TỈ LỆ STRESS VÀ CHIẾN LƯỢC ỨNG PHÓ CỦA SINH VIÊN Y HỌC DỰ PHÒNG, ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Nguyễn Thái Sang*, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Stress có tác động tích cực, cũng là chất kích thích giúp chúng ta nỗ lực hơn để vượt qua thử thách và đạt mục tiêu. Tuy nhiên, nếu vượt quá giới hạn, stress sẽ gây tác động tiêu cực đến sức khỏe thể chất và tinh thần. Tỉ lệ sinh viên y khoa được chẩn đoán trầm cảm, lo âu tương đối cao. Nghiên cứu này được thực hiện nhằm khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và chiến lược ứng phó với stress của sinh viên ngành Y học dự phòng, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh nhằm tìm hiểu và đưa ra các can thiệp phù hợp.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tiến hành trên 381 sinh viên Y học dự phòng tại Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ câu hỏi tự điền được thiết kế gồm 3 phần chính nhằm đánh giá các dấu hiệu stress (thang đo DASS-21), chiến lược ứng phó khi gặp stress (CSI) và các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội có liên quan đến việc lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress.
Kết quả: Tỉ lệ sinh viên có dấu hiệu stress, lo âu, trầm cảm lần lượt là 45,5%;63,0%;49,6%. Khi gặp stress, sinh viên Y học dự phòng có khuynh hướng lựa chọn chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại nhận thức” và ít khi chọn
“Bộc lộ cảm xúc”. Sinh viên nữ thường xuyên sử dụng các chiến lược ứng phó “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” hơn so với các sinh viên nam.
Kết luận: Tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm của sinh viên Y học dự phòng khá cao. Phần lớn sinh viên lựa chọn các chiến lược mang tính tích cực để ứng phó với stress. Khi xây dựng các chương trình can thiệp, nhà trường cần lưu ý đến các yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình, yếu tố xã hội.
Từ khóa: stress, lo âu, trầm cảm, chiến lược ứng phó với stress
ABTRACT
STRESS SITUATION AND COPING STRATEGIES OF PREVENTIVE MEDICINE STUDENTS AT UNIVERSITY OF MEDICINE AND PHARMACY AT HO CHI MINH CITY
Nguyen Thai Sang, Huynh Ho Ngoc Quynh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 48 - 54 Background: Stress has positive and negative effects. Positive stress protect us from dangerous factors and encourage us overcome challenges. However, stress can also be harmful and had negative effect. It influences to people’s working ability, physical and metal, even quality of life. This survey was conducted to examine the prevalence of stress, anxiety, depression of preventive medicine students and exploring coping strategies they were apllied when get stress.
Methods: A cross-sectional survey was conducted with a total of 381 students participated. The questionnaire included 3 main parts: self stress identify (DASS-21 scale), coping strategies (CSI scale) and associate factors.
Results: The prevalence of stress, anxiety and depression were 45.5%; 63%; 49.6% respectively.
Participants prefered to choose “cognitive restructuring” strategy when getting stress and did not want to
“express emotion”. Female students tend to apply “social support” strategies compare male students.
*Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: TS. Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh ĐT: 0909592426 Email: [email protected]
Conclusion: The proportion of stress disorder of preventive medicine students is high. The majority of students use positive strategies for coping with stress. The choice of coping strategies related to individual, family and social factors.
Key words: stress, anxiety, depression, coping stress, preventive medicine students
ĐẶT VẤN ĐỀ
Stress là một trong những vấn đề sức khỏe tâm thần thu hút nhiều nhà nghiên cứu, đặc biệt là trong môi trường Y khoa, nơi tỉ lệ sinh viên bị stress nhiều nhất(1). Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng stress trên thế giới ngày càng nghiêm trọng, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Các nhà nghiên cứu lĩnh vực Y tế công cộng tại Mỹ nhận định rằng có đến 90% các bệnh tật và rối loạn sức khỏe tại Mỹ có liên quan đến stress. Một nghiên cứu khác được thực hiện tại Hàn Quốc ghi nhận rằng tự tử là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở thanh thiếu niên Hàn Quốc, trong đó căng thẳng trong học tập là một yếu tố nguy cơ chính và có liên quan với trầm cảm(2). Ở Việt Nam, báo cáo của Viện Tâm Thần Trung Ương vào năm 2013 cho thấy tỉ lệ người có rối loạn tâm thần ở Việt Nam chiếm 15- 20% dân số. Stress không chỉ riêng ở lao động, stress có cả trong việc học tập(3). Sinh viên Y học dự phòng (YHDP) có rất nhiều hạn chế trong việc tự đánh giá sự hiểu biết của mình về ngành học và định hướng nghề nghiệp(4). Cơ chế tuyển dụng đối với mảng Y học dự phòng còn nhiều bất cập, dẫn đến nhiều khó khăn cho sinh viên YHDP khi tìm nơi làm việc sau khi tốt nghiệp và cũng góp phần gây lo âu, căng thẳng cho sinh viên YHDP khi còn đang học(5). Hơn nữa các nghiên cứu khảo sát tình trạng stress của sinh viên YHDP còn rất ít và chưa có nghiên cứu nào khảo sát về chiến lược ứng phó với stress trên đối tượng sinh viên YHDP.
Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát tỉ lệ stress, lo âu, trầm cảm và tìm hiểu các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội liên quan đến việc lựa chọn chiến lược ứng phó với các tình huống gây stress của sinh viên YHDP.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuTrên 381 sinh viên YHDP đồng ý tham gia nghiên cứu tại Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh từ ngày 01/03/2019 đến 01/06/2019.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Được tính dựa trên công thức ước lượng cỡ mẫu dựa vào một tỉ lệ với p = 0,45 (Tỉ lệ stress của sinh viên khoa Y tế công cộng năm 2017 theo tác giả Lê Hoàng Thanh Nhung).
Số mẫu phải lấy mỗi lớp được tính theo kỹ thuật chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng theo lớp.
Sau khi tính được số sinh viên chọn mỗi lớp, liên hệ trực tiếp với lớp trưởng từng lớp để xin danh sách mỗi lớp. Sau đó chọn số ngẫu nhiên trên phần mềm Excel đúng với số mẫu tương ứng mỗi lớp dựa trên danh sách của mỗi lớp. Nhờ lớp trưởng thông báo trước đến các bạn được chọn để các bạn đến lớp được nhận và tự điền bộ câu hỏi.
Thu thập và phân tích dữ liệu
Dữ liệu được thu thập gián tiếp thông qua bộ câu hỏi tự điền trên giấy. Bộ câu hỏi phỏng vấn gồm 3 phần: Thang đo tự cảm nhận stress – lo âu – trầm cảm dựa trên thang đo DASS – 21;
Đánh giá chiến lược ứng phó với stress dựa trên thang đo CSI và các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội. Cả hai thang đo DASS-21 và CSI đều đã được chuẩn hóa tại Việt Nam. Theo thang đo DASS-21, sinh viên được xác định là có dấu hiệu stress khi điểm số đo lường stress ≥15 điểm; sinh viên có dấu hiệu lo âu khi điểm số đo lường lo âu ≥8 điểm; sinh viên có dấu hiệu trầm cảm khi điểm số đo lường trầm cảm ≥10 điểm. Theo thang đo CSI, trong các chiến lược ứng phó với
stress được sinh viên chọn, chiến lược có điểm trung bình cao nhất được xem là chiến lược ứng phó được sinh viên sử dụng nhiều nhất.
Dữ liệu được phân tích bằng phần mềm Stata 14. Các số thống kê mô tả được trình bày theo dạng tần số và tỉ lệ đối với các biến số định tính, trung bình và độ lệch chuẩn đối với biến số định lượng. Kiểm định Independent Sample t- test để so sánh điểm trung bình chiến lược ứng phó với các biến nhị giá; kiểm định ANOVA được sử dụng để so sánh điểm trung bình cách thức ứng phó với các biến số danh định, thứ tự.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Tỉ lệ sinh viên chọn các chiến lược ứng phó với stress
STT Loại ứng phó Tần suất Tỉ lệ (%)
1 Giải quyết vấn đề 102 26,8
2 Cấu trúc lại nhận thức 122 32,0 3 Tìm kiếm chỗ dựa xã hội 70 18,4
4 Bộc lộ cảm xúc 15 3,9
5 Lảng tránh vấn đề 26 6,8
6 Mơ tưởng 73 19,2
7 Cô lập bản thân 62 16,3
8 Đổ lỗi cho bản thân 45 11,8
Nghiên cứu được thực hiện trên 381 sinh viên Y học dự phòng với tỉ lệ phản hồi là 100%;
trong đó tỉ lệ sinh viên có dấu hiệu stress, lo âu, trầm cảm lần lượt là 45,5%, 63% và 49,6%. Tỉ lệ
sinh viên có dấu hiệu stress ở mức độ nặng và rất nặng tương đối cao (7,9% và 2,4%). Phần lớn đối tượng nghiên cứu có khuynh hướng lựa chọn các chiến lược ứng phó mang tính tích cực khi gặp stress. Sinh viên lựa chọn chiến lược
“Cấu trúc lại nhận thức” để ứng phó với stress thường xuyên nhất (32,0%). Ngược lại, “Bộc lộ cảm xúc” là chiến lược ứng phó mà ít được sinh viên lựa chọn nhất (3,9%) (Bảng 1).
