• Tidak ada hasil yang ditemukan

của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Membagikan "của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội"

Copied!
10
0
0

Teks penuh

(1)

của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội

Phạm Thị Hoàng Anh - Ngô Thu Uyên - Lê Hoàng Long - Nguyễn Anh Tú - Phạm Thị Hồng Nhung - Hà Hoàng Nam

Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 26/05/2021

Ngày nhận bản sửa: 03/06/2021 Ngày duyệt đăng: 25/06/2021

Tóm tắt: Nghiên cứu này xem xét các nhân tố ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội, dựa trên số liệu thu được từ 348 sinh viên tham gia khảo sát trong tháng 3/2021. Sử dụng mô hình hồi quy bội để phân tích, kết quả nghiên cứu cho thấy ngành học, giới tính, số năm học đại học là những nhân tố tác động mạnh tới điểm hiểu biết tài chính của sinh viên. Cụ thể, nghiên cứu này cho thấy trong quá trình học đại học sinh viên theo khối ngành kinh tế hoặc trong chương trình có môn học liên quan đến ngành kinh tế- tài chính thì sẽ có hiểu biết tài chính tốt hơn, từ đó có thói quen chi tiêu lành mạnh, tránh được cám dỗ của tín dụng đen. Nghiên cứu cũng tìm ra kết quả cho thấy, nữ sinh viên có hiểu biết tài chính tốt hơn nam, số năm theo học đại học càng nhiều sẽ có tác động tích cực làm tăng khả năng hiểu biết tài chính của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Từ khóa: hiểu biết tài chính, tài chính toàn diện, sinh viên, Hà Nội

Determinants of financial literacy: evidence from students in Hanoi

Abstract: This study examines the factors affecting the financial literacy of students in Hanoi city. The research used 348 observations of students from universities across Hanoi city during March 2021, the results from the multiple regression model showed that the majors, genders, and number of years in college education had a strong impact on student’s financial literacy scores. The study shows that the financial literacy score of students majoring in economics or students attending short training course during university time are higher than that of other students. Then, they would have good expenditure plan as well as avoid from other social evils. The female students have higher financial literacy score than male students. The more years students spend on college education, the higher their score are.

Keywords: financial literacy, financial inclusion, students, Hanoi

Pham, Thi Hoang Anh - Ngo, Thu Uyen - Le, Hoang Long - Nguyen, Anh Tu - Pham, Thi Hong Nhung - Ha, Hoang Nam

Email: [email protected]

Research team of Banking Academy of Vietnam

(2)

1. Giới thiệu

Hiểu biết tài chính cá nhân đóng vai trò quan trọng trong sự cân bằng, thịnh vượng của mỗi cá nhân nói riêng và sự ổn định, phát triển của nền kinh tế nói chung. Đối với các nền kinh tế mới nổi, công dân có hiểu biết về tài chính có thể đảm bảo rằng ngành tài chính có thể đóng góp hiệu quả thực sự cho tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo (Faboyede & cộng sự, 2015).

Theo khảo sát của Tổ chức Hợp tác và phát triển Kinh tế (OECD), tính đến năm 2015, có 59 quốc gia đã và đang xây dựng chiến lược giáo dục tài chính với tư cách là chiến lược quốc gia nhằm đóng góp vào sự phát triển tài chính toàn diện và đảm bảo tính bền vững của nền kinh tế. Chiến lược giáo dục tài chính là một trụ cột quan trọng của chiến lược tài chính toàn diện đối với một quốc gia, riêng tại khu vực Đông Nam Á, tính đến năm 2016 có 5 quốc gia đã thiết kế để triển khai các chiến lược giáo dục tài chính toàn diện, trong đó Malaysia và Singapore là những nước tích cực nhất (Thùy Lê, 2019).

Tại Việt Nam, ngày 22/01/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký ban hành Quyết định số 149/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Theo đó, “tài chính toàn diện là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp cận và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp lý, được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp siêu nhỏ”. Chiến lược tài chính toàn diện hướng tới một trong các mục tiêu chính là “nâng cao hiểu biết tài chính cho người dân và doanh nghiệp, đảm bảo mọi người dân và doanh nghiệp có kiến thức, kỹ

năng, thái độ, hành vi ứng xử phù hợp trong lựa chọn và sử dụng các sản phẩm, dịch vụ tài chính, xây dựng cơ chế bảo vệ người tiêu dùng tài chính để đảm bảo người tiêu dùng được cung cấp đầy đủ thông tin và đối xử công bằng”.

Với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vay vốn cá nhân và doanh nghiệp tăng cao đã thúc đẩy việc mở rộng quy mô tín dụng.

Tuy nhiên, đến nay vẫn còn một số khách hàng chưa sử dụng dịch vụ ngân hàng.

