đến đời sống, sinh kế của các nhóm lao động dễ bị tổn thương, nhóm di cư, song một nghiên cứu sâu với các chiều cạnh liên quan đến sinh kế trong đại dịch Covid của lao động di cư cả từ trong nước và quốc tế tại thành phố Hà Nội, nơi đang trong quá trinhđô thị hóa và mở cửa mạnh mẽ vẫn là sự cần thiết khách quan; chắc chắn kết quả nghiên cứu sẽ đóng góp thêm vào chủ đề này với nhiều phát hiện và kết luậnhữu ích.

Trên cơ sở các dữ liệu thống kê về tình hình laođộng, việc làmcủa Tổng cụcThống kê và của các cơ quan, tổ chức hữu quan, các kếtquả nghiên cứu của đồng nghiệp, đặc biệt là kết quả 25 phỏng vấn sâu có định hướng được thực hiện vào tháng 5/2020 và tháng 4/2021 của nhóm giảng viên và sinh viên của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn vớicác lao độngnhập cư tự do vào Hà Nội trong khoảng 5-7 năm lại đây với đa dạng các ngành nghề và các thành phần (trong đó có 5 lao động người nước ngoài, 5 lao động làm nghề xe ôm, 5 lao động bán hàng rong,4 lao động bán tạp hóa, 1 làm phụ hồ, 1 đạp xích lô, 1 nấu ăn cho trường học, 1 nhặt ve chai và thu gom phế liệu, 1 làm bảo vệ, 1 làm Spa), chúng tôi muốn chỉ ramột số chiều cạnhnổi bật trong thực tế sinh kế của nhóm lao động di cư tự do ở Hà Nộitrong giai đoạn đại dịch Covid bùng phát.

2. Khái niệm sinh kế và sinh kếcủa lao động nhập cưtựdo HàNội

Sinh kế thường đượchiếu một cách đơn giản như việc làm hoặc nguồn thu nhập mang lại cho cá nhân hoặc gia đình tiền để

mua những vật dụng thiết yếu cho cuộc sống. Tuy nhiêncónhiều cáchtiếp cận khác nhauvề sinh kế. Theo Waddington (2003: 5) cách tiếp cận sinh kế bền vững được Cục Phát triển quốc tế (DFID) ủng hộ đã xác định sinh kế là “khả năng, tài sản (gồm cả vật chất, nguồn lực xã hội) và cáchoạt động cần thiết để có phương tiện sống”. Trong một số trường hợp việc làm và sinh kế, thường được sử dụng thay thế cho nhau, song theo Rengasamy, Chương trình phát triển Liên họp quốc (UNDP) đã phân biệt haithuậtngữnày, khi chorằng công việccó thểbao gồmmột phần của sinhkế tổng thể;

sinh kế dựa trên thu nhập có được từ việc làm và còn dựa trên thu nhập từ tài sản và các quyền lợi (Rengasamy 2008). Bên cạnh đó, có tác giả khiphântích về cơ hội sinhkế đã hướngđếnvai trò của thểchế, chính sách cũng như các mối quan hệ và hỗ trợxãhội đối với cải thiện sinh kế (Ellis 2000). Bùi Vãn Tuấn (2015)trong phân tích về sinhkế của cộng đồng dân cư ở vùng ngoại thành Hà Nội đã xác định: sinh kế bao gồm các nguồn lực tự nhiên, kinh tế, xã hội và văn hóa mà các cá nhân, giađình, hoặcnhóm xã hội sở hữu có thể tạo ra thu nhập, hoặc có thể sử dụng, trao đổi đểđápứng nhu cầu của họ (2015: 97).

Trong nghiên cứu này, chúng tôi không có mụcđích đisâu phântích các quanđiểm, lý thuyết khác nhau về sinh kế, mà chỉ nêu ra một số cách nhìn nhận khácnhau về nội dung, những chiều cạnh khácnhau của sinh kế. Theo đó, bài viết này sẽ cố gắng chỉ ra một sốchiều cạnhcơ bản, phù họp với sinh kế của nhóm lao động nhập cư ở Hà Nội trong đại dịch Covid-19. Trong lịch sử, loài người thường coi di cư từ vùng này sang vùngkhác là cơ hội đểtìmkiếm vàcảithiện sinh kế. Sự di cư này có thể ở khoảng cách và thời hạn dài ngắn khác nhau (Massey 1990: 5). Di cư là một phần của các chiến lược sinh kế tích cực, nhưng cũng được xác

(4)

98 Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

định bởi bối cảnh xã hội (Haan 2000: 1).

Các chiến lược sinh kế rất phong phúvà đa dạng, nhưng theo Kothari, di cư vẫn đóng một vaitrò quan trọng, nếu không muốn nói là thành phần trọng tâm trong chiến lược sinh kế của người nghèo ở các nước đang phát triển (2002: 8), mặc dù sinh kế không an toàn cho lao động nhập cư bắt đầu ngay từ nơi xuất phát (Hennebrỵ 2017: 2). Trong thời kỳ khủng hoảng để đối phó và tồn tại, di cưngày càng trở thành một lựa chọn tích lũy cho cả người nghèo và người không nghèo. Không những vậy, di cư còn là một trong những quá trình quan trọng nhất của thay đổi dân số và đa dạng hóa chiến lược sinh kế (Sapkota 2018: 45). Do đó, sự dịch chuyển dân số lao động từ khu vực nông thôn sang khu vực đô thị tại các nước đang trong quá trình đô thị hóa mạnh như Việt Nam là một cơ hội sinh kế quan trọng cho các cá nhân vàhộ giađình nông thôn. Theo đó, di cư đãtrởthànhchiếnlượcsinh kếphổ biến giúp người nghèo và người lao động di cư nói chung có thêm các họat động việc làm,cảithiện thu nhập, tăng thêm nguồn tài chính,V.V..

Hà Nội làmột trong những thành phố có tốc độ đô thị hóa nhanh ở Việt Nam: năm

1999 dân số đô thị của Hà Nội là 36,8%, năm 2009 là 41,0%, năm 2019 là 49,2%

(Cục Thốngkê Hà Nội2019),hằng năm thu hút một số lượng lớn lao động nhập cư.

Theo kết quả Tốngđiều tra dân số và nhà ở năm 2019, trong giai đoạn 2009-2019 trung bình mỗi năm dân số Hà Nội tăng 2,22%

năm, cao hơn gần hai lần mức trung bình của cả nước (1,14%); tỷ suất nhập cư là 43,8%; tỷ lệ thất nghiệp của lao động từ 15 tuổi trở lên là 2,00%, thấp hơn mức trung bình của cả nước (2,05%). Cũng như đến các thành phố lớn khác của Việt Nam phần lớn người lao động nhập cư tự do vào Hà Nội chỉ với sức lao động cơ bắp, khôngnghề nghiệp, không tài sản sinh kế và đều có

mong muốn tìm kiếm cơ hội và cải thiện sinh kế. Tại Hà Nội, vùng sinh kế chù yếu của số đông trongnhóm lao động này là khu vực lao động không chính thức, với đặc điểm noi bật là việc làm bấp bênh, thiếu ổn định, thu nhập thấp, thời gian làm việc dài;