Đối với yếu tố cá nhân, những sinh viên ≤ 20 tuổi chọn các chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại nhận thức”, “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội”, “Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân” và “Đổ lỗi cho bản thân” nhiều hơn so với các sinh viên >20 tuổi.
Sinh viên nữ đa số chọn chiến lược phó “Cấu trúc lại nhận thức”; “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội”
và “Lảng tránh vấn đề” nhiều hơn so với sinh viên nam. Mặt khác, sinh viên năm 6 ít chọn các chiến lược ứng phó “Cấu trúc lại nhận thức”,
“Tìm kiếm chỗ dựa xã hội”, “Bộc lộ cảm xúc”,
“Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân”, “Đổ lỗi cho bản thân” so với sinh viên các năm còn lại. So với các sinh viên có tính cách hướng ngoại, sinh viên hướng nội ít chọn cách “Giải quyết vấn đề”,
“Cấu trúc lại nhận thức”, “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” và thường chọn cách “Mơ tưởng” và “Cô lập bản thân” nhiều hơn (Bảng 2).
Bảng 2. Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố cá nhân
Đặc điểm
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH
Đối đầu tập trung vào vấn đề
Đối đầu tập trung vào cảm xúc
Lảng tránh tập trung vào vấn đề
Lảng tránh tập trung vào cảm xúc Giải quyết
vấn đề
Cấu trúc lại nhận thức
Tìm kiếm chỗ dựa xã hội
Bộc lộ cảm xúc
Lảng tránh
vấn đề Mơ tưởng Cô lập bản thân
Đổ lỗi cho bản thân TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ± ĐLC p Nhóm tuổi*
≤20 tuổi 2,5±0,7 0,08 2,6±0,6 0,00 2,3±0,7 0,00 2,1±0,5 0,20 2,1±0,6 0,13 2,4±0,6 0,00 2,4±0,7 0,00 2,2±0,7 0,00
>20 tuổi 2,4±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,5 2,1±0,7 2,1±0,6 1,9±0,7 Giới tính*
Nam 2,4±0,6 0,74 2,3±0,6 0,01 2,0±0,6 0,03 2,0±0,5 0,25 1,9±0,6 0,02 2,2±0,7 0,51 2,1±0,6 0,12 2,0±0,7 0,76 Nữ 2,4±0,6 2,5±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,2±0,7 2,0±0,7
Hướng tính cách*
Hướng
nội 2,3±0,5 0,02 2,4±0,6 0,003 2,1±0,7 0,01 2,0±0,5 0,19 2,0±0,4 0,58 2,3±0,7 0,04 2,2±0,6 0,00 2,1±0,7 0,32 Hướng
ngoại 2,5±0,7 2,6±0,7 2,3±0,7 2,1±0,5 2,1±0,5 2,1±0,6 2,0±0,7 2,0±0,7
Đặc điểm
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH
Đối đầu tập trung vào vấn đề
Đối đầu tập trung vào cảm xúc
Lảng tránh tập trung vào vấn đề
Lảng tránh tập trung vào cảm xúc Giải quyết
vấn đề
Cấu trúc lại nhận thức
Tìm kiếm chỗ dựa xã hội
Bộc lộ cảm xúc
Lảng tránh
vấn đề Mơ tưởng Cô lập bản thân
Đổ lỗi cho bản thân TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ± ĐLC p Năm học**