Ngoài khu vực tài chính chính thức chịu sự kiểm soát của nhà nước, còn có khu vực tài chính phi chính thức hoạt động ngoài phạm vi của pháp luật, còn được gọi là “tín dụng đen”. Đối với sinh viên - thế hệ trẻ và tương lai của đất nước, đây là đối tượng mới trưởng thành nên kiến thức còn yếu, dễ bị tổn thương bởi những rủi ro tài chính, vì vậy nên đây là đối tượng hàng đầu cần được phổ cập kiến thức tài chính.

Bài nghiên cứu tập trung làm rõ các nhân tố ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội thông qua mô hình định lượng. Bài nghiên cứu được kết cấu thành 5 phần. Sau phần Giới thiệu, nhóm nghiên cứu thực hiện tổng quan các nghiên cứu trước đây liên quan đến các nhân tố ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính của người dân nói chung, và sinh viên nói riêng. Phần 3 mô tả về phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên cứu. Phần 4 tổng hợp và phân tích các kết quả nghiên cứu thu được từ mô hình định lượng. Trên cơ sở đó, nhóm nghiên cứu đề xuất các khuyến nghị chính sách trong phần 5 của bài nghiên cứu.

2. Tổng quan nghiên cứu

Những năm trở lại đây việc chú trọng vào kiến thức tài chính của người dân Việt Nam, đặc biệt là nhóm đối tượng trẻ- nguồn lực vàng trong tương lai là mục tiêu cấp bách mà Nhà nước đang theo đuổi.

(3)

Nghiên cứu của tác giả Trần Thanh Thu và cộng sự (2020) tập trung nghiên cứu về chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hóa ngành Tài chính, nhóm tác giả này đã chỉ ra rằng Việt Nam có chỉ số quan tâm và am hiểu kiến thức tài chính thấp hơn so với đại đa số các nước Châu Á. Bên cạnh đó, các số liệu hiểu biết về tài chính ở mức độ trên trung bình chỉ chiếm 24%, nhưng có đến 93% người Việt Nam không có hứng thú cải thiện (Dougn, 2019).

Đã có nhiều nghiên cứu nước ngoài về hiểu biết tài chính cá nhân, tuy nhiên mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính cá nhân còn chưa được nhiều tác giả nghiên cứu triệt để. Nhìn chung, phần lớn các nghiên cứu này đều tìm mối quan hệ cùng chiều giữa các nhân tố như tuổi, giới tính, ngành học, thu nhập, giáo dục…

và hiệu quả quản lý tài chính cá nhân. Hiểu biết về tài chính cá nhân đã trở thành một đề tài nghiên cứu khá nóng trên thế giới trong thập kỷ gần đây (Mohamad & cộng sự, 2010; Annamaria & cộng sự, 2010; Yap và cộng sự, 2016). Nhiều nhân tố đã được chỉ ra là có tác động đến hiểu biết về tài chính cá nhân như tuổi, giới tính, giáo dục và nghề nghiệp.

Độ tuổi tác động cùng chiều đến mức độ hiểu biết tài chính của cá nhân, tuy nhiên đây chưa phải là một xu hướng rõ ràng (Lê Hoàng Anh, 2018). Bên cạnh đó nghiên cứu của Chen & Volpe (1998), những người trong độ tuổi từ 23 - 29 tuổi và từ 40 tuổi trở lên sẽ có hiểu biết về tài chính nhiều hơn so với những độ tuổi còn lại. Với một khía cạnh tương đồng khác theo Lusardi

& Mitchell (2011) cho rằng nhóm người trung niên có hiểu biết tài chính tốt nhất so với hai nhóm người trẻ và người già.

Trong khi đó, có nhiều nghiên cứu chỉ ra tầm quan trọng của giới tính khi cho rằng nam giới quản lý tài chính tốt hơn nữ giới như Kharchenko & Olga (2011), Al-

Tamimi & Hussain (2009), Arrondel &

cộng sự (2013), Koenen & Lusardi (2011);

sinh viên nam hiểu biết về tài chính hơn sinh viên nữ, phù hợp với những phát hiện trước đó: Chen & Volpe (2002), Eitel &

Martin (2009), Goldsmith (2006), Hira &

Mugenda (2000). Cũng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng, nơi cư trú ảnh hưởng đến hiểu biết về tài chính cá nhân. Cole & cộng sự (2008) chỉ ra những sinh viên Ấn Độ sống ở khu vực nông thôn được cho là có hiểu biết tài chính nhiều hơn những sinh viên sống trong khu vực thành thị. Theo Mohamad (2010), sinh viên ở ký túc xá có hiểu biết tài chính cao hơn sinh viên không ở ký túc, điều này được giải thích vì các sinh viên ở ký túc xá phải tự bươn chải, tự lập với cuộc sống xa gia đình hơn nên cũng phải cân đối chi tiêu và tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tài chính hơn.