không cóhợp đồng lao động hoặc có nhưng không được đóng bảo hiểmxã hội, bảo hiểm y tế,không được chi trảcác chế độ phụ cấp và các khoản phúc lợi xã hội khác, thường xuyên đối mặt với nguy cơ trở thành "tầng lớp lao động nghèo", dễ bị tổn thương (ILO 2016: 2). Bên cạnh số đông các sinh kế của lao động nhập cư tự do đều dựa trên một loạtchiên lược sinhkế tươngtự, chủyếu với khu vực lao động không chínhthức, một số chiến lược sinh kế của nhóm lao động này được bổ sung thêm các hoạt động thuộc công ty gia đình, hoặc trong khu vực lao độngchínhthức, nhưng chủyếu với các hợp đồng lao động ngắn hạn, thử việc hoặc mùa vụ như giáo viên dạy tiếng Anh, tin học, lao công, bảo vệ,phục vụ, v.v. trongcác trường học, bệnh viện, hay ở một cơ quan, doanh nghiệp trên địa bàn.Tuy thuộcnhómsinh kế có nguy cơ rủi ro cao ở đô thị, song trong điềukiện bìnhthường, họ vẫndễ kiếmđược việc làm và có thunhậpđủ đảmbảo các nhu cầu cần thiết của cá nhân và gia đình, hoặc có thu nhập cao hơn so với vùng nông nghiệp, nông thôn.

3. Đại dịch Covid và những ảnh hưởng đến sinh kế của lao động di cưtự do

Sinh kế bền vững thường được xem xét khi sinh kế đó có thể đối phó, phục hồi sau những căng thăng, khủng hoảng và cú sôc và duy trì khả năng cùng tài sản của nó, song khi sinh kế không có khả năng phục hồi; nó trở nên dễ bị tồn thương (Subedi 2017). Theo đó, sinh kế của lao động nhập cư tự do tại Thành phố Hà Nội trong đại

(5)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109 99

dịch Covid-19 với cú sốc của cuộc khủng hoảngkinh tế xã hội toàncầu này,phần lớn thuộc nhómsinh kếkhông bềnvừng nên dễ bịtổn thương hơn bao giờ hết.

3.1. Đại dịch Covid-19 ở Việt Nam sự ứng phó của cộng đồng

Ngày 23/1/2020, khi ca nhiễm Covid-19 đầu tiên tại Việt Nam được ghi nhận, Nhà nước ViệtNam đã tăng cườngcác lỗ lực để khống chế sự lây lan của dịch bệnh. Chính phủ đã ban hành các vàn bản quy định hạn chế đi lại, kêu gọi mọi người ở yên trong nhà, tạm dừng các hoạt động dịch vụkhông thiết yếu, không tụ tập đông người, đóng cửa trường học, đóng cửa biên giới, đồng thời thực hiện chế độ cách ly và giãn cách xã hội. Cuốitháng4/2020 một số biện pháp giãn cách xã hội đã dần dần đượcnới lỏng, số ca mắc lâynhiễm từ cộngđồng mới giảm dần (Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNICEF) 2020).

Đến cuối tháng 7 năm 2020 làn sóng lây nhiễm thứ hai bùng phát từ ổ dịch ở Đà Nằng và nhanh chóng lan ra các vùng miền khác của đất nước. Chế độ cách ly và giãn cách xã hội được thực hiện ở các mức độ khác nhau tùy thuộc vào sự lây lan dịch bệnhtại các địa phương. Sựvận hành củaxã hội được thiết lập ở trạng thái cânbằngmới.

Làn sóng lây nhiễm thứ 3 bùng phát vào cuối tháng 1/2021 từ ổdịch ởHải Dươngvà Quảng Ninh. Làn sóng này cũng nhanh chóng đượckhống chế thông qua thực hiện các biện pháp hạn chếđi lại và giãncáchxã hội của chính phủ và chính quyền các địa phương. Làn sóng lây nhiễm thứ 4 trong cộng đồng bùng phát từ cuối tháng 4/2021 vớibiến chủng mới từ Ấn Độ đã rấtnhanh chóng lan ra nhiều tỉnh thành ở các vùng miền khác nhau của đất nước; làm số ca lây nhiễm trong cộng đồng tăng lên nhanh chóng. Tới thời điểm hiện nay ViệtNam đã có hơn 3.500 ca mắc coronavirut, trong đó

có hơn 2.300 ca do lây nhiễm cộng đồng (Bộ Y tế 2021).Trong bối cảnh như vậy đời sống của rất nhiều người, nhất làngười lao động, ngườidễ bị tổnthương ởcả nông thôn và đô thị đều bị ảnh hưởng nặng nề.

Để ứngphó với cơnkhủng hoảng do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19,ngay từ tháng 4 năm 2020, Chính phủ ViệtNam đãquyết định triển khai thực hiệngói an sinh xãhội 62.000 tỷ đồng (tương đương khoảng 2,6tỷ đô la) hỗ trợtài chính cho các đối tượng dễ bị tổn thương trong khu vực không chính thức: các đối tượng bị giảm sâu thu nhập, mất, thiếu việc làm, gặp khó khăn, không đảm bảo mứcsống tốithiểu, chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 với mức 1 triệu đồng/tháng chotừng hộ giađình hoặc người lao động từ tháng 4 đến tháng 6 năm 2020.

Bêncạnh đó chính phủ còn hỗ trợ các doanh nghiệp bị ảnhhưởng thông qua gói tín dụng lãi suất thấp để trả lương cho nhân viên (Liên họp quốc (UN) 2020). Ngoài ra, sự đóng góphỗ trợ của cộng đồng đối với đối tượng dễ bị tổn thương, bị ảnh hưởng của đại dịchbằng tiền mặthay hiện vật cũng rất đáng kể.

3.2. Việc làm thu nhập của lao động nhập cư tưdo trongđạidịch Covid-19

Đại dịch Covid-19 đã gây ra khủng hoảng kinh tế, lao động và việc làm chưa từng có đối với tất cả các nước trong thế giới hiện đại. Tình trạngmất việc làmvàsố giờ làm việc bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Uớctính có 1,25tỷlaođộng, chiếm 38% lực lượng lao động toàncầu đang làm việctrong các lĩnh vực phải đối diện với sự sụt giảm trầm trọng về sản lượng, nguy cơ cao bị sa thải, baogồm các ngành: thươngmại bán lẻ, dịch vụ lưu trú và ănuống và sản xuất (Lê Thị Thanh Bình 2020). Tại Việt Nam, theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, trong năm 2020, sự bùng phát của dịch Covid-19 đã làm thị trường lao động suy giảm mạnh

(6)

100 Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

trong quý II, số lao động có việc làm giảm từ 50,1 triệu người trong quý I xuống còn 48,1 triệu người, giảm gần 2.000.000 người (Tổng cục Thống kê 2021). Tính đến tháng 12 năm 2020, Việt Nam có 32,1.000.000 người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởiđại dịchCovid-19 bao gồm người bị mất việc làm, phải nghi giãn việc/nghỉ luân phiên, giảm giờ làm, giảm thu nhập, V.V..

Trong đó, 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/nghỉ giãn việc/nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉhoặctạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh. Khu vựcdịch vụchịu ảnh hưởng nặng nề nhất bởi dịch Covid-19 với 71,6% lao động bị ảnh hưởng, tiếp đến là khu vực công nghiệp vàxâydựngvới 64,7%

lao động bị ảnh hưởng (Tổng cục Thống kê 2021). Điều này có nghĩa, nhóm lao động di

cư tự do ở Việt Nam, mà chủ yếu tham gia lĩnh vực dịch vụ sẽ là một trong những nhóm bị tác độngmạnh mẽ nhất củađại dich Covid-19.