Năm 1 2,5±0,7 0,13 2,6±0,6 0,00 2,3±0,7 0,03 2,1±0,5 0,03 2,2±0,6 0,10 2,5±0,6 0,00 2,4±0,7 0,00 2,3±0,7 0,00 Năm 2 2,5±0,6 2,5±0,5 2,2±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,3±0,7 2,2±0,7 2,1±0,7 Năm 3 2,4±0,6 2,4±0,6 2,0±0,8 1,9±0,6 2,0±0,4 2,0±0,8 2,1±0,7 1,9±0,8 Năm 4 2,4±0,6 2,4±0,7 2,2±0,8 2,1±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,1±0,6 2,1±0,7 Năm 5 2,4±0,5 2,5±0,5 2,1±0,5 2,0±0,4 2,0±0,5 2,2±0,6 2,0±0,6 1,8±0,6 Năm 6 2,2±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 1,9±0,4 1,9±0,6 2,1±0,7 2,0±0,6 1,9±0,6
* Independent Sample T-Test ** Anova
Bảng 3: Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố gia đình
Đặc điểm
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH
Đối đầu tập trung vào vấn đề
Đối đầu tập trung vào cảm xúc
Lảng tránh tập trung vào vấn đề
Lảng tránh tập trung vào cảm xúc
Giải quyết vấn đề
Cấu trúc lại nhận thức
Tìm kiếm chỗ dựa XH
Bộc lộ cảm xúc
Lảng tránh
vấn đề Mơ tưởng Cô lập bản thân
Đổ lỗi cho bản thân TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ± ĐLC p Chỉ tiêu học tập do cha mẹ/người thân đặt ra*
Có 2,4±0,6 0,45 2,4±0,6 0,61 2,3±0,6 0,09 2,1±0,5 0,29 2,1±0,5 0,14 2,4±0,7 0,04 2,3±0,7 0,01 2,2±0,7 0,00 Không 2,4±0,6 2,5±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,2±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7
Có người yêu*
Có 2,4±0,6 0,86 2,5±0,6 0,94 2,2±0,7 0,51 2,0±0,5 0,23 2,0±0,5 0,35 2,1±0,7 0,04 2,0±0,6 0,00 1,9±0,7 0,04 Không 2,4±0,6 2,5±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,3±0,7 2,3±0,6 2,1±0,7
Cảm nhận hạnh phúc gia đình**
Rất HP 2,5±0,6 0,04 2,5±0,7 0,58 2,2±0,7 0,56 2,0±0,6 0,69 2,1±0,6 0,46 2,2±0,7 0,36 2,2±0,7 0,21 2,1±0,7 0,14 HP 2,3±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,3±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7 Không
HP 2,5±0,5 2,5±0,5 2,1±0,5 2,1±0,4 2,1±0,6 2,3±0,7 2,4±0,7 2,2±0,8
* Independent Sample T-Test ** Anova
Bảng 4: Mối liên quan giữa việc chọn chiến lược ứng phó với yếu tố xã hội
Đặc điểm
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH
Đối đầu tập trung vào vấn đề
Đối đầu tập trung vào cảm xúc
Lảng tránh tập trung vào vấn đề
Lảng tránh tập trung vào cảm xúc
Giải quyết vấn đề
Cấu trúc lại nhận thức
Tìm kiếm chỗ dựa XH
Bộc lộ cảm xúc
Lảng tránh
vấn đề Mơ tưởng Cô lập bản thân
Đổ lỗi cho bản thân TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ± ĐLC p Áp lực học tập*
Có 2,4±0,6 0,42 2,5±0,6 0,69 2,2±0,7 0,26 2,0±0,5 0,15 2,0±0,6 0,54 2,3±0,7 0,00 2,2±0,7 0,60 2,1±0,7 0,07 Không 2,5±0,6 2,5±0,7 2,1±0,7 1,9±0,5 2,1±0,6 2,0±0,7 2,1±0,6 1,9±0,7
Hài lòng với ngành học**