Bên cạnh các nhân tố về đặc điểm cá nhân, các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng các nhân tố về hoàn cảnh gia đình như trình độ học vấn của bố mẹ, nghề nghiệp của bố mẹ, tình hình kinh tế của gia đình… cũng có tác động đến mức độ am hiểu tài chính của sinh viên (Mohamad, 2010; Nguyễn Thị Hải Yến, 2014; Yap và cộng sự, 2016).

Murphy (2005) nhận ra các sinh viên xuất thân từ một gia đình được giáo dục đầy đủ sẽ am hiểu về tài chính hơn và việc thường xuyên trao đổi kiến thức về lĩnh vực tài chính với bố mẹ sẽ củng cố nhận thức của sinh viên về tài chính. Lusardi & cộng sự (2011) cho rằng học vấn của người mẹ thực sự ảnh hưởng lớn đến nhận thức tài chính của một người, đặc biệt khi người mẹ đó tốt nghiệp bậc học Cao đẳng. Như vậy, trình độ học vấn của bố mẹ tác động thuận chiều đến hiểu biết tài chính của sinh viên.

Năng lực học tập được sử dụng để dự đoán mức độ am hiểu tài chính và mức độ sung túc tài chính của sinh viên ở một số nghiên cứu trước đây như nghiên cứu của Chen

(4)

& Volpe (1998, 2002), Sabri & cộng sự (2010), Shim & cộng sự (2009). Jariah &

cộng sự (2004) đã chỉ ra mối quan hệ chặt chẽ giữa trình độ học tập và hiểu biết tài chính, rằng sinh viên có điểm trung bình tích lũy (Grade Point Average- GPA) cao hơn thì có mức độ hiểu biết tài chính tốt hơn. Nghiên cứu còn chỉ ra rằng các sinh viên được điểm GPA cao thường có xu hướng học hỏi kiến thức tài chính từ bạn bè nhiều hơn những sinh viên có điểm GPA thấp. Thêm vào đó, theo Lê Hoàng Anh (2018), số năm học tại một trường đại học có ảnh hưởng đến nhận thức tài chính của sinh viên, cụ thể, sinh viên đã tốt nghiệp am hiểu hơn sinh viên đại học, sinh viên năm 3 và năm 4 có nhận thức về tài chính tốt hơn những sinh viên khóa dưới.

Danes (1994) đã điều tra quan điểm của cha mẹ về cách tiêu dùng của con mình.

Phụ huynh được hỏi ở độ tuổi nào thì họ có thể chia sẻ thông tin hay tham gia cùng với trẻ trong các hoạt động tài chính. Với những hoạt động tài chính phức tạp như hiểu biết về bảo hiểm hay có tài khoản ngân hàng riêng thì đa số các bậc phụ huynh đều tin rằng ở độ tuổi từ 15 tuổi- 17 tuổi thì trẻ mới cần tiếp cận. Hơn một nửa các bậc phụ huynh cũng tin rằng trẻ em trên 18 tuổi đã sẵn sàng tự quản lý tài khoản ngân hàng, thẻ tín dụng hay các khoản nợ của chúng.

Frijins & cộng sự (2014) chỉ ra rằng các trải nghiệm tài chính có mối quan hệ thuận chiều tới hiểu biết tài chính của mỗi người.

Những sinh viên bắt đầu thảo luận tài chính với bố mẹ khi đã hơn 18 tuổi có hiểu biết tài chính nhiều hơn so với phần còn lại.

Cordero và Pedraja (2016) đã thực hiện một nghiên cứu để tìm hiểu xem, liệu việc triển khai các khóa học chuyên sâu về các khái niệm tài chính cơ bản ở trường học có ảnh hưởng đáng kể đến việc các sinh viên có thể áp dụng kiến thức và kỹ năng vào các tình huống tài chính thực tế. Nghiên

cứu này khai thác tập hợp dữ liệu so sánh về các quốc gia tham gia đánh giá tài chính Programme for International Student Assessment (PISA, 2012), bao gồm 18 trong số 70 nước tham gia vào làn sóng của PISA. Kết quả cho thấy rằng, các khóa học như vậy có ý nghĩa quan trọng và tích cực, ảnh hưởng đến thành tích học sinh bất kể chiến lược nào được áp dụng để dạy học sinh các khái niệm tài chính.

Như vậy, có thể thấy, các nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính nói chung, và trong sinh viên được một số các học giả quan tâm. Tuy nhiên, khác với các nghiên cứu trước đây, nghiên cứu này bổ sung thêm nhân tố liên quan đến ngành học của sinh viên vào mô hình nghiên cứu nhân tố ảnh hưởng. Trong mô hình này, nhóm nghiên cứu kì vọng rằng, nếu trong quá trình học đại học sinh viên theo khối ngành kinh tế hoặc trong chương trình có môn học liên quan đến ngành kinh tế- tài chính thì sẽ có hiểu biết tài chính tốt hơn, từ đó có thói quen chi tiêu lành mạnh so với các sinh viên chuyên ngành khác. Ngoài ra, nghiên cứu bổ sung thêm biến số về số năm đã học của sinh viên tại đại học với kì vọng sinh viên càng mới thì hiểu biết tài chính càng kém.