Lao động di cư tự do là hình thức di cư của người lao động hoàn toàn mang tính tự phát. Quyết định di cư của họ không phụ thuộc vào bất cứtổ chức kinh tế, chính trị, xã hội nào. Đến thành phố họ hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực việc làm. Trong khảo sátcủa chúng tôi, đốitượngdi cưtựdo thuộc các nhóm lao động di cư tự do khác nhau đãphản ánh rõtình trạng mất việc làm hoặc bị buộc phải giảm giờ làm, mất thu nhập, do phải ở nhà thực hiện cách ly, giãn cách xãhội hoặc do khôngcó hayít “khách hàng” đối với một số loại hình dịch vụnhư chạy xe ôm, bán hàng tạp hóa, V.V.. (xem Hộp 1):

Hộp 1: COVID-19 với tình trạng mất việc làm, giảm thu nhập và bất lực

Trường hợp thứ nhất

Chị H, 31 tuổi quê ở Nghệ An cùng chồng và 2 con di cư ra Hà Nội thuê nhà ở, kiếm sinh kế mới được hon hai năm, với hy vọng thoát khỏi các công việc làm ruộng Vất vả, thu nhập thấp ở quê nhà. Ra Hà Nội, căn phòng gia đình chị thuê ở sâu trong một con ngõ nhỏ thuộc Quận Hoàng Mai. Chị làm hợp đồng mùa vụ với công việc nấu ăn cho một trường mầm non tư thục; chồng chị làm nghề chạy xem ôm (Grabbike). Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, trường mầm non bị đóng cửa dài ngày, học sinh nghỉ học, chị H cũng không có việc làm và cũng không có thu nhập; việc chạy xe ôm của chồng chị cũng bị dừng lại khi có lệnh giãn cách xã hội, sau đó cũng ít khách horn; cả nhà sinh sống bằng số tiền ít ỏi chồng chị kiếm được hằng ngày (khoảng 200.000 đồng).

Trường hợp thứ hai:

Anh T, 42 tuôi, làm xe ôm công nghệ (Grabbike), quê ở Hà Tây, đang ở nhà trọ cùng vợ tại quận Hoàng Mai; vợ buôn bán nhỏ ở chợ, con ở quê với ông bà; hàng tháng anh chị gửi tiền về nuôi ông bà và các con. Sức ép kinh tế với anh là rất lớn. Khi đại dịch bùng phát, anh thấy “cuộc sống bị đảo lộn hết tất cả”, nhất là mấy tuần giãn cách xã hội, anh và vợ trở thành người thất nghiệp hoàn toàn, ở nhà không thu nhập, “cuộc sống cực bí bách”. Khi lệnh phong tỏa bị gỡ bỏ, anh trở lại ngay với công việc và kiêm luôn cả nghề Shipper, song “công việc cũng vần rất ế ẩm, chưa bằng một phần khi chưa có dịch”. Anh cho biết, rất sợ, vì bệnh dịch rất dễ lây lan, vẫn bùng phát trờ lại, nghề xem ôm tiếp xúc nhiều với người lạ, nguy cơ nhiễm bệnh xảy ra bất cứ lúc nào, song không thể không đi làm và “ở nhà thì sẽ chêt đói trước khi chết vì dịch bệnh”.

Trường hợp thứ ba:

Chị A, 24 tuổi, người Anh, độc thân, sang Việt Nam được hơn 1 năm, vì muốn khám phá “một đất nước thú vị”. Khi dịch bệnh bùng phát chị đang dạy tiếng Anh cho 1 trung tâm ngoại ngữ tại Hà Nội theo dạng hợp đồng có thời hạn (1 năm). Theo chị, dịch bệnh đã làm đảo lộn tất cả; một quãng thời

(7)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, sổ 1 (2022) 95-109 101

gian rât khó khăn không chỉ với riêng chị mà với rât nhiêu người nước ngoài khác. Chị rât lo sợ dịch bệnh có thể đến với mình, song nỗi lo sợ lớn hơn là công việc bị trì trệ, trung tâm đóng cửa, không người học và mọi thứ càng trở nên tệ hon khi dịch bệnh kéo dài hàng tháng, không biết đến bao giờ mới chấm dứt. Chị dự định về quê hưong, song không bay được, ở lại thì không có việc làm, không thu nhập. Bất lực. Nguồn: kết quả khảo sát của tác già và đồng nghiệp.

Ba trườnghợp trênđây là nhữngví dụ về những chiều cạnh quan trọng nhất của sinh kế là việc làm cho thu nhập đã bị hủy hoại do đại dịch Covid-19trong hàngvạntrường hợp khác nhau của lao động nhập cư ở Thànhphố Hà Nội. Những côngviệccủa họ dù là làm hợp đồng mùa vụ, ngắn hạn, là làm xe ôm, chạy chợ, phu hồ hay những công việc mà lao động nhập cư tự do thường làm nhiều khi đến thành phố, đều phải bị dừng lại, cắt giảm hoặc bị tước bỏ khi đại dịch Covid-19 bùngphát. Người laođộng di cư tự do đến thành phố có khi kèm cả gia đình, có khi chỉ một mình, song họ thường là lực lượng lao độngchínhmang lại nguồn thunhập chủ yếu để nuôi sống gia đình. Vì vậy, áp lựcviệc làm và thu nhập với họ rất lớn; khi đại dịchbùng phát bên cạnhnỗi lo sợ bị lây nhiễm bệnh, thì nỗi lo sợ lớn hơn với nhiềungười có lẽ chínhlà mấtviệc làm, mất thu nhập: “Lúc đầu thì sợ dịch bệnh, nghỉ việc dài ngày, khách du lịch không có thì lại sợ không có tiền, có những lúc chú không có cả tiền ăn, trong khi lại phải trả tiền trọ, tiền gửi về cho gia đình, tiền học của con cái, v.v.” (Phỏng vấn sâu, nam, 39 tuổi, đạp xích lô, quê Nam Định); “Mấy tháng rồi mà chủ thầu vẫn chưa gọi đi làm, tiền tiêu thì không có, tiền gửi về quê cho vợ con và bố mẹ cũng không” (Phỏng vấn sâu, nam 35 tuổi, phụ hồ, quê Thanh Hóa). Dobị sức ép về kinh tế, nên trong một số trường họp, người lao động nhập cư biết công việc việc là nguy hiểm, là rất có thể bị nhiễm bệnh, song họ vẫn cứ phải làm. Đối với một số người “gạo là thứ nhất, Covid là thứ hai”

(Leadholm 2020).

Báocáo Đánhgiá nhanh tác động của đại dịch Covid-19 tới doanh nghiệp và người lao động của ILO (2020)đã chỉ ra: đại dịch đã tạo ra khó khănkép với người lao động di cư: một mặt thu nhậpvà việclàmcủa họ bị ảnh hưởng(có tới 87,9% người lao động di cư mất việc làm hoặc bị giảm lương), mặt khác, do các biện pháp phong tỏa và giãn cách xã hội, họ bị chia cắt khỏi gia đình mình trong nhiều tháng. Sinh kếbị hủy hoại, chiếnlược sinh kếbịbẻ gẫy, thu nhập không có, hoặc thu nhậpbị giảm đángkể,trong khi cuộc sống vẫn phải diễn ra, họ vẫn cần tiền cho các nhu càu của cá nhân và gia đình là tình trạng chung của lao độngnhập cư tự do ở đô thịHà Nộitrong thời kỳ bùng phát dịch bênh Covid-19, cho dù họ là ai, người nước ngoài hay người Việt Nam và hoạt động trong loại việc làm nào, việc làm theo hợp đồng mùa vụ hay tự tạo việc làm như anh chạy xích lô, xe ôm, phu hồ hay chị bán hàng rong và thậm chí cả giáo viên tiếng Anh.