Rất HL 2,6±0,7 0,00 2,6±0,7 0,04 2,3±0,7 0,06 2,1±0,6 0,25 1,9±0,5 0,15 2,4±0,7 0,00 2,4±0,7 0,00 2,2±0,8 0,11 Hài lòng 2,4±0,6 2,5±0,6 2,2±0,7 2,0±0,5 2,1±0,6 2,2±0,7 2,1±0,6 2,0±0,7
Không
HL 2,3±0,5 2,3±0,6 2,0±0,7 1,9±0,6 2,0±0,6 2,2±0,7 2,1±0,7 1,9±0,7 Rất 2,0±0,3 2,3±0,4 1,9±0,9 2,0±0,3 1,8±0,5 3,1±0,8 2,7±0,7 2,3±0,7
Đặc điểm
ĐỐI ĐẦU LẢNG TRÁNH
Đối đầu tập trung vào vấn đề
Đối đầu tập trung vào cảm xúc
Lảng tránh tập trung vào vấn đề
Lảng tránh tập trung vào cảm xúc
Giải quyết vấn đề
Cấu trúc lại nhận thức
Tìm kiếm chỗ dựa XH
Bộc lộ cảm xúc
Lảng tránh
vấn đề Mơ tưởng Cô lập bản thân
Đổ lỗi cho bản thân TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ±
ĐLC p TB ± ĐLC p không
HL
Hài lòng với mối quan hệ bạn bè**
Rất hài
lòng 2,5±0,6 0,51 2,6±0,7 0,12 2,4±0,8 0,00 2,0±0,6 0,36 2,0±0,5 0,28 2,3±0,6 0,83 2,1±0,7 0,38 2,1±0,8 0,59 Hài lòng 2,4±0,6 2,4±0,6 2,1±0,7 2,0±0,5 2,0±0,6 2,2±0,7 2,2±0,6 2,0±0,7
Không
hài lòng 2,4±0,4 2,4±0,5 2,0±0,7 2,0±0,4 2,2±0,5 2,3±0,7 2,2±0,6 2,2±0,6 Rất
không hài lòng
2,4±0 3,0±0 2,6±0 2,8±0 2,6±0 2,6±0 3,2±0 2,4±0
* Independent Sample T-Test ** Anova
Đối với các yếu tố liên quan đến gia đình, những sinh viên bị cha mẹ/người thân đặt ra chỉ tiêu học tập thường chọn cách ứng phó “Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân”, “Đổ lỗi cho bản thân” nhiều hơn. Các sinh viên cảm nhận gia đình rất hạnh phúc (HP) chọn cách ứng phó
“Giải quyết vấn đề” (Bảng 3).
Riêng đối với các yếu tố xã hội, các sinh viên không có áp lực học tập thường ít chọn cách ứng phó “Mơ tưởng”. Những sinh viên cảm thấy không hài lòng với ngành học ít chọn cách “Giải quyết vấn đề”, “Cấu trúc lại nhận thức” và thường chọn cách ứng phó “Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân” nhiều hơn. Sinh viên cảm thấy hài lòng với mối quan hệ bạn bè chọn cách ứng phó
“Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” nhiều hơn so với các sinh viên còn lại. Sinh viên không bao giờ tham gia các hoạt động ngoại khóa ít chọn cách ứng phó “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” (Bảng 4).
BÀN LUẬN
Stress là một trong những vấn đề đang được quan tâm không chỉ riêng ở Việt Nam mà còn trên cả thế giới, đặc biệt là sinh viên y khoa.
Nghiên cứu sử dụng thang đo DASS-21, một thang đo có tính giá trị cao đối với stress – lo âu - trầm cảm được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tỉ lệ sinh viên YHDP có dấu hiệu
stress là 45,5%. Mức độ các dấu hiệu stress nhẹ, vừa, nặng và rất nặng lần lượt là 19,7%; 15,5%;
7,9%; và 2,4%. Kết quả này khá tương đồng với kết quả nghiên cứu năm 2017 của tác giả Lê Hoàng Thanh Nhung được thực hiện cùng đối tượng và địa điểm(6).
