TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ THÓI QUEN ĂN UỐNG CỦA HỌC SINH LỨA TUỔI 13-17
TẠI MỘT SỐ TRƯỜNG PHỔ THÔNG NĂM 2017
Nguyễn Thị Hồng Diễm*, Trần Quỳnh Anh**
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Lứa tuổi 13-17 là lứa tuổi vị thành viên với nhiều thay đổi trong phát triển thể chất và tinh thần. Tình trạng dinh dưỡng tốt và thói quen ăn uống phù hợp giúp cho các em có nền tảng thể lực tốt cho quá trình phát triển sau này.
Mục tiêu: Mô tả tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống của học sinh lứa tuổi 13-17 tại một số trường phổ thông tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ năm 2017.
Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Địa điểm nghiên cứu: 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Học sinh từ lớp 8-lớp 12 tại 24 trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Tổng số có 6.407 học sinh đã tham gia vào nghiên cứu.
Kết quả: Tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là 11,1% (nam 15,6% và nữ 7,1%), tỷ lệ học sinh suy dinh dưỡng là 9,5% (nam 12,5% và nữ 7,0%). Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn trái cây ≥1 lần/ngày là 79%. Tỷ lệ học sinh ăn rau ≥1 lần/ngày là 88%. Tỷ lệ học sinh uống nước có ga ≥1 lần/ngày là 29%. Trong 7 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn đồ ăn nhanh >1 lần trong tuần là 21%.
Kết luận: Mặc dù phần lớn học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường và thói quen ăn uống phù hợp, còn một tỷ lệ đáng kể suy dinh dưỡng, thừa cân, béo phì, tiêu thụ nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh thường xuyên. Các hoạt động truyền thông giáo dục sức khỏe về dinh dưỡng cần tiếp tục hướng đến nhóm đối tượng này, nhất là học sinh nam
Từ khóa: học sinh tuổi 13-17, dinh dưỡng, thói quen ăn uống
ABSTRACT
NUTRITION STATUS AND EATING HABIT AMONG SCHOOL STUDENTS AGED 13-17 IN 2017 Nguyen Thi Hong Diem, Tran Quynh Anh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 174 - 179 Background: School students in the period of adolescent ages from 13-17 are facing with many changes in mental health and physical health. Good nutrition status and eating habit are important factors for healthy development in a later life.
Objectives: To describe nutrition status and eating habit among school students aged 13-17 in some schools at four provinces of Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ in 2017.
Methods: Applying cross-sectional study design. Study sites: Hải Phòng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ.
School students grades 8-grades 12 at 24 secondary and high schools. In total 6.407 students have been participated in the survey.
Results: The percentage of students with overweight and obese were 11.1% (male 15,6% and female 7.1%), the percentage of students with underweight were 9.5% (male 12.5% and female 7.0%). The percentage of
*Cục Y tế dự phòng, Bộ Y tế
**Viện Đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng-Trường Đại học Y Hà Nội
Tác giả liên lạc: TS.BS. Nguyễn Thị Hồng Diễm ĐT: 0905165239 Email: [email protected]
students eating fruits ≥1 time/day during past 30 days were 9%; eating vegetable were 88%. The percentage of students consuming carbonated soft drinking ≥1 time/day during past 30 days were 29%. The percentage of students consuming fast food ≥1 time/day during past 7 days were 21%.
Conclusion: Although majority of participants have good nutrition status and eating habit, there have been significant number of students with bad nutrition status and eating habit including underweight, overweight, obese, consuming carbonated soft drink and fast foods regularly. Nutrition communication program need to be continued for this target population, especially male students.