3.3. Sựứng phó

Bên cạnh sự ứng phócủaNhànướcViệt Nam trước đại dịchCovid-19 thông qua gói an sinhxã hội 62.000 tỷ đồng và sự ứngphó của cộng đồng thông qua nhiều hoạt động quyên góp, ủng hộ, cây ATM gạo, v.v.nhằm hỗ trợ những hoàn cảnh khó khăn thì sự ứng phó của chính các cá nhân và hộ gia đình người lao động là đặc biệt quan trọng đối với sự phục hồi sinh kế. Đa số lao động di cưtựdo là trụ cột kinhtế của gia đinh, việc làm, thu nhập của họ là nguồn sống cho cá nhân và gia đình họ. Khi đại dịch xảy ra, trước sức ép của thu nhập, của cuộc sống,

(8)

102 Phạm Văn Quyết và cộng sự/Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

của gia đình, sinh kế ứng phó của lao động di cư tự do tại Hà Nội thời gian qua cũng thật sựđadạng. Với một bộphận cá nhân và hộ gia đình, sau khi mất việc làm hoặc việc làm bị dừng lạihoặc bị cắt giảm,thu nhậpbị mất hoặc không còn như trước, tài sản sinh kế duy nhất là chút tiền tiết kiệm của họ cũng được tính đến để làm sao đảm bảo được nhu cầu thiết yếu của cá nhân và gia đình: “Khi Covid-19 xảy ra, việc giảng dạy ở trường bị dừng lại, lương không có, cũng không thể nhờ gia đình ở London, tôi phải sống dựa vào số tiền đã tiết kiệm được và lập danh sách chi tiêu họp lýnhấtđể có thể chống chọi” (Phỏng vấn sâu, nam, 34 tuổi, giáo viên tiếng Anh, người Anh).

Cắt giảm hoặc hạn chế các khỏan chi tiêu cho cá nhân và gia đình cũng là cách ứng phóphổ biến được khánhiều người lao động di cư tự dothực hiện: “Tháng dịch, bác và vợ không có việc làm,mộtngàykhông kiếm nổi một đồng, mọi chi tiêu trong gia đình phải tính toán rất hạn chế” (Phỏng vấn sâu, nam, 44tuổi, chạy xe ôm, quê Nam Định), hoặc “Covid không làm được mà các thứ tiền nọ, tiền kia, tiền nhà, tiền điện, tiền nước, ăn uống vẫn cứphải móc túi ra, nên phải rất tiết kiệm mới được” (Phỏng vấn sâu, nữ, 66 tuôi, bán nước vỉa hè, quê Nam Định). Nhóm người nghèo chì với những việc làm gắn với đường phố như nhặt ve chai, thu mua phế liệu, bán hàng rong, v.v.

thunhập thấp,cuộc sốngđã khó khăn,trong đại dịch, sức épkinh tế với họcàng nặng nề horn, nên việc chi tiêu của họ chỉ tập trung vào mua những thực phẩm có tính thiết yếu nhất: “Khi giãn cách xã hội, cô trở thành người không có thu nhập, nên gánh nặng kinh tế lại càng lớn. Ra chợ cô cũng chỉmua vài cân gạo và các mặt hàng cần thiết dùng được lâu ngày như gia vị, mì tôm, bánh đa, v.v.” (Phỏng vấn sâu, nữ, 40 tuổi, bán xôi và nhặt ve chai). Có trường họp thuộc hộ nghèo, khi dịch xảy ra, mất việclàm, không

thu nhập đã cố gắng hạn chế tất cả các khoản chi tiêu trong phạm vi sốtiền trợ cấp hàng tháng cho hộ nghèo: “Nhà cô có hai người được trợ cấp hộ nghèo mỗi tháng 700.000đồng, không kiếm thêm được thì cố gắng chi tiêu trong chừng đó thôi” (Phỏng vấn sâu, nữ, 49 tuổi, bán hàng rong, quê Vĩnh Phúc).

về

quê với gia đình để tiết kiệm và hạn chế những chi tiêu đắt đỏ nơi thành phố cũng là bài toánđược một bộ phận lao động nhập cư tự do ở HàNội tính đến: “Chú về quê, vì ởđây không có khách, mà ngày nào cũng phải tiêu pha, lo ăn uống đắt đỏ, rồi tiền nhà trọ, v.v.” (Phỏng vấn sâu, nam, 39 tuổi, chạy xích lô, quê NamĐịnh). Tuy bài toán về với gia đình ở quê đã được nhiều người tính đến, song không phải ai cũng có thể thực hiện được, nhất là trong giai đoạn phong tỏa, giãn cách xã hội: “Lúc đầu anh cũngđịnh về quê, songcứ nghĩcố gắng tìm việc gì đó để kiếm sống trong mùa dịch, v.v,, sau lại không về được do giãn cách xã hội (Phòng vấn sâu, nam29 tuổi, hợp đồng mùa vụ, phụ xe khách), số liệu trong báo cáo của ILO cho thấy, (đến tháng 5/2020) chỉ có 8,8% lao động di cư ở ViệtNam trở về quê, số lao động di cư còn lại đã ở lại thànhphốđể tiếp tục đi làmhoặc đi tìm việc mới.Tuy nhiêndo bị giảm thunhập,nên lao động di cưđã gặp rất nhiều khó khăn, vì họ khó có thể cắt giảm những chi tiêu cơ bản (ILO 2020).

Trong thời kỳ cách ly, giãn cách xã hội sinh ke bị hủy hoại, thu nhập bị cắt giảm, tiền tiết kiệm bị cạn kiệt dần, những lao động di cư tự do ở Hà Nội đã nghĩ ngayđến tìm kiếm việc làm mới hoặc chuyển sang công việc phù họp để tạo nhu nhập. Chiến lược sinh kế của một giáo viên dạy họp đồng tiếngAnhtại một trườngtrung học cơ sở, ngườiPhilipine là sẽ “làm thêm nghềtay trái” là “mở một cửa hàng ăn uống nhằm giới thiệu các món ăn truyền thống của

(9)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số ỉ (2022) 95-109 103

Philppine, để trangtrải những lúc khó khăn, mất thu nhập như trong đại dịch” (Phỏng vấn sâu, nam, độc thân, người Philipine).