“Cấu trúc lại nhận thức” là chiến lược ứng phó được sinh viên chọn nhiều nhất tỉ lệ là 32,0%, tiếp sau đó là “Giải quyết vấn đề” với 26,8%. Một nghiên cứu tại Malaysia của Sami Abdo Radman Al-Dubai và cộng sự đưa ra kết quả rằng sinh viên có khuynh hướng chọn các chiến lược ứng phó mang tính tích cực để đối đầu với stress như tái định hình tôn giáo, lập kế hoạch đối phó với stress(7). Tại Pakistan, thể thao, âm nhạc, sinh hoạt với bạn bè, ngủ là các chiến lược ứng phó được sinh viên y sử dụng để ứng phó với stress(8). Khác với các nghiên cứu trên, các nghiên cứu tại Anh báo cáo rằng việc sử dụng rượu, thuốc lá, ma túy dường như là các chiến lược ứng phó với stress được sinh viên áp dụng phổ biến(9,10). Đây được xem là một kết quả rất tích cực khi đa số sinh viên YHDP chọn “Giải quyết vấn đề” và “Cấu trúc lại nhận thức” chiến lược ứng phó với stress, là hai chiến lược ứng phó nằm trong nhóm ứng phó “đối đầu tập trung vào vấn đề” – nhóm được xem là mang lại nhiều hiệu quả và làm giảm mức độ stress triệt để nhất(11). Hơn nữa, hệ số tương quan thuận
giữa hai chiến lược ứng phó “Giải quyết vấn đề”
và “Cấu trúc lại nhận thức” mạnh (r=0,66 với p<0,001), điều đó có nghĩa rằng sinh viên khá đồng thuận trong việc sử dụng hai chiến lược ứng phó có tính hiệu quả cao này.
Kết quả nghiên cứu cho thấy việc lựa chọn các chiến lược ứng phó của sinh viên YHDP ảnh hưởng bởi các yếu tố cá nhân, gia đình, xã hội.
So với nghiên cứu của tác giả Al-Dubai SAR và cộng sự, việc lựa chọn chiến lược ứng phó với stress của sinh viên ảnh hưởng bởi đặc điểm dân tộc, văn hóa, kinh tế xã hội. Kết quả phân tích cũng cho thấy sinh viên nữ đa số chọn chiến lược phó “Cấu trúc lại nhận thức”, “Tìm kiếm chỗ dựa xã hội” và “Lảng tránh vấn đề” nhiều hơn so với sinh viên nam. Nghiên cứu của Al- Dubai SAR và cộng sự đưa ra kết quả rằng sinh viên nữ có khuynh hướng sử dụng các chiến lược ứng phó mang tính cảm xúc và né tránh hơn so với sinh viên nam(7).
Đa số các sinh viên có cha mẹ/người thân đặt ra chỉ tiêu học tập thường xuyên chọn các chiến lược ứng phó tiêu cực hơn so với các sinh viên còn lại. Trong đó gồm có “Mơ tưởng”, “Cô lập bản thân” và “Đổ lỗi cho bản thân”. Chiến lược
“Mơ tưởng” được sử dụng thường xuyên nhất.
Đối với văn hóa Á Đông, gia đình là một trong những điểm tựa vững chắc cho sinh viên khi đối mặt với stress. Khi không đạt được sự kỳ vọng của gia đình, có thể sinh viên sẽ bị trách móc, bị tổn thương tâm lý. Khi mất đi điểm tựa vững chãi là gia đình, họ sẽ có xu hướng lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress mang tính tiêu cực hơn.
Nghiên cứu cũng ghi nhận được rằng, nhóm sinh viên hài lòng với ngành học có khuynh hướng thường xuyên lựa chọn các chiến lược ứng phó với stress mang tính tích cực hơn. Cụ thể là “Giải quyết vấn đề” và “Cấu trúc lại nhận thức” được các sinh viên hài lòng với ngành học thường xuyên lựa chọn nhất. Ngược lại, nhóm sinh viên không hài lòng với ngành học thường xuyên chọn những chiến lược ứng phó mang tiêu cực để ứng phó với stress hơn là “Mơ tưởng” và “Cô lập bản thân”. Tại Việt Nam, đa
số ngành học của con cái thường được chọn bởi cha mẹ. Việc bị bắt buộc học ngành mình không thích khiến sinh viên phải chịu những tác động tâm lý trái chiều. Khi họ không cảm thấy thích thú, hài lòng với ngành mình đang học thì động lực và hứng thú của họ sẽ luôn ở mức thấp(12). Có lẽ với những sinh viên hài lòng với ngành học, có được một tâm lý thoải mái, lạc quan nên họ rất tích cực trong việc học nói riêng và các vấn đề trong cuộc sống nói chung, từ đó việc lựa chọn chiến lược ứng phó với căng thẳng, khó khăn cũng tích cực hơn. Mỗi khi gặp khó khăn, họ cấu trúc lại nhận thức và sẵn sàng đối đầu giải quyết vấn đề. Ngược lại, những sinh viên không hài lòng với ngành học, có lẽ họ cảm thấy không an toàn, họ thường xuyên cảm thấy thất vọng, không thoải mái. Lâu dần họ có xu hướng kỳ vọng về những điều tốt đẹp sẽ xảy ra mà không chú tâm vào việc giải quyết mỗi khi gặp khó khăn trong việc học nói riêng và các vấn đề trong cuộc sống nói chung, hoặc họ chọn cách cô lập bản thân để không phải đối mặt với những căng thẳng.