Keywords: school students aged 13-17, nutrition status, eating habits
ĐẶT VẤN ĐỀ
Các nghiên cứu trên thế giới đều nhấn mạnh đến sự cần thiết phải quan tâm đến sức khỏe lứa tuổi vị thành niên. Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ về thể chất và thường được coi là lứa tuổi khỏe mạnh, nhưng ở tuổi này việc hình thành các hành vi sức khỏe xấu sẽ dẫn đến ảnh hưởng đến sức khỏe sau này, đặc biệt là nguy cơ mắc các bệnh không lây nhiễm. Tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống ở lứa tuổi này là một yếu tố quan trọng đối với sức khỏe thể chất của lứa tuổi này. Ở Việt Nam hiện nay, gánh nặng kép của dinh dưỡng cộng đồng là vừa phải giải quyết với tình trạng suy dinh dưỡng, vừa phải kiểm soát tình trạng thừa cân, béo phì đang có xu hướng gia tăng(1).
Nghiên cứu của Heba A (2011)(2) trên 1400 học sinh từ 11-17 tuổi ở Seychelles cho biết có khoảng 24% học sinh thừa cân không nhận thức được mình bị thừa cân và 29% học sinh cân nặng bình thường lại cho là mình bị gầy. Nhận thức về cân nặng của học sinh có liên quan chặt chẽ đến hành vi kiểm soát ăn uống. Một nghiên cứu hệ thống hơn 2.000 bài báo trên toàn cầu nhằm tìm hiểu tỷ lệ vị thành niên tham gia hoạt động thể chất không đầy đủ (<60 phút/ngày theo Tổ chức Y tế Thế giới) cho thấy tỷ lệ này là 79,7%, tỷ lệ cao hơn ở nữ, và ở các nước đang phát triển tỷ lệ vị thành niên tham gia hoạt động thể chất không đầy đủ cao hơn ở các nước phát triển.
Tại Việt Nam, lứa tuổi học sinh từ 13-17 tuổi, thường được gọi là tuổi dậy thì, là lứa tuổi có những thay đổi lớn về thể chất và tinh thần. Các hành vi sức khỏe ở lứa tuổi này liên quan chặt chẽ đến tình trạng sức khỏe thể chất và tinh thần
của học sinh cả trong hiện tại và khi bước sang tuổi trưởng thành, gồm có các hành vi như thói quen ăn uống, thói quen vệ sinh, sử dụng đồ uống có cồn hay chất gây nghiện, bạo lực và bắt nạt học đường, hành vi tình dục. Vì thế, các chương trình can thiệp giáo dục truyền thông cần tập trung vào các hành vi sức khỏe của học sinh(3).
Theo kết quả sức khỏe học sinh trong độ tuổi từ 13 đến 17 tuổi năm 2013 tại Việt Nam cho thấy, tỉ lệ học sinh suy dinh dưỡng thể gầy còm là 16,4%, thừa cân là 6,4%, béo phì là 1,2%; tỉ lệ học sinh thường xuyên uống nước uống có ga từ một đến hơn một lần một ngày là 31,1%. Năm 2016, một nghiên cứu trên 12.000 học sinh từ 11 - 14 tuổi tại 38 trường trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Hà Nội cho biết có 15,26% học sinh thừa cân và 5,46% học sinh mắc béo phì(4).
Năm 2017 Cục Y tế Dự phòng tiến hành một khảo sát về hành vi sức khỏe của học sinh tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ nhằm cung cấp những bằng chứng cập nhật về thực trạng hành vi sức khỏe của học sinh, giúp cho việc đưa ra các chính sách ưu tiên trong chăm sóc sức khỏe học sinh. Trong khuôn khổ khảo sát này, tình trạng dinh dưỡng và thói quen ăn uống của lứa tuổi 13-17 là một nội dung quan trọng.
Mục tiêu nghiên cứu
Mô tả tình trạng dinh dưỡng của học sinh lứa tuổi 13-17 tại một số trường phổ thông tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ năm 2017.
Mô tả thói quen ăn uống của học sinh lứa tuổi 13-17 tại một số trường phổ thông tại 4
tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kontum, Cần Thơ năm 2017.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Đối tượng nghiên cứu
Học sinh tại các trường học được lựa chọn vào nghiên cứu. Lựa chọn chủ đích 4 tỉnh tham gia vào nghiên cứu là Hải Phòng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở các vùng sinh thái khác nhau của đất nước và có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tại mỗi tỉnh, lựa chọn có chủ đích 01 quận và 02 huyện để có được số liệu của khu vực thành thị và nông thôn trong tỉnh.