Những lao động nhập cư trẻ, có trình độ, năng động đã nhanh chóng nắm bắt xu hướng, nhu cầu của người tiêu dùng trong đại dịch, chuyến hướng sang cung cấp các dịch vụ online. Một phụ nữ trẻ bị mất việc bánhàngthuê tại mộtcủa hàng điện máy đã tìm được việc làm “bọc hàng, đóng hộp để gửi đi, vì mùa dịch, người ta mua hàng online nhiều. Tiền lưcmg trả theo ngày, không nhiều, nhưng có thu nhập để trang trải” (Phỏng vấn sâu, nữ, 26 tuổi, quê ở Hà Giang). Một thanh niên chạy Grabbike, do lượng khách hàng giảm, thu nhập chỉ còn bằng một nửa so với trước khi có dịch, đã nhanh chóng chuyển sang làm shipper: “Khi bị hạn chế rangoài, mọingườichuyểnsang mua hàng online, nên khi đó đom hàng dồn dập, nhất là buổi trưa, chiều tối, đom nhiều chạy không kịp, chủ yếu là đồ ăn, thực phẩm” (Phỏng vấn sâu, nam, 24 tuổi, shipper, quê Nam Định). Tuy có nhiều việc làm, song ẩn chứa trong câu chuyện của anh là chút sợ hãi về nguy cơ bị nhiễm bệnh, nhất là khi chạy xe gần hoặc chuyển hàng cho khu vực bị phong tỏa.

Không phải ai cũng có cơ hội chuyển việc, kiếm được việc làm phù hợp như nhữngtrườnghợp trên, nhiều lao động di cư tự do lớn tuổi hom, học vấn thấp, ítmốiquan hệ rất khó kiếm được việc làm trong mùa dịch: “Chị cũng cố gắng tìm việc nào đó phù hợp để kiếm thêm, nhưng khó quá. Với lại học vấn thấp, chẳng biết làm gì, cứ ngồi nhà với con và tám chuyện với mấy bà cùng xómtrọmãi cũng chán” (Phỏng vấn sâu, nữ, 40 tuổi, quê ở Thanh Hóa, bán hàng rong), hay “cố gắng tìm việc gì đó để kiếm sống trongmùa dịch,nhưng không được, cứloay hoay, ra vào nơi phòng trọ, chán chết”

(Phỏngvấn sâu,nam 29 tuổi, hợp đồng mùa vụ, phụ xe khách), V.V.. Như vậy, có thê

thấy người nhập cư tự do vào Hà Nội có nhiều cách để ứng phó với những mấtmát về sinh kế do đại dịch Covid-19 gây ra.

Song cách ứng phó khá phổ biến là chi tiêu tiết kiệm, cắt bỏnhững khoản chi tiêu không cần thiết, giữ mức sinh hoạt trong phạmvi kinh phí hiện có với những vật dụng thiết yếu nhất của cuộc sống. Bên cạnh đó lao động di cư luôn xoay xở để kiếm việc làm phù hợp với mùa dịch, người không kiếm đượcviệc thì phảitự nhốt mìnhvới sự buồn chán, người kiếm được việc thìluôn lo sợ vì tiềm ẩn nguy cơ nhiễm bệnhcao.

3.4. Tiếp cậngói cứutrợcủa chính phủ

Khi làn sóng Covid-19 đầu tiên bùng phát, Việt Nam thực hiện phong tỏa, giãn cách toàn xãhội, để ứngphó với sinh kế bị hủy hoại của hàng triệu người lao động và các hộ gia đình, chính phủ đã thực hiện gói an sinh xã hội 62.000tỷ đồng hỗ trợ cácđối tượng bị ảnhhưởng nhiềucủa đại dịch. Mặt khác,do bảnchất của lao độngdicư tự do là sự di chuyển mang tính tự phát của người lao độnghoặc gia đình họ,không do một cơ quan nhà nướchay tổ chức kinhtế,chínhtrị, xãhội nào tổ chức, hỗ trợtrong quá trìnhdi chuyển, nên các công việc của họ ở địa phương di cư đến cũng chủ yếu thuộc khu vực không chính thức. Do vậy, lao động nhập cư tự do ởHà Nội cũng là một trong các đối tượngchủ yếu của gói an sinh xã hội này. Chính sách của nhà nước đã rất rõràng, song việc tiếp cận với chính sách này của lao động nhập cư tự do lại khác nhau. Trong khảo sát thực tế, chúng tôi đã traođồi về vấn đề này với các đối tượngnghề nghiệp, việc làm khác nhau, kết quả cho thấy, có nơi người lao động tiếp cận rất dễ dàng, có nơi lại rấtkhó khăn, V.V.. Hộp 2 mô tả ba trường hợp khá tiêu biêu về việc tiếp cận của lao động nhập cư tự doở Hà Nội với gói ansinh xã hội:

(10)

104 Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

Hộp 2 : Việc tiếp cận gói an sinh xã hội của chính phủ Trường hợp thứ nhất:

Chị M, 40 tuổi, quê ờ Thanh Hóa; là mẹ đơn thân, con trai 5 tuổi; làm nghề bán hàng rong với ít hàng tạp hóa cùng chiếc xe đạp đi khắp các ngõ phố của Hà Nội để kiếm sống. Mấy tháng liền chị không dám đi bán hàng, vì lo sợ bị nhiễm bệnh hoặc bị công an bắt tịch thu hàng hóa. Nguồn sống của chị và con trai không còn, song chị cũng không quan tâm nhiều đến nhận hỗ trợ của nhà nước, mặc dù đã biết việc này qua những người cùng xóm trọ. Theo chị, một lần bác chủ nhà bảo chị điền tên vào một tờ giấy yêu cầu nhà nước hỗ trợ cho người mất việc làm và thời gian sau thì bác ấy mang

1.000.000 đồng đến cho chị và nói đó là tiền hỗ trợ của nhà nước cho tháng Tư.

Trường họp thứ hai:

Anh H, 39 tuổi, quê ở Nam Định, làm nghề đạp xích lô chớ khách du lịch. Khi đại dịch Covid-19 bùng phát, khách du lịch không có, việc làm bị mất, nguồn thu nhập cũng không còn, anh tạm về quê sống với gia đình để để hạn chế chi tiêu. Anh có biết về chính sách của nhà nước hỗ trợ cho những người lao động bị mất việc làm, mất thu nhập, cuộc sống khó khăn, V.V.. Những người làm nghề đạp xích lô như anh đều đã được nhận sự hỗ trợ này, nhưng anh không được nhận. Theo anh, nguyên nhân là do anh sống ở Hà Nội, nhưng không đăng ký tạm trú, tạm vắng. Anh cũng đã chạy đi lại các nơi để xin giấy xác nhận, nhưng cuối cùng vẫn không được.

Trường hợp thứ ba:

Nam, khoảng 37 tuổi, bán hàng rong, quê ở Vĩnh Phúc, có vợ và 3 con ờ quê. Khi thực hiện giãn cách xã hội, các hàng quán vỉa hè, đồ ăn vật đều đóng cửa hết, nên anh cũng không có việc làm, nguồn thu nhập chính bị cắt. Anh tạm về quê, sống với gia đình. Anh có biết về chính sách của nhà nước về hỗ trợ người mất việc làm, mất thu nhập và đã đến ông tổ trưởng dân phố đề nghị được làm giấy kê khai đề nhận hỗ trợ cho người bán hàng rong ngoài đường bị mất việc, song ông tổ trưởng đã trả lời:

“Cái này thì phải có xác nhận từ bên trên”. Theo anh, Tố trưởng dân phố là người gần gũi với dân nhất, mà trả lời như vậy thì anh khó có hy vọng; “chắc là họ chỉ hồ trợ những người làm công nhân mất việc thôi, chứ những người làm ngoài (nghề tự do), bán hàng rong các thứ thì không được”.

Nguồn: Kết quả khảo sát cùa tác giả và đồng nghiệp.

