• Tidak ada hasil yang ditemukan

Tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn gọi

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Membagikan "Tín ngưỡng dân gian Việt Nam còn gọi"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

V Ă N HÓ A

TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN TRONG ĐIÊU KHẮC ĐÌNH LÂU THƯỢNG VÀ ĐÌNH HÙNG LÔ Ở PHÚ THỌ

CAO THỊ VÂN

1. Đặt vấn đề

T

ín ngưỡng dân gian Việt Nam còn gọi là tín ngưỡng bản địa, tín ngưỡng truyền thống của các dân tộc sinh sống trên lãnh thổ ở Việt Nam. Có thể nói tín ngưỡng dân gian là một bộ phận quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta. Từ tín ngưỡng dẫn gian sản sinh ra các tục thờ, nghi lễ và được lưu truyền qua các thế hệ, rồi được cụ thể hóa qua các mảng chạm khắc trong các ngôi đình làng Việt.

Lưu vực ngã ba sông Bạch Hạc (hay còn gọi là ngã ba Hạc) thuộc địa phận thành phố Việt Trì - Phú Thọ, nơi ba con sông lớn nhất miền

Dòng sông bên lở bên bồi chia cắt thành hai dải đất, một bên là Việt Trì - Phú Thọ và bên kia là địa phận Ba Vì - Hà Tây. Do đó địa danh ngã ba Hạc nơi đây càng trở nên linh thiêng khi đặt trong dòng chảy văn hóa lịch sử của dân tộc Việt Nam.

2. Vị trí địa lý và huyền tích ngã ba sông Bạch Hạc - Việt Trì - Phú Thọ

Theo các nghiên cứu về địa lý, địa hình trên bản đồ tại Phú Thọ thì ở đây tạo hóa ban cho Phú Thọ một ngã ba thiêng gọi là ngã ba Bạch Hạc (thuộc phường Bạch Hạc – thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ) - nơi hợp lưu của ba con sông lớn nhất miền Bắc là sông Đà, sông Hồng, sông Tóm tắt

Hòa chung vào dòng chảy văn hóa dân gian ở Việt Nam thì nghệ thuật điêu khắc đình làng ở Phú Thọ (qua nghiên cứu hai ngôi đình Lâu Thượng và đình Hùng Lô ở lưu vực ngã ba sông Bạch Hạc - Việt Trì - Phú Thọ) cũng phần nào phản ánh những tín ngưỡng dân gian xưa được đan xen, hòa trộn vào trong các ý tứ của nghệ thuật điêu khắc, chạm khắc ở cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII. Qua đó biểu thị niềm tin của con người vào một thế giới siêu nhiên, huyền bí, thể hiện ước vọng về một xã hội thái bình, thịnh trị, cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt của người nông dân trong xã hội đương thời.

Từ khóa: Tín ngưỡng dân gian, chạm khắc đình làng Abstract

In the flow of folk culture in Vietnam, the art of sculpture in the communal house in Phu Tho province (through the study of Lau Thuong and Hung Lo communal houses in the basin of intersection of Bach Hac river - Viet Tri - Phu Tho) also reflects the ancient folk beliefs mixed into the ideas of sculpture and carving arts in the late of 17th century, the early of 18th century. It shows human belief in a world of supernatural, mysterious, the aspiration for a peaceful society, prosperity, praying for favorable weather, the lush crop of farmers in the contemporary society.

Keywords: Folk beliefs, sculpture of communal house

VĂN HÓA DÂN GIAN - TRUYỀN THỐNG

(2)

V A

chính trị, kinh tế, văn hóa, dân cư…

Thứ nhất: Hội tụ về vị trí địa lý

Ngã ba Bạch Hạc thuộc địa phận tỉnh Phú Thọ, là một vùng đất cổ ở miền Trung du vừa mang những đặc điểm của miền núi cao lại vừa mang dáng dấp của đồng bằng vùng chiêm trũng như: có miền núi cao, có triền núi thấp, có vùng gò đồi, có bãi bồi ven sông cùng:

sông, suối, lạch, ngòi,... tạo nên văn hóa Làng - Đồi cùng với những lễ hội độc đáo. Đường sông, thế núi đã tạo ra một tam giác châu thổ sông Hồng khiến nơi đây được xem là một vùng đất nằm trong huyết mạch trọng yếu của vùng đồng bằng Bắc Bộ cũng như của cả khu vực Đông Nam Á mà đỉnh thứ nhất của nó chính là Việt Trì (ngã ba Bạch Hạc). Đây cũng chính là đỉnh xưa nhất của tam giác vùng châu thổ sông Hồng. Chính tại nơi đây cũng đã từng là một vị trí “địa - chính trị”, “địa - chiến lược”

trọng yếu của nhà nước sơ khai Văn Lang cổ đại xưa. Xét về góc độ tạo hình, thẩm mỹ thì vẻ đẹp của ba sông tụ hội chụm đầu về một mối tựa hồ như ba con rồng uốn khúc chầu về núi Nghĩa Lĩnh (tức chầu vua).

Thứ hai: Hội tụ về văn hóa bản sắc dân tộc Nếu lấy Kinh Kỳ - Kẻ Chợ (tức Thăng Long - Hà Nội) làm trung tâm với 4 xứ tương ứng với 4 phương (Đông - Tây - Nam - Bắc) tỏa ra 4 hướng, thì Phú Thọ thuộc xứ Đoài (hay miền trấn Sơn Tây) mà trọng điểm là Phú Thọ - Sơn Tây. Như vậy, Phú Thọ là một tỉnh nằm ở xứ Đoài, được giao hòa bởi ba con sông lớn nên ở đây tụ hội nhiều luồng dân cư và các tộc người sinh sống.