3. Phương pháp nghiên cứu 3.1. Lựa chọn mô hình và biến số

Dựa vào bài nghiên cứu của Yap và cộng sự (2016) về ảnh hưởng của hiểu biết tài chính và thái độ đối với hành vi quản lý tài chính và sự hài lòng tài chính, nhóm tác giả xây dựng được mô hình nghiên cứu sau:

FLS = β0 + β1FIELD + β2GENDER + β3HOMETOWN + β4RESIDENCE + β5YEAR + ui

Trong đó:

Biến phụ thuộc:

(5)

FLS (Financial Literacy Score): Điểm hiểu biết về tài chính của sinh viên. Biến số này được đo lường bằng số câu trả lời đúng trong 10 câu hỏi về hiểu biết tài chính được thể hiện trong bảng khảo sát sinh viên. Sinh viên sẽ được 10 điểm cho mỗi câu trả lời đúng, trả lời sai sẽ không có điểm. Sinh viên trả lời đúng hết 10 câu hỏi sẽ được 100 điểm cho phần trả lời của họ. Các câu hỏi được lựa chọn dựa vào bộ câu hỏi đo lường hiểu biết tài chính của OECD/INFE (2018) đã được nhóm nghiên cứu thay đổi cho phù hợp với đối tượng sinh viên tại Việt nam và bài nghiên cứu. Các câu hỏi bao gồm các nội dung liên quan đến: lãi suất, các kênh đầu tư tài chính, hiểu biết về tín dụng đen, giá cả lạm phát, kế hoạch chi tiêu.

Biến độc lập:

(i) FIELD: Ngành học của sinh viên (ii) GENDER: Giới tính

(iii) HOMETOWN: Nơi gia đình sinh viên sinh sống

(iv) RESIDENCE: Nơi ở hiện tại của sinh viên. Nghiên cứu định dạng biến này theo 2 giá trị: (1) nếu như sinh viên ở cùng với gia đình hoặc họ hàng (trong giai đoạn sinh viên không phải trả chi phí tiền nhà và tự mình chi tiêu ăn uống; (0) nếu như sinh viên ở kí túc xá hoặc thuê trọ cùng bạn bè.

(v) YEAR: Biến này thể hiện số năm mà sinh viên đang theo học, nhận các giá trị năm thứ nhất, năm thứ hai, năm thứ ba, năm thứ tư,… và đã ra trường.

3.2. Mô tả thống kê khảo sát

Trên cơ sở dữ liệu khảo sát đối với 348 sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian từ ngày 01/3/2021 đến ngày 27/3/2021 bằng phương thức bảng hỏi online Google Form và bảng hỏi được gửi qua mạng xã hội, Bảng 1 đưa ra tóm tắt về nhân khẩu học của người trả lời, các số liệu thống kê cho thấy rằng tỷ lệ nữ giới được hỏi

là 62,36% và nam giới là 37,64%. Trong số các cá nhân được phỏng vấn có 57,18% là sinh viên đang học năm thứ ba; 13,51% là sinh viên học năm thứ hai; 10,92% là sinh viên học năm thứ 4; 9,48% là sinh viên học năm thứ nhất; còn lại 8,91% là sinh viên đã ra trường. Hầu hết những sinh viên được hỏi đều học khối ngành kinh tế (60,34%), còn lại là các khối ngành khác (39,66%).

Những sinh viên được khảo sát đa số gia đình của họ đều sinh sống ở thành phố (70,11%), còn lại là sống tại nông thôn và miền núi (29,89%). Đối với việc sinh sống của sinh viên, những sinh viên sống cùng với gia đình hoặc nhà người thân họ hàng ở Hà Nội không mất phí sinh hoạt (46,55%);

còn lại những sinh viên đến từ các thành phố khác thì thường ở trọ với bạn bè, ở trọ một mình, ở kí túc xá (53,45%).

Bảng 2 đưa ra số liệu thống kê số điểm hiểu biết về tài chính của sinh viên sau khi họ hoàn thành câu hỏi trắc nghiệm về kiến thức tài chính (bộ câu hỏi 10 câu với mỗi câu 10 điểm- tổng 100 điểm) trong phần B bảng khảo sát của nhóm nghiên cứu. Duy nhất câu đầu tiên của phần khảo sát hiểu biết tài chính có 2 ý nhỏ về (i) có dự tính tổng các khoản thu, tổng các khoản chi hàng tháng hay không?; (ii) với nguồn thu dự tính, có lập kế hoạch chi tiêu hay không. Với mỗi ý trả lời là có, sinh viên sẽ được 5 điểm, trả lời đúng cả 2 ý sẽ được tổng cộng 10 điểm.