Tiêu chí chọn quận, huyện
Là quận, huyện có điều kiện kinh tế xã hội trung bình trong tỉnh, không chọn quận, huyện giàu hay quận, huyện nghèo của tỉnh.
Tại mỗi quận, huyện sẽ lựa chọn 02 trường, 01 trường trung học cơ sở và 01 trường trung học phổ thông.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
Cỡ mẫu
Cỡ mẫu ước tính cho 1 tỉnh. Sử dụng công thức tính cỡ mẫu ước lượng cho một tỷ lệ trong quần thể.
Cỡ mẫu n tính được = 1.050. Số học sinh điều tra tại mỗi tỉnh là 1.050 x 1.5 (hệ số chọn mẫu) = 1.600 học sinh. Học sinh điều tra cho 4 tỉnh là 1.600 x 4 = 6.400 học sinh. Thực tế đã điều tra trên 6.407 học sinh.
Chọn mẫu
Tại mỗi tỉnh chọn chủ đích 6 trường: 2 trường khu vực thành thị và 4 trường khu vực nông thôn. Trong 2 trường ở mỗi khu vực có 1 trường trung học cơ sở (THCS) và 1 trường trung học phổ thông (THPT). Tại mỗi trường THCS, chọn học sinh khối 8 và khối 9, mỗi khối chọn 3 lớp. Tại mỗi trường THPT, chọn học sinh cả ba khối 10, 11 và 12, mỗi khối chọn 2 lớp triển
khai toàn bộ học sinh trong lớp tham gia vào nghiên cứu.
Kỹ thuật và công cụ thu thập thông tin
Nghiên cứu sử dụng kỹ thuật phỏng vấn gián tiếp với bộ câu hỏi tự điền khuyết danh, chiều cao và cân nặng của học sinh được đo bằng thước đo chiều cao gắn tường và cân điện tử.
Bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh toàn cầu (Global School-related Health Student Survey) tại Việt Nam được sử dụng cho nghiên cứu này. Bộ câu hỏi Điều tra sức khỏe học sinh toàn cầu gồm 80 câu hỏi, trong đó có 05 câu hỏi về vấn đề ăn uống: tần suất ăn các thực phẩm như hoa quả, rau, uống nước ngọt có ga, ăn đồ ăn nhanh.
Số liệu được thu thập tại lớp học. Học sinh của lớp được chọn được đề nghị ở lại lớp sau giờ học để điền phiếu. Học sinh được giải thích rõ về mục đích của nghiên cứu. Học sinh tham gia nghiên cứu tự nguyện. Nghiên cứu viên có mặt tại lớp học để giải thích những thắc mắc của học sinh trong khi điền phiếu.
Biến số nghiên cứu
Tình trạng dinh dưỡng: tỷ lệ thừa cân, béo phì, suy dinh dưỡng được đánh giá thông qua chỉ số khối cơ thể (BMI) theo tuổi dành cho trẻ 5 - 19 tuổi. Chuẩn dùng để so sánh các chỉ số hiện nay đang dùng là chuẩn tăng trưởng của Tổ chức Y tế thế giới năm 2007.
Thói quen ăn uống: Tỷ lệ học sinh có ăn rau/hoa quả và số lần ăn rau/hoa quả trung bình/ngày trong 30 ngày qua. Tỷ lệ học sinh uống nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh và số lần ăn/uống trung bình trong 30 ngày qua.
Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được làm sạch, nhập và phân tích bằng phần mềm EPI DATA và STATA.
Các số liệu được trình bày dưới dạng số lượng, tỷ lệ phần trăm.
Test thống kê Chi- bình phương được sử dụng trong phân tích đơn biến.
KẾT QUẢ
Tổng số đối tượng nghiên cứu là 6.407 học sinh, trong đó nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (53,9% và 46,06%). Tỷ lệ nữ cao hơn ở cả cả hai nhóm tuổi: từ 13-15 và từ 16-17 (Bảng 1).