Qua nội dung mô tả batrườnghợptrong Hộp 2 có thể thấy đượcbađiểm chính sau:

Thứ nhất, bằng các kênh thông tin khác nhau cáctrường hợp được mô tả đều đã biết đến chínhsách hỗ trợ của chính phủ đối với người lao động mất việc làm do đại dịch, song không phải mọi người đều hiểu biết đầy đủ về về chính sách đó. Trường hợp nam 37 tuổi, bán hàng rong hiểu về đối tượng được hỗ trợ khá lơ mơ, vì vậy, đã không dám đấu tranh một cách mạnh mẽ, quyết liệt cho quyền lợi của mình. Thứ hai, việc tiếp cận gói hỗ trợ an sinh xãhội của chính phủ của lao động nhập cư tự do vào Hà Nội còn tùy thuộc rất nhiều vào hoạt động và tính tích cực của bộ máy cấp cơ sở của chính quyềnsở tại. Neubộ máyđó hoạt động năng nổ, gần dân, sát dân thì chính

sách hỗ trợ được thực hiệntốt, đúng người, đúng đối tượng,đúng thời điểm; sựtrợ giúp thực sự trở thành “cứu cánh” giúp lao động nhập cư tự do nhanh chóng khắc phục khó khăn, phục hồivàduy trì sinh kếở trạng thái bìnhthường mới. Ngược lại, nếu bộ máy đó hoạt động chưa thật đều, chưathật sát dân, thì gói trợ giúp của chính phủ sẽkhỏ mang lại nhữngkếtquảnhư mong đợi.Thứ ba, đối với lao động di cư tự do, vấn đề hộ khẩu, tạm trú, tạm vắng lại được đặt ra liên quan đến triển khaithực hiện góihỗtrợcủa chính phủ nhằm giúp người laođộngnhanh chóng vượt qua những khó khăn trong cuộc sống do bùng phát của đại dịch Covid-19. Rõ ràng, trong một số trường hợp, lao động di cư theo dạng con lắc, hoặc vì lý do nào đó họ không thường xuyên đăng ký tạm trú,

(11)

Phạm Văn Quyết và cộng sự/Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109 105

tạm vắng, khi đạidịch bùng phát, họ cũng bị mất việc làm, cũng mất thu nhập, đời sống gặp rất nhiềukhó khàn, nhưng họ thật sựrất khó tiếp cận vớigói trợ giúp của chính phủ và nguồn hỗ trợ khác của cộng đồng thông qua chính quyền.

Ngoài việc tiếp nhận nguồn tài chính được hỗ trợ từ chính phủ, người lao động nhập cư tự do ở Hà Nội, trong khó khăn do đại dịch gây ra còn nhận được sự hỗ trợ từ nhiều nguồn khác nữa từ cộng đồng. Tuy không được nhiều, “đôi khi chỉ là cân gạo, hộp mỳ, bó rau” song đã động viên họ rất nhiều để có tinh thần vượt qua thời kỳ khủng hoảng.

3.5. Sự phân biệt đốixử

Trong nghiên cứu của Phạm Văn Quyết (2017) về hòa nhập xã hội của lao động nhập cư nghèo tại các đôthịViệt Nam đã đề cập đến việc tiếp cận một số dịch vụ xã hội nhưlàm giấy khai sinh cho con, xin học cho con, vay tín dụng, ngânhàng của lao động nhập cư đã gặp những trở ngại, khó khăn nhất định, vì ít nhiều các dịch vụ này đều gắn với vấn đề hộ khẩu, trong khi đó đa số lao động nhập cư không có hộ khẩuở thành phố, họ chỉ có đăng ký tạm trú hoặc không khai báo. Đây chính là mầmmong của phân biệt đối xử, một trong những biểu hiện của sựkỳ thị gặp phải (2017: 172). Theo đó, có thể thấy trường họp thứ hai và trường hợp thứ ba trong Hộp 2 đã ít nhiều có biểu hiện của sự phân biệt đối xử. Ở trường hợp thứ hai người đạp xích lô nhận thấy trong khi các đồng nghiệp của anh đều được nhận tiền tronggói hỗ trợ củachính phủ thì anh không nhận được, mànguyên nhân là do anh không đăng ký tạm trú và cuối cùng đành chấp nhận. Còn ởtrường hợp thứ ba cách ứng xử của ông tổ trưởng dân phố khi không giải thích, hay hướng dẫn cặn kẽ cho người bán hàng rong, màchỉ thể hiệnmột sựné tránh, với một chút ít coi thường, còn người bán

hàngrongtỏ ra thất vọngvà cũngđành chấp nhận. Miễn cưỡng chấp nhận, e ngạiđều là những biểu hiện của tự kỳ thị (Phạm Văn Quyết 2017: 172). Qua khảo sát thực tể chúng tôi nhận thấy, một bộ phận lao động nữ nhập cư tự do nghèo, làm các công việc ngoài đường như bán hàng rong, thu mua phế liệu, nhặt ve chai, v.v. thường e ngại khi tiếp cận với chính quyền để hỏi về tiêu chuẩn, mức độ tiền được nhận trong gói hỗ trợ của chính phủ, cũng như các nguồn hỗ trợ khác của cộng đồng thông qua chính quyền các cấp. Họ cũng hay e ngại, sợ sệt khi đấu tranh cho quyền lợi của mình. Họ thường được tổ trưởng dân phố hoặc chủ nhà trọ tìm đến hướng dẫn làm thế nào thi làm theo như thế, đưa bao nhiêu, nhận bấy nhiêu, nếu có thắc mắc thì chỉ thắc mắc trong nhóm cùng hoàn cảnh, không dám công khai.

Trong khảo sát của chúng tôi,cảm nhận bị phân biệt đối xử được thể hiện rõ nhất trong ý kiến của các lao động nhập cư từ nước ngoài. Khácvới sự phân biệtđối xử, bao gồm cả bạo hành của một số đối tượng bấthảo đối với người gốc Á ở một số nước châu Âu và Bắc Mỹ, sự phân biệt đối xửmà một số lao động nước ngoàinhập cư tự do ở Hà Nội trong thời kỳđại dịch chủ yếu là tự cảm nhận. Bên cạnh sựbùng phát của dịch bệnh, sự phong tỏa, giãn cách xã hội, sự bức bối do khan hiếm thực phẩm trong những ngày đầucách ly xã hộicàng làm tăng thêm cảm nhận về sự phân biệt đối xử: “Rất hoang mang là lo lắng vì mọi thứ bị hạn chế tối đa, gần như ngưng lại. Bên cạnh không có việc làm thì thỉnh thoảngtôi còn bịngười dânkỳ thị, bởihọ tin rằng ngườichâu Âu dễ bị lây nhiễm bệnh dịch hơn. Điều đó làm cho mọi thứ đối với tôi càng tồi tệ hơn” (Phỏng vấn sâu nữ, 24tuổi,người Anh, độc thân, giáo viên hợp đồng dạy tiếng Anh).

Hoặc nữa, mộtý kiến của lao động nhập cư tự dongười TrungQuốc: “Mỗi khi ra đường

(12)

106 Phạm Văn Quvết và cộng sự/ Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhãn văn, Tập 8, Sô 1 (2022) 95-109

hay ở nơi công cộng, khi mọi người biết tôi là người Trung Quốc thì đều rất lo lắng, có ngườicòn sợ không dám lại gần nữa. Tôi rất buồn, nhưngkhôngthể tráchhọ được, vì họ vẫn lo an toàn cho bản thân thôi.Nhưng dù sao tôi cũngcòn may mắn, khi ở Việt Nam, mọi người chưa kỳ thịởmức tâychaynhư ở mộtsốnước châuÂu” (Phòngvấn sâu nam, 34tuổi, ngườiTrung Quốc, báncàphê).