Thống kê kết quả khảo sát cho thấy, 80 điểm là số điểm nhiều sinh viên đạt được nhất (14,49%), phổ biến thứ hai là 60 điểm hiểu biết tài chính với 13,22% trên tổng số 348 phiếu hợp lệ, tiếp theo đó là số lượng sinh viên đạt 70 điểm về hiểu biết tài chính (11,21%). Trong bảng khảo sát, chỉ có 1 sinh viên duy nhất bị 0 điểm (0,29%) và có tới 7 sinh viên xuất sắc trên tổng số 348 sinh viên đạt 100 điểm (2,01%) về mức độ hiểu biết tài chính. 7,18% là tỷ lệ phần trăm sinh viên đạt từ 10 điểm đến 25 điểm và từ

(6)

30 đến 45 là số điểm 53 sinh viên đạt được (15,23%) trên tổng số 348 sinh viên. Bảng 2 cho thấy đa số sinh viên được khảo sát đều đạt được từ 50 điểm trở lên, chiếm hơn 70%

trên tổng số phiếu hợp lệ; 29,61% sinh viên có số điểm từ 50 đến 65 điểm, từ 70 điểm đến 85 điểm hiểu biết tài chính là 36,21%

sinh viên đạt được. Trong đó có 40 sinh viên trên tổng số 348 mẫu khảo sát (11,49%) đạt được số điểm từ 90 đến 100 điểm.

4. Kết quả nghiên cứu

Dựa trên mô hình đã xác định trong phần 3.1, và sau khi xử lý các khuyết tật của mô hình, nhóm nghiên cứu đã thu được kết quả như sau:

Thứ nhất, kết quả thu được từ mô hình cho thấy ngành học mang dấu dương có tác động mạnh tới điểm hiểu biết tài chính của sinh viên và có ý nghĩa thống kê ở mức 1%.

Các kết quả thu được từ mô hình cho thấy biến ngành học có tác động đúng với dấu theo kỳ vọng về lý thuyết cũng như thực

tiễn. Theo đó, thống kê này cho thấy đối với sinh viên học khối ngành kinh tế sẽ có điểm hiểu biết tài chính cao hơn các sinh viên học khối ngành khác, do sinh viên không thuộc khối ngành kinh tế chỉ được giảng dạy các môn chuyên ngành và một số môn học thực tế, tuy nhiên hầu như không có môn học liên quan đến quản lý tài chính cá nhân. Hơn nữa, chương trình giảng dạy của các sinh viên theo ngành kinh tế được tiếp cận trực tiếp các vấn đề liên quan đến tài chính và các sinh viên cũng chủ động tìm hiểu về các kiến thức kinh tế. Kết quả nghiên cứu này là hoàn toàn tương tự như kết quả thu được từ các nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến (2014), Chen &

Volpe (1998), Peng et al. (2007).

Trong khi đó, qua khảo sát của nhóm nghiên cứu đối với các sinh viên thuộc khối ngành kĩ thuật, thì không có bất cứ môn học nào hay chương trình ngoại khóa nào có liên quan đến vấn đề về tài chính, đặc biệt là tài chính cá nhân. Theo các số liệu mà nhóm thu thập được, đa số các ngành kỹ thuật đều Bảng 1. Số liệu thống kê về nhân khẩu học của mẫu nghiên cứu

Đơn vị: %

Giới tính Nữ 217 62,36%

Nam 131 37,64%

Năm sinh viên

Năm 1 33 9,48%

Năm 2 47 13,51%

Năm 3 199 57,18%

Năm 4 38 10,92%

Đã ra trường 31 8,91%

Khối ngành

Kinh tế và có khóa học về

kinh tế tài chính 210 60,34%

Còn lại 138 39,66%

Khu vực sinh sống của gia đình

Thành phố 244 70,11%

Nông thôn và miền núi 104 29,89%

Nơi ở hiện tại Ở không mất tiền “1” 162 46,55%

Ở mất tiền “0” 186 53,45%

Nguồn: Dữ liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu

(7)

không được tiếp cận và giảng dạy về kiến thức tài chính. Ví dụ điển hình là ngành kỹ thuật điện tử viễn thông của Đại học Bách Khoa Hà Nội có tổng cộng gần 80 môn học và trong số đó chiếm đến 90% là các môn học liên quan đến chuyên ngành và bổ trợ kiến thức. Sinh viên chỉ được học một số môn về kỹ năng mềm và ứng xử trong công việc nhưng không có môn nào đề cập đến kiến thức tài chính. Chính vì vậy, việc bổ sung các kiến thức về tài chính cho sinh viên là rất cần thiết.