Khoảng 80% học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường. Tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là 11,1%, suy dinh dưỡng là 9,5% (Hình 1).
Tỉ lệ học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường ở nữ cao hơn nam (86% và 72%), khác biệt có ý nghĩa thống kê (Bảng 2).
Tỉ lệ học sinh nam thừa cân và béo phì là 15,6%, trong đó thừa cân là 11,0% và béo phì là 4,6%. Tỷ lệ này cao hơn nhóm nữ, tỷ lệ thừa cân, béo phì học sinh nữ là 7,1%, trong đó thừa cân là
5,9% và béo phì là 1,2%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p <0,05).
Hình 1: Tình trạng dinh dưỡng của học sinh Bảng 1: Thông tin về đối tượng nghiên cứu
Độ tuổi Giới
Tuổi 13-15 Tuổi từ 16 đến 17 Tổng
N % n % N %
Nam 1.594 48,79 1.357 43,22 2.951 46,06
Nữ 1.673 51,21 1.783 56,78 3.456 53,94
Tổng 3.267 100 3.140 100 6.407 100
Bảng 2: Tình trạng dinh dưỡng của học sinh theo giới
Giới Dinh dưỡng
Nam Nữ Tổng
n % n % n % p
SDD gầy còm nặng 85 2,9 37 1,1 122 1,9 0,000
SDD gầy còm 284 9,6 205 5,9 489 7,6 0,000
Bình thường 2.119 71,9 2.970 85,9 5.089 79,4 0,000
Thừa cân 326 11,0 204 5,9 530 8,3 0,000
Béo phì 137 4,6 40 1,2 177 2,8 0,000
Tổng 2.951 100 3.456 100 6.407 100
Bảng 3: Thói quen ăn uống của học sinh theo giới
Giới Ăn uống
Nam Nữ Tổng
N % N % N % P
Ăn trái cây (trong 30 ngày) <1 lần/ngày 649 22,0 703 20,3 1.352 21,1
0,106
≥1 lần/ngày 2.302 78,0 2.753 79,7 5.055 78,9 Ăn rau (trong 30 ngày) <1 lần/ngày 366 12,4 396 11,5 762 11,9
0,245
≥1 lần/ngày 2.585 87,6 3.060 88,5 5.645 88,1 Uống nước có ga (trong 30 ngày) <1 lần/ngày 1.973 66,9 2.607 75,4 4.580 71,5
0,000
≥1 lần/ngày 978 33,1 849 24,6 1.827 28,5 Ăn đồ ăn nhanh (trong 7 ngày) 0-1 lần 2.396 81,2 2.659 76,9 5.055 78.9
0,000
>1 lần/tuần 555 18,8 797 23,1 1.352 21,1
Tổng 2.951 100 3.456 100 6.407 100
Trong 30 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn trái cây
≥1 lần/ngày là 79%. Tỷ lệ học sinh ăn rau ≥1 lần/ngày là 88%. Tỷ lệ học sinh uống nước có ga
≥1 lần/ngày là 29% (Bảng 3).
Trong 7 ngày qua, tỷ lệ học sinh ăn đồ ăn nhanh >1 lần trong tuần là 21%.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa nam và nữ về thói quen ăn rau và trái
79.4%
9.5%
11.1%
Bìnhthường Suy dinh dưỡng Thừa cân, béo phì
cây. Tỷ lệ học sinh nam uống nước ngọt có ga
≥1 lần/ngày cao hơn nữ; Tỷ lệ học sinh nữ ăn đồ ăn nhanh hơn 1 lần/tuần cao hơn nam, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Đây là một điều tra khảo sát hành vi sức khỏe học sinh lứa tuổi vị thành niên quy mô lớn triển khai tại 4 tỉnh Hải Phòng, Nghệ An, Kon Tum, Cần Thơ. Đây là 4 tỉnh nằm ở các vùng sinh thái khác nhau của đất nước và có điều kiện kinh tế xã hội khác nhau. Tổng cộng đã có 12 trường trung học cơ sở và 12 trường trung học phổ thông được chọn vào tham gia nghiên cứu với số lượng học sinh tham gia trả lời phiếu lên đến hơn 6000 em. Năm 2012 Cục Y tế Dự phòng đã phối hợp với Tổ chức Y tế Thế giới triển khai một điều tra sử dụng Bộ câu hỏi của Điều tra sức khỏe học sinh toàn cầu (Global School-related Health Student Survey). Do đó bộ câu hỏi này đã được chuẩn hóa tiếng Việt và tỷ lệ của cuộc khảo sát này có thể so sánh với điều tra năm 2012(5,6).