Lao động nhập cư tự do người nước ngoàiởHà Nội đã ít nhiều nhận thấy có sự phânbiệt đối xử của người dân sở tại đối với họ, song chù yếu liên quan đến dịch bệnh Covid-19. Người dân có phần e sợ về một sự lây nhiễm cho bàn thân. Mức độ phân biệt đối xừ cũng chi làsự nétránh đề giữ antoàn cho bản thân, song đôi khi điều đó đã làm gia tănghơn đối với cảm nhận bị phân biệt đối xử của chính các lao động nhập cư người nước ngoài, nhất là người Trung Quốc, nơi được coi là điểm xuất phát cùa Coronavirut. Cũng không khác nhiều so với Thái Lan và các nước, trước khi xảy ra đại dịch, người lao động nhập cư tự do đã hay được đối xử như những công dân hạng hai (Leadholm2020). Khi đại dịch xảy ra, nhất là trong giai đoạn phong tỏa, giãn cách xã hội, thìchínhviệc phânbiệtđối xử, việc né tránh, e ngại trong giao tiếp, ứng xử với ngườinhập cư tự do ở một số trường hợp tại HàNội có vẻ đà được gia tănghơn mức độ cảm nhậnbịphân biệt đối xử ở mỗi cá nhân, giađình ngườinhập cư.

4. Kết luận và mộtsố khuyến nghị gợi ý chínhsách

4.1. Ket luận

Người laođộngnhập cư tưdotại Hà Nội có mong ước đến vùng đất mới sẽ giúp họ thay đổi và cải thiện sinh kế. Song đại dịch Covid-19 đã hủy hoại mọi sinh kế đó, bẻ

gẫy các chiến lược sinh kế của họ. Ớ Hà Nội, phần lớn lao động nhập cư tự do làm việc trong khu vực không chính thức, nên khi đại dịch bùng phát, yếu tố quan trọng hàng đầu trongsinh kế của họ là việc làm thì bị mất, hoặc bị giảm, kèm theo là thu nhập không còn, hoặc thu nhập bị giảm rất đáng kể, trongkhi cuộc sống vẫn cần có tiền cho các nhu cầu của cá nhân và gia đình. Đó là tìnhtrạng chung của laođộngnhập cư tựdo với những ngành nghề, việc làmcũng rấttự do trongthời kỳ bùng phátdịch bệnh Covid- 19, cho dù họ là ai, người nước ngoài hay người ViệtNam và hoạt động trong bất kỳ lĩnh vực việc làm nào, việc làm theo hợp đồng mùa vụ haytự tạo việc làm nhưngười đạpxích lô, xe ôm, phu hồ hay chịbán hàng rong và thậm chí cả giáo viên tiếng Anh.

Khi đại dịch Covid-19 xảy ra, nhất là khi thực hiện giãn cách xã hội, dạngsinhkếứng phó của lao động nhập cư tự do phổ biến nhất là cát giảm chi tiêu ở mức tối đa trong khoản tiền màhọcó đượckhi đó, kêcảviệc sử dụng hết tài sản sinh kế là số tiền tiết kiệm được. Điều này làm cho đời sống của các cá nhân, gia đình lao động di cưnghèo gặp rất nhiều khó khăn. Trở về quê để tránh dịch bệnh, đồng thời cũng để giúp giảm bớt các khoản chi tiêu đắt đỏ trong cuộc sống ở Hà Nội cũng là dạng sinh kế ứng phó được một bộ phận lao động nhập cư tự do lựa chọn. Một dạng sinh kế ứngphó khác cũng được các lao độngdi cư tự donghĩ đến ngay khibị mất việc làm và thu nhập là tìm kiếm mộtnguồn thu nhập khác phùhợp trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp. Một bộ phận lao động tìm được cơ hộiviệc làm vớithu nhập khá, song phải chấpnhậnnguy cơ rủi rocao cùa bệnh dịch; một bộ phận khác không tìm kiếm được việc làm, đành thất vọng, buồn chántrong các phòngtrọ.

Với mục đích hỗ trợ, giúp đỡ với người lao động bị mất việc làm, thu nhập, gặp

(13)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109 107

nhiềukhó khăn trong cuộc sống do đại dịch gây ra và cũng đế nhanh chóngổnđịnh sinh kế, Chính phủ Việt Nam đã thực hiệngói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ đồng. Trong thực tế, việc tiếp cận của lao động nhập cư tự do ở Hà Nội đến các gói hỗ trợ của xã hội, đặc biệt là gói hỗ trợ của chính phủ cũng khác nhau. Một bộ phận người lao động nhập cư tiếp cận gói hỗ trợ này một cách dễ dàngvàthuận lợi, song mộtbộphận khác việc tiếp cận này thực sựkhókhăn và nhiều trở ngại. Nguyên nhân chủ yếu gắn với sự hoạt động của cấp chính quyền sờtại và chút ít liên quan đến quy định về hộ khẩu và tạm trú. Sự phân biệt đối xửvới lao động nhập cư tự do, trong nhiều trường họp đã xảy ra ngaycả khi chưa có đại dịch, một bộ phận trong số họ thường bị coi là công dân hạng hai. Điều này có vẻ được gia tăng horn khi đại dịchbùngphát, nhất là trong thời kỳ phong tỏa và giãn cách xã hội. Việc phân biệt đối xử, sự né tránh, e ngại trong giao tiếp, ứng xử với người nhập cư tự do ở một vài trường hợp tại HàNội được thể hiệnrõ ràng hon. Điều đó càng làm gia tăng hơn mức độ cảm nhậnbị phân biệt đối xử ở mỗi cánhân,giađinh người nhập cư.

4.2. Khuyếnnghị gợi chính sách

Hướng đến tạo dựng và phát triển sinh kế bền vừng đối với cá nhân, hộ gia đình của nhóm lao động nhập cư tự do là một trong những định hướng, giải pháp quan trọng;

qua đó giúp họ nhanh chóng ổn định cuộc sống, đẩylùimộtcách có hiệu quảtínhdễ bị tổn thương, nhanh chóng vượt qua cuộc khủng hoảng, những rủi ro, bất an,cú sốc về kinh tế, về đời sống, lao động, việc làm và thu nhập như với đại dịch Covid-19. Trong 5 nguồn lực cho pháttriển sinh kế bền vững, cần đặc biệt quan tâm đến nguồn lực con người: nâng cao trìnhđộ hiểu biết, mở rộng các chươngtrình đào tạo hướng nghiệp phù

hợp với nhiều đối tượng, đặc biệt là lao động nhập cư tự do, lao động phi chính thức, tạo động lực và tính năng động để người lao động ứng phó một cách tốt nhất với những rủi rotrong cuộcsống.

Xây dựng, hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, khắc phục những bất cập trong các quyđịnh liên quan đến vấn đề hộ khẩu, tạm trú; tuyên truyền và tổ chức tốt việc triển khai các gói hỗ trợ củachính phủ vàcủacác cá nhân, các tổ chức xã hội, đảm bảo sự công bằng xã hội, kịp thời giúp người lao động nhập cư nhanh chóng ổn định sinh kế đặc thù.