KẾT LUẬN
Hơn 45% sinh viên có dấu hiệu stress ở các mức độ khác nhau. Sinh viên có khuynh hướng lựa chọn chiến lược “Cấu trúc lại nhận thức”
thường xuyên nhất để ứng phó với stress (32,02%). Có mối liên quan giữa việc lựa chọn các chiến lược ứng phó stress với các yếu tố như năm học, hướng tính cách, nơi ở, áp lực từ cha mẹ/người thân đối với vấn đề học tập, áp lực học tập của bản thân sinh viên.
KIẾN NGHỊ
Qua kết quả nghiên cứu, sinh viên nên xây dựng kế hoạch học tập ngay từ đầu bước chân vào môi trường học tập mới, chủ động chia sẻ những lo lắng, băn khoăn với bạn bè, thầy cô hoặc chuyên gia tâm lý khi khó khăn vượt qua tầm kiểm soát của bản thân. Gia đình của các em cũng không nên quá khắt khe trong việc đặt ra chỉ tiêu học tập cho con cái. Nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoại khóa như
chương trình tình nguyện, giao lưu âm nhạc, thể dục thể thao để cải thiện sức khỏe thể chất và tâm thần cho sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Rosiek A, Rosiek-Kryszewska A, Leksowski L, Leksowski K (2016). Chronic Stress and Suicidal Thinking Among Medical Students. Int J Environ Res Public Health, 13(2):212.
2. Kwak CW, Ickovics JR (2019). Adolescent suicide in South Korea: Risk factors and proposed multi-dimensional solution.
Asian J Psychiatr, 43:150-153.
3. Nguyễn Thị Dinh (2014). Tỷ lệ stress và các yếu tố liên quan của sinh viên Y Học Dự Phòng ĐHYD TP. HCM. Khoa Y Tế Công Cộng, ĐH Y Dược TP. HCM.
4. Đoàn Thị Thu Huyền (2015). Hiểu biết về ngành học và định hướng nghề nghiệp của sinh viên năm thứ nhất ngành y học dự phòng và y tế công cộng tại Trường đại học Y Hà Nội năm 2014.
Y học Dự phòng, 25(166):488.
5. Nguyễn Thanh Long, Vũ Sinh Nam (2013). Nhân lực y tế dự phòng: Thực trạng, thách thức và giải pháp. Y học Dự phòng, 12(148):106-109.
6. Lê Hoàng Thanh Nhung (2017) Stress và các yếu tố liên quan của sinh viên khoa Y tế Công cộng Đại học Y Dược TP. HCM 2017. Khóa luận Tốt nghiệp Bác sĩ Y học Dự phòng, Khoa Y Tế Công Cộng, Đại học Y Dược TP. HCM.
7. Al-Dubai SAR, AAl-Naggar R, Mustafa AA, Krishna GR (2011).
Stress and Coping Strategies of Students in a Medical Faculty in Malaysia. Malays J Med Sci, 18(3):57–64.
8. Shaikh BT, Kahloon A, Kazmi M, Khalid H, Nawaz K, Khan N, et al (2004). Students, stress and coping strategies: A case of Pakistani medical school. Educ Health, 17(3):346–353.
9. Ashton CH, Kamali F (1995). Personality, lifestyles, alcohol and drug consumption in a sample of British medical students. Med Educ, 29(3):187–92.
10. Guthrie EA, Black D, Shaw CM, Hamilton J, Creed FH, Tomenson B. (1995). Embarking upon a medical career:
Psychological morbidity in first year medical students. Med Educ, 29(5):337–341.
11. Tobin D (1989). The hierarchical factor structure of the coping strategies inventory. Cognitive Therapy and Research, 13(4):343- 361.
12. Nguyễn Thành Trung (2017). Thực trạng stress, lo âu, trầm cảm và các yếu tố liên quan trong sinh viên cử nhân trừờng đại học y tế công cộng năm 2017. Luận văn Thạc sỹ Y tế Công cộng, trường Đại học Y tế công cộng.
Ngày nhận bài báo: 15/11/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 18/11/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020