Thứ hai, giới tính mang dấu âm có ý nghĩa thống kê ở mức 10% có tác động đến điểm hiểu biết tài chính của sinh viên. Kết quả thu được từ mô hình hồi quy bội cho biết rằng điểm hiểu biết tài chính của nam và nữ có sự khác biệt đáng kể. Theo đó, điểm trung bình hiểu biết tài chính của nam thấp hơn điểm trung bình của nữ. Điều này được giải thích do sinh viên nữ có xu hướng lập kế hoạch dự tính mức chi tiêu hàng tháng và khả năng tiết kiệm cao hơn so với sinh viên nam. Phát hiện này phù hợp với hầu hết các nghiên cứu trước đây của Nguyễn Thị Hải Yến (2014), Nguyễn Đăng Tuệ (2017), Mandell (2008)... Tuy nhiên, kết quả này lại trái ngược với kết quả của các nghiên cứu của Kharchenko & Olga (2011), Al-Tamimi & Hussain (2009), Arrondel &

cộng sự (2013), Koenen & Lusardi (2011):

nam giới quản lý tài chính tốt hơn nữ giới.

Điều này được lý giải do sự khác nhau giữa nền văn hóa các nước trên thế giới, phụ nữ ở một số nước ngoài có điểm hiểu biết tài chính thấp hơn đáng kể so với nam giới, dẫn đến khả năng đánh giá và quản lý dòng tiền kém hơn, từ đó ít có trách nhiệm trong việc chi tiêu.

Thứ ba, mối tương quan thuận giữa năm học và điểm hiểu biết tài chính của sinh viên có ý nghĩa thống kê ở mức 1% cho thấy rằng năm học có tác động mạnh đến điểm hiểu biết tài chính của sinh viên. Kết Bảng 2. Số liệu thống kê số điểm hiểu biết

về tài chính của sinh viên

Đơn vị:%

Hiểu biết tài chính

0 điểm 1 0,29%

10 điểm 6 1,72%

15 điểm 1 0,29%

20 điểm 11 3,16%

25 điểm 7 2,01%

30 điểm 15 4,31%

35 điểm 4 1,15%

40 điểm 28 8,05%

45 điểm 6 1,72%

50 điểm 28 8,05%

55 điểm 12 3,45%

60 điểm 46 13,22%

65 điểm 17 4,89%

70 điểm 39 11,21%

75 điểm 20 5,75%

80 điểm 52 14,94%

85 điểm 15 4,31%

90 điểm 31 8,91%

95 điểm 2 0,57%

100 điểm 7 2,01%

Nguồn: Dữ liệu khảo sát của nhóm nghiên cứu Bảng 3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiểu

biết tài chính của sinh viên trên địa bàn Hà Nội

Biến số Hiểu biết tài chính của sinh viên

Hằng số (C) 3.656123***

Ngành học (FIELD) 0.253033***

Giới tính (GENDER) -0.087516*

Quê quán (HOMETOWN) 0.031020 Nơi cư trú hiện tại

(RESIDENCE) 0.010727

Năm học đại học (YEAR) 0.085387***

Ghi chú: * p<0.1, ** p<0,05, *** p<0,01 Nguồn: Kết quả thu được từ mô hình chạy trên

phần mềm Eviews

(8)

quả thống kê chỉ ra rằng sinh viên có số năm học càng cao hoặc đã ra trường có xu hướng hiểu biết tài chính hơn sinh viên năm nhất, năm hai. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến (2014), hơn thế nữa, hầu hết các sinh viên có chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực kinh tế đã học về các môn tài chính cơ bản kể từ năm đầu tiên. Do đó, mức độ hiểu biết tài chính của họ sẽ tăng dần theo từng năm cùng với chương trình học nâng cao hơn ở các năm học về sau của họ. Các sinh viên năm nhất khi tiếp cận với môi trường đại học nên sẽ gặp nhiều vấn đề liên quan đến chi tiêu hàng ngày và rủi ro tài chính, do đó sẽ phải trau dồi và học hỏi thêm nhiều kiến thức để thích nghi dần với môi trường mới này. Hơn thế nữa, sinh viên càng học lên cao thì càng được tiếp cận với các công cụ tài chính. Ngay cả đối với những người không phải sinh viên khối ngành kinh tế, kiến thức của họ cũng có thể cải thiện trong quá trình học do nhu cầu ngày càng tăng của họ về việc tìm hiểu về tài chính để tham gia vào thị trường sau khi tốt nghiệp (Nguyễn Thị Hải Yến, 2014).