Trong tổng số 6.407 học sinh của 24 trường từ 4 tỉnh tham gia vào nghiên cứu, học sinh nữ chiếm tỷ lệ cao hơn nam (53,9% và 46,06%). Tỷ lệ nữ cao hơn ở cả hai nhóm tuổi: từ 13-15 và từ 16-17.
Kết quả nghiên cứu cho thấy 4/5 số học sinh (80%) có tình trạng dinh dưỡng bình thường.
Trong số 20% học sinh có tình trạng dinh dưỡng bất thường, tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là 11,1%, suy dinh dưỡng là 9,5%. Tỷ lệ này phản ánh đúng tình trạng “gánh nặng kép” trong cuộc chiến chống lại tình trạng suy dinh dưỡng và thừa cân, béo phì ở nước ta hiện nay. Tỉ lệ thừa cân và béo phì theo khảo sát của chúng tôi cao hơn so với thời điểm điều tra năm 2012, tỉ lệ thừa cân và béo phì năm 2012 là 5,6%. Như vậy tỷ lệ thừa cân béo phì đã tăng gần gấp đôi sau 5 năm. Đây là một con số đáng báo động. Nguyên nhân có thể là do cùng với sự phát triển của kinh tế, thì đời sống vật chất được nâng cao giúp làm giảm tỉ lệ suy dinh dưỡng nhưng chế độ ăn giàu đường đạm, lối sống tĩnh tại hiện đại làm tăng nguy cơ mắc thừa cân, béo phì. Tỷ lệ học sinh
trung học phổ thông thừa cân, béo phì qua một khảo sát năm 2016 trên 12000 học sinh ở thành phố Hà Nội cho biết tỷ lệ học sinh thừa cân béo phì là 21,72%. Như vậy tỷ lệ thừa cân béo phì ở học sinh Hà Nội cao gấp đôi so với nghiên cứu của chúng tôi(7).
Xem xét tình trạng dinh dưỡng của học sinh theo giới, kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ học sinh có tình trạng dinh dưỡng bình thường ở nữ cao hơn nam (86% và 72%). Như vậy, học sinh nam là nhóm có tình trạng dinh dưỡng bất thường cao hơn nữ, cụ thể tỷ lệ suy dinh dưỡng ở nam là 12,5% nữ 7%; tỉ lệ học sinh nam thừa cân và béo phì là 15,6%, cao gấp đôi học sinh nữ (tỷ lệ này ở nữ là 7%). Điều tra năm 2012 cũng cho kết quả tỷ lệ suy dinh dưỡng và thừa cân, béo phì ở học sinh nam cao hơn học sinh nữ.
Về thói quen ăn uống, khảo sát thói quen ăn uống trong 30 ngày qua cho thấy tỷ lệ học sinh ăn trái cây ≥1 lần/ngày chiếm gần 80%, tỷ lệ học sinh ăn rau ≥1 lần/ngày chiếm gần 90%. Sự khác biệt giữa nam và nữ về thói quen ăn trái cây và ăn rau không có ý nghĩa thống kê. Như vậy kết quả nghiên cứu cho thấy một tỷ lệ lớn học sinh có thói quen ăn rau, hoa quả hàng ngày. Mặc dù tỷ lệ học sinh ăn rau, trái cây dưới 1 lần 1 ngày nằm trong khoảng 10-20%, nhưng tương ứng với con số khoảng 600-1200 học sinh cũng là một con số đáng để chúng ta lưu tâm. Các chương trình tuyên truyền về dinh dưỡng và thói quen ăn uống vẫn cần tiếp tục được triển khai trong học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông.