Di dân, trong đó có di dân tự do là quá trình tất yếu, việc hỗ trợhòa nhập xã hộiđối với lao động nhập cư là cách tốt nhất để giúp họ nhanh chóng ổn đinh cuộc sống, tránh sự mặc cảm, tự tin trong các ứng xử, cũngnhư các hoạtđộng sống tại đôthị.

* Lời cảm ơn: “Nghiêncíru nàyđược tiến hành trong khuôn khổ đề tài mã so QG [21.35] “Tiếp cận chinh sách an sinhxã hội cùa lao động tự do nhập cư vào Hà Nội và ThànhphốHồ Chí Minh hiện nay ” của Đại học Quốc gia Hà Nội

Tài liệu trích dẫn

Adhikari Anindita, Navmee Goregaonkar, Rajendran Narayanan, Nishant Panicker, Nithya Ramamoorthy. 2020. “Manufactured Maladies: Lives and Livelihoods of Migrant Workers During COVID-19 Lockdown in India.” The Indian Journal of Labour Economics 63: 969-997.

Bùi văn Tuấn. 2015, “Thực trạng và giải pháp đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng dân cư ven đô Hà Nội trong quá trình đô thị hóa”.

Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội 31(5): 96-108.

(14)

108 Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109

Bộ y tế. 2021. “Trang tin về dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp covid-19.” Cong thông tin điện tử Bộ Y tê

(https://ncov.moh.gov.vn/). Truy cập ngày 13/5/2021.

Cục Thống kê Hà Nội: 2019. “Kết quả sơ bộ Tổng điều ưa dân sỡ và nhà ở năm 2019.” Công thông tin điện từ Cục Thong kê Hà Nội

(http://consosukien.vn/ha-noi-ket-qua-so-bo- tong-dieu-tra-dan-so-va-nha-o-nam 2019.htm) Truy cập tháng 5/2021.

Ellis Frank. 2000, Rural livelihoods and diversity in developing countries, Oxford University Press, Oxford.

ILO. 2016. “Báo cáo lao động phi chính thức 2016.” Trang thông tin cùa Tô chức Lao động quốc tế - Văn phòng Hà Nội

(https://www. ilo. org/wcmsp5/groups/publìc/-

—asiạ/—ro-bangkok/—ilo

hanoi/documents/publication/), Truy cập ngày 19/4/2021.

ILO. 2020. “Đánh giá nhanh tác động của đại dịch Covid-19 tới doanh nghiệp và người lao động trong một số ngành kinh tế chính và Việc làm:

ứng phó, điều chinh và khả năng phục hồi”.

Cổng thông tin Tổ chức lao động quốc tế - Văn

phòng Nội

(https ://www. ilo. org/hanoi/Whatwedo/Publicat ions/WCMS_757928/lang—vi/index.htm). Truy cập ngày 19/4/2021.

IOM. “2020. IOM Viet Nam covid-19 response plan, february - december 2020.” The UN Migration Agency in Viet Nam (https://vietnam.iom.int/en/). Truy cập tháng 5/2021.

Waddington Clare. 2003. Livelihood Outcomes of Migration for Poor People. Development Research Centre on Migration, Globalisation and Poverty, University of Sussex Brighton BN1 9SJ, Working Paper T1

Kothari Uma. 2002. Migration and chronic poverty. Institute for Development Policy and Management, University of Manchester Working Paper No 16.

Haan Aijan De. 2000. Migrants, Livelihoods, and Rights: the Relevance of Migration in Development Policies. Social Development Working Paper No.4.

Hennebry, Jenna. 2017. Securing and Insuring Livelihoods: Migrant Workers and Protection Gaps. Intematonal Organizaton for Migraton (IOM).

Leadholm Kira. 2020. “Covid-19 Destroyed Thailand’s Economy, and the Livelihoods of Migrant Workers”. Pulitzer Center October 12, 2020 (https://pulitzercenter.org/stories/). Truy cập tháng 5/2021.

Lê Thị Thanh Bình. 2021. “Tác động của đại dịch Covid-19 tới lao động, việc làm ở một số nhóm dễ bị tổn thương”, cống thông tin điện tử Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam.

(https://vass.gov.vn/nghien-cuu-khoa-hoc- xa-hoi-va-nhan-van/). Truy cập ngày

19/4/2021.

Massey Douglas. 1990. Social structure, household strategies, and cumulative causation of migration. Population Index, 56(1), 3-26.

Nguyễn Minh Phong. 2020. “Một số đánh giá tác động xã hội của đại dịch Covid-19”. Cong Thông tin điện từ Tạp chi Cộng sàn (https://www. tapchicongsan. org. vn/kinh-te/- /2018/816502/). Truy cạp 19/4/2021.

Phạm Văn Quyết. 2017. Hòa nhập xã hội cùa lao động nhập cư nghèo tại các đô thị Việt Nam.

Hà Nội: Nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội.

Rengasamy, Srinivasan. 2008. “Sustainable Livelihood Framework SR.”

(https://www.slideshare, net/srengasamy/). Truy cập tháng 5/2021.

Sapkota, Kanhaiya. 2018. “Seasonal Labour Migration and Livelihood in the Middle Hill of Nepal: reflections from arghakhanchi district”. Research Nepal Journal of Development Studies 1(1): 42-57.

Sengupta, Sohini and Manish K. Jha. 2020. Social Policy, COVID-19 and Impoverished Migrants: Challenges and Prospects in Locked Down India. The International Journal of Community and Social Development 2(2): 152- 172.

Subedi Bhim Prasad. 2017. “Livelihood diversifcation amidst shocks and stresses in the mountains in Nepal: Experiences from villages of Mustang.” pp 327-358. In A. Li et al. (eds.), Land cover change and its eco-environmental responses in Nepal. Springer Geography.

(15)

Phạm Văn Quyết và cộng sự / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 1 (2022) 95-109 109

Tồng cục Thống kê (2019). “Kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2019.” cổng thông tin điện từ Tông cục Thống kê

(https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu- thong-ke/2019/12/). Truy cập tháng 5/2021.

Tổng cục Thống kê. 2021. “Thông cáo báo chí tình hình lao động, việc làm quý 1/2021.”

Công thông tin điện tử cùa Tông cục Thống kê (https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu- thong-ke/2021/04/). Truy cập ngày 19/4/2021.

Tổng cục Thống kê. 2020. “Báo cáo tác động cùa dịch covid-19 đến tinh hình lao động, việc làm quỷ IV và năm 2020.” Cong thông tin điện tử Tông cục Thông kê

(https://www.gso.gov.vn/du-lieu-va-so-lieu- thong-ke/2020/07/). Truy cập 14/5/2021.

Trần Quốc Toàn. 2021. “Tác động của đại dịch COVID -19 và những vấn đề phát triển đặt ra”.

Trang thông tin điện tử hội đồng lý luận Trung ương (http://hdll.vn/vi/nghien-cuu—trao-doi/).

Truy cập ngày 19/4/2021.

UNICEF. 2020. “Phân tích cùa Liên hợp quốc về tác động xã hội của đại dịch COVID đối với Việt Nam và các khuyến nghị chính sách chiến lược. ” Cồng thông tin điện tử của UNICEF Vietnam

(https://www.unicef.org/vietnam/). Truy câp ngày 23/5/2021.

Referensi

Dokumen terkait