Ngoài ra, kết quả từ mô hình chỉ ra rằng biến nơi cư trú và biến quê quán không có ý nghĩa về mặt thống kê cho thấy hai biến này có tác động không đáng kể đến điểm hiểu biết tài chính của sinh viên. Trái lại với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Yến (2014), biến nơi cư trú có tác động lớn đến điểm hiểu biết tài chính, các sinh viên sống ở thành phố Hồ Chí Minh sẽ có điểm hiểu biết tài chính cao hơn, còn đối với các sinh viên sống ở các tỉnh hoặc các thành phố nhỏ thì thu được điểm số thấp hơn. Lý do kết quả của khảo sát ngược lại với nghiên cứu trên là bởi vì nhóm đối tượng được hỏi chỉ tập trung vào sinh viên tại thành phố Hà Nội, cho dù sinh viên có xuất thân từ nông thôn hay thành phố, sống cùng gia đình hay ở thuê thì họ đều có đủ nhận thức về

kiến thức tài chính. Nói cách khác, các sinh viên được hỏi đa số đều được tiếp cận môi trường giáo dục tốt, do đó họ có nhận thức tốt về tài chính bất kể nông thôn hay thành phố. Bởi vậy, nơi cư trú và quê quán không ảnh hưởng đến hiểu biết tài chính của sinh viên tại thành phố Hà Nội.

5. Kết luận và khuyến nghị chính sách Nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy bội dựa trên số liệu thu được từ khảo sát 348 sinh viên để phân tích những nhân tố tác động đến hiểu biết tài chính của sinh viên.

Kết quả nghiên cứu cho thấy sinh viên theo khối ngành kinh tế hoặc trong chương trình có môn học liên quan đến ngành kinh tế- tài chính thì sẽ có hiểu biết tài chính tốt hơn, từ đó có thói quen chi tiêu lành mạnh, tránh được cám dỗ của tín dụng đen. Nghiên cứu cũng tìm ra kết quả cho thấy, nữ sinh viên có hiểu biết tài chính tốt hơn nam, số năm theo học đại học càng nhiều sẽ có tác động tích cực làm tăng khả năng hiểu biết tài chính của sinh viên trên địa bàn thành phố Hà Nội.

Trên cơ sở các kết quả định lượng thu được từ mô hình, với mục đích tăng khả năng hiểu biết tài chính trong sinh viên và triển khai cấu phần giáo dục tài chính qua đó thực hiện hiệu quả chiến lược tài chính toàn diện quốc gia, nhóm nghiên cứu đề xuất một số khuyến nghị chính như sau:

Thứ nhất, nhà trường cần đưa những môn học về quản lý tài chính cơ bản vào chương trình học cho học sinh cấp ba thuộc độ tuổi vị thành niên, bởi vì đây là độ tuổi đã đủ lớn để bắt đầu tiếp thu những kiến thức về tiền bạc, tiết kiệm, rủi ro để làm bước nền cho tương lai của các em sau này. Từ đó, khi lên đại học, các em sẽ có đủ những kiến thức cần thiết cho mình để đối mặt với cuộc sống sinh viên xa gia đình, tránh được những rủi ro tài chính cho bản thân.

(9)

Ngoài ra, không chỉ đưa thêm môn học vào trong chương trình học cho các em học sinh mà còn cần lồng ghép những kiến thức tài chính trong các môn học khác để các em có thể dễ dàng tiếp cận với kiến thức một cách tự nhiên.

Thứ hai, đối với những sinh viên không học khối ngành kinh tế, Bộ Giáo dục và Nhà trường nên xem xét phương án đưa các môn học về hiểu biết tài chính như kĩ năng đầu tư cơ bản, kỹ năng quản lý tiền bạc, kĩ năng lập kế hoạch tài chính vào các chương trình ngoại khoá để sinh viên có thể tiếp

cận được với nguồn kiến thức tài chính một cách cơ bản nhất để làm hành trang cho tương lai.

Thứ ba, Chính phủ cần tuyên truyền, phổ biến mạnh mẽ về tầm quan trọng của kiến thức tài chính đối với mỗi cá nhân nói riêng hay đối với việc phát triển nền kinh tế nói chung. Mỗi sinh viên cần phải có ý thức tự trang bị cho mình những hiểu biết về tài chính cơ bản nhất để từ đó tự bảo vệ mình trước những rủi ro tài chính và hơn thế nữa, điều này còn góp một phần rất lớn vào việc cải thiện nền kinh tế ■

Tài liệu tham khảo

Al-Tamimi & Hussain (2009), “Financial literacy and investment decisions of UAE investors”

Chen & Volpe (2002), “Gender Differences in Personal Financial Literacy Among College Students”

Chen, H., Volpe, R. P. (1998), “An analysis of personal financial literacy among college students”, Financial Services Review, 7 (2), 107–128.

Cordero, J., M, Pedraja, F. (2016), “The effect of financial education training on the financial literacy of Spanish students in PISADanes, S. M. (1994). “Parental Perceptions of Children’s Financial Socialization. Financial Counselling and Planning”, 5, 127-146.