Tiêu thụ nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh đang là xu hướng thịnh hành trong giới trẻ. Hiện nay số lượng các cửa hàng bán đồ ăn nhanh như KFC hay Lotteria đang gia tăng ở nước ta, không chỉ xuất hiện nhiều ở các thành phố trực thuộc trung ương mà cả ở các thành phố trực thuộc tỉnh. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ học sinh uống nước có ga thường xuyên trong 30 ngày qua (≥1 lần/ngày) là gần 30% (tương đương gần 1800 học sinh); tỷ lệ học sinh cho biết đã ăn đồ ăn nhanh trên 1 lần trong 7 tuần qua là khoảng 20% (tương đương 1200 học sinh). Tỷ lệ
tiêu thụ nước ngọt có ga tương đương với tỷ lệ được báo cáo trong điều tra năm 2012.
Có sự khác biệt giữa nam và nữ trong tiêu thụ nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh. Tỷ lệ học sinh nam uống nước ngọt có ga ≥1 lần/ngày cao hơn nữ; trong khi tỷ lệ học sinh nữ ăn đồ ăn nhanh hơn 1 lần/tuần cao hơn nam, khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Mặc dù tỷ lệ học sinh uống nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh chiếm khoảng 20-30% trong tổng số học sinh được điều tra. Đây cũng là con số đáng được lưu tâm đối với các bậc cha mẹ, các thày cô và ngành y học dự phòng trong tuyên truyền về dinh dưỡng cho học sinh, nhất là ở lứa tuổi vị thành niên. Ở lứa tuổi này, các em có xu hướng thực hiện các hành vi đua theo bạn bè. Ví dụ uống nước có ga và ăn đồ ăn nhanh vì thấy nhiều bạn làm như vậy, hoặc ảnh hưởng từ phim ảnh nước ngoài.
KẾT LUẬN
Khoảng 20% số học sinh được khảo sát có tình trạng dinh dưỡng bất thường trong đó 11%
là thừa cân béo phì và 9% là suy dinh dưỡng. Tỷ lệ thừa cân béo phì và suy dinh dưỡng ở học sinh nam cao hơn học sinh nữ. Đại đa số học
sinh (80%-90%) ăn rau và hoa quả thường xuyên. Có một tỷ lệ nhất định học sinh thường xuyên uống nước ngọt có ga và ăn đồ ăn nhanh (20%-30%).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lưu Phương Dung, Nguyễn Nhật Cảm, Nguyễn Thị Thi Thơ (2017). Tình trạng dinh dưỡng của học sinh trung học cơ sở tại thành phố Hà Nội, năm 2016. Y học Dự phòng, 27(8):586-591.
2. Heba A, et al (2011). "Is Accurate Perception of Body Image Associated with Appropriate Weight-Control Behavior among Adolescents of the Seychelles ". Journal of Obesity, pp.8.
3. Nguyễn Văn Hiển (2012). "Khoa học hành vi và truyền thông giáo dục sức khỏe". Sách giáo khoa.
4. WHO (2003). "Diet, nutrition and the prevention of chronic diseases: report of a Joint WHO/FAO Expert Consultation.
WHO Technical Report Series, No. 916". URL:
https://www.who.int/dietphysicalactivity/publications/trs916/en /.
5. Việt Nam GSHS (2013). Global School- based Student Health Survey: Vietnam 2013 Fact Sheet. URL:
https://extranet.who.int/ncdsmicrodata/index.php/catalog/482.
6. WHO (2018). Healthy diet. URL:
http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs394/en/.
7. WHO (2015). Guideline: Sugars intake for adults and children.
Geneva: World Health Organization. URL:
https://www.who.int/nutrition/publications/guidelines/sugars_i ntake/en/.
Ngày nhận bài báo: 02/11/2019
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 06/12/2019 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2020