Điều này có thể thấy ngay trong truyền thuyết Cha Rồng (Lạc Long Quân thuộc nòi Rồng vốn ở miền sông nước từ biển lên) - Mẹ Tiên (Âu Cơ - nòi Tiên từ núi xuống) kết duyên với nhau sinh ra bọc trăm trứng, từ đây nảy nở mà tạo thành dân Việt. Qua sự tích trên để thấy rằng nơi đây đã có sự hội tụ về con người lần thứ nhất. Rồi lần theo di chỉ văn hóa Sơn Vi thuộc xã Sơn Vi - Lâm Thao - Phú Thọ, theo các nhà khảo cổ thì nguyên liệu chế tác các công cụ lao động chủ yếu được lấy từ nguồn nguyên liệu

dọc theo các triền sông hoặc đầu nguồn các con suối,… từ đó mà giao lưu với nhau và học hỏi cách chế tác công cụ của nhau. Tiếp đến sau đó là giai đoạn biển lùi Holocen muộn khi tốc độ lắng đọng trầm tích lớn hơn tốc độ ngập chìm vùng cửa sông tạo nên một vùng châu thổ rộng lớn. Điều này đã tạo điều kiện cho con người ở miền núi cao kéo xuống, con người ở miền hải đảo ngược sông tiến vào, đã tạo nên một sự hội tụ về con người lần thứ hai.

Sau thời kỳ biển lùi thuộc cuối thời kỳ đồ đá mới (cách đây khoảng 4000 năm) và sơ kỳ kim khí là một bước đệm vô cùng quan trọng để xã hội bước vào thời đại Đồng thau với nhiều các chế tác tinh xảo. Ở thời kỳ này đã có sự hội tụ giao lưu văn hóa rộng lớn, phát triển rực rỡ, nhất là nền văn hóa Đông Sơn mà Làng Cả, Việt Trì, Phú Thọ là mảnh đất Văn Lang của các vua Hùng đã bước đầu tiếp xúc văn hóa khá rộng rãi. Đây chính là sự hội tụ về con người lần thứ ba. Trong cuốn sách Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ có ghi chép rằng“…Các Vua Hùng đã chọn vùng đất hợp lưu ba dòng sông Hồng, sông Lô, sông Đà (tức là vùng Việt Trì – hạ huyện Lâm Thao) là kinh đô của nước Văn Lang…”(1, tr.15) đã phần nào khẳng định vai trò quan trọng của vùng đất thiêng bên dòng sông Tam Giang. Xét theo nhiều nghĩa thì nơi đây là một vùng đất tụ thủy, tụ nhân và cũng là hội thủy, hội nhân.

Huyền tích ngã ba sông Bạch Hạc

Trong sách Lĩnh Nam chích quái (biên soạn vào cuối thế kỷ XIV, sách viết về những sự lạ ở đất Lĩnh Nam) có ghi rằng: “Đất Phong Châu thời thượng cổ có một cây lớn gọi là cây Chiên Đàn, cành lá rậm rạp, có chim Hạc làm tổ ở trên, nên gọi đất ấy là Bạch Hạc”(theo Truyện Mộc Tinh). Nơi đây không chỉ được ghi chép trong huyền thoại ở thời đại Hùng Vương mà còn được Hai Bà Trưng lấy làm nơi đóng thuyền chiến và huấn luyện quân sỹ để đánh đuổi quân Hán trong những năm 41 – 43 SCN.

Đến đời nhà Trần, danh tướng Trần Nhật Duật đã từng lấy bãi sông Bạch Hạc làm nơi luyện

(3)

V Ă N HÓ A

thủy quân, đóng chiến thuyền đánh đuổi quân Nguyên Mông với công trạng trấn giữ phòng thủ Tam Giang - Bạch Hạc… Với vị trí địa lý của ngã ba sông Bạch Hạc, đây được coi như huyệt đạo của trời đất nên cứ vào dịp lễ hội truyền thống hàng năm, người dân tứ xứ đổ về đây làm lễ xin “nước thiêng” để sử dụng vào các việc trọng đại trong cuộc đời như xây nhà, cất nóc, tắm rửa cho người đã khuất, cầu tài, cầu lộc, cầu thăng quan tiến chức…

3. Một số hoạt động tín ngưỡng dân gian thông qua các mảng chạm khắc trong đình Lâu Thượng và đình Hùng Lô ở lưu vực ngã ba sông Bạch Hạc (Việt Trì – Phú Thọ)

3.1. Tín ngưỡng thờ thần, thờ Thành hoàng làng, thờ cúng Hùng Vương

Tín ngưỡng thờ cúng nói chung mà cụ thể là tín ngưỡng thờ thần, hay tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương nói riêng là những tín ngưỡng phổ biển của con người Việt Nam. Vào thế kỷ XVI, XVII, XVIII, các ngôi đình được xây dựng nhiều, tục thờ Thành hoàng làng cũng bắt đầu trở nên phổ biến, cho nên các tục thờ nguyên thủy và các tục thờ trong các giai đoạn sau được đan xen hòa quyện nhau tạo nên một hệ tín ngưỡng dân gian phong phú. Cụ thể là:

Tín ngưỡng thờ thần núi

Các tục thờ thần núi (Sơn Thần) tiêu biểu là: Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh, phổ biến hơn cả là hình ảnh Tản Viên Sơn Thánh được gắn với hình tượng Núi Tản - Sơn Thần (tức Sơn Tinh) và núi Nghĩa Lĩnh (Núi Hùng) tức (vua Hùng). Đây là hình ảnh hết sức quen thuộc đã được nhân cách hóa, biểu tượng hóa mà ra:

con người được thần thánh hóa gắn liền với các biểu tượng của thiên nhiên (nhiên thần), ngược lại thiên nhiên cũng được nhân cách hóa mang biểu tượng của con người