Dougn Dean (2019), “90 percent of online customers in Vietnam face urgent shortage of money”, truy cập ngày 20 tháng 4 năm 2021, < https://vietnaminsider.vn/90-percent-of-online-customers-in-vietnam-face-urgent-shortages- of-money/ >

Eitel, Martin (2009), “First-Generation Female College Students’ Financial Literacy: Real and Perceived Barriers to Degree Completion”

Faboyede ,Olusola Samuel and Ben-Caleb, Egbide and Oyewo, (2015), “Financial literacy education: Key to poverty Alleviation and National Development in Nigeria”, Europe Journal of Accounting Auditing and Finance Research.

Frijins, Aaron B. Gilbert, Alireza Tourani-Rad (2014), “Learning by doing: The role of financial experience in financial literacy”

Goldsmith (2006), “The Effects of Investment Education on Gender Differences in Financial Knowledge”

Hira, Mugenda (2000), “Gender Differences in Financial Perceptions Behaviors and Satisfaction”

Jariah, A.R. Husniyah, P. Laily, Sonya Britt (2004), “Financial behavior and problems among university students:

Need for financial education”

Koenen, Lusardi (2011), “Financial Literacy and Retirement Planning in Germany”.

Kharchenko, Olga (2011), “Financial literacy in Ukraine determinants and implications for saving behavior”

Lê Hoàng Anh, Đỗ Ngọc Duy, Ngô Gia Phong, Nguyễn Thị Thanh Huyền, Hoàng Minh Quang (2018), “Nhân tố ảnh hưởng đến mức độ hiểu biết tài chính cá nhân của sinh viên việt nam”.

Luc Arrondel, Majdi Debbich, Frédérique Savignac (2013), “Financial Literacy and Financial Planning in France”.

Lusardi, Annamaria, Olivia S. Mitchell, and Vilsa Curto. (2011), “Financial Literacy among the Young.” Journal of Consumer Affairs, 44(2): 358–380.

Mandell (2008), “The Impact of Financial Literacy Education on Subsequent Financial Behavior”

Mohamad Fazli Sabri, Maurice MacDonald, Tahira K. Hira, Jariah Masud (2010), “Childhood Consumer Experience and the Financial Literacy of College Students in Malaysia”, volume 38, issue 4 pages 455-467.

Murphy, John L. (2005), “Psychosocial Factors and Financial Literacy”.

Nguyễn Đăng Tuệ, Hứa Phương Linh (2019), “Việt Nam học được gì từ giáo dục tài chính tại Singapore?”, < https://

giaoduc.net.vn/giao-duc-24h/viet-nam-hoc-duoc-gi-tu-giao-duc-tai-chinh-tai-singapore-post185752.gd >

Nguyen Thi Hai Yen (2014), “Evaluate Financial Literacy of Vietnamese Students in Higher Education and Its Determinants- The need of Financial Education”, tra cứu tại: http://veam.org/wp-content/uploads/2017/12/20.- Nguyen-Thi-Hai-Yen.pdf.

Nguyễn Thị Thu Hoài (2020), “Phát triển tài chính toàn diện và giải pháp cho Việt Nam trong bối cảnh mới”, truy cập

(10)

ngày 19/5/2021, < https://tapchitaichinh.vn/su-kien-noi-bat/phat-trien-tai-chinh-toan-dien-va-giai-phap-cho-viet- nam-trong-boi-canh-moi-328422.html >

OECD & INFE (2018), “OECD/INFE Toolkit for measuring financial literacy and financial inclusion”

Peng, T., Bartholomae, S., Fox, J. J., & Cravener, G. (2007), “The impact of personal finance education delivered in high school and college courses”, Journal of Family and Economic Issues, 28 (2), 265–284.

Yap, R. J. C,Komalasari, F., Hadiansah, I. (2016), “The Effect of Financial Literacy and Attitude on Financial

Management Behavior and Satisfaction”, International Journal of Administrative Science & Organization, Vol. 23.

Shawn Cole, Xavier Giné, Jeremy Tobacman, Robert Townsend, Petia Topalova, and James Vickery (2008), “Barriers to Household Risk Management: Evidence from India”.

Shim, S., Barber, B., Card, N., Xiao, J. J., & Serido, J. (2010), “Financial socialization of first-year college students:

the roles of parents, work, and education”, Journal of Youth and Adolescence, 39 (12), 1457–1470.

Thủ tướng Chính phủ (2020), “Quyết định số 149/QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược tài chính toàn diện quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

Trần Thanh Thu và Đào Hồng Nhung (2020) “Chương trình giáo dục tài chính quốc gia trong bối cảnh số hoá ngành Tài chính: Kinh nghiệm và đề xuất cho Việt Nam”

Xiao, J. J., Tang, C., & Shim, S. (2009), “Acting for happiness: financial behavior and life satisfaction of college students”, Social Indicators Research, 92, 53–68.

Referensi

Dokumen terkait

Đảm bảo chất lượng bên trong liên quan đến các chính sách và cơ chế của mỗi cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo để đảm bảo rằng cơ sở giáo dục hoặc chương trình đào tạo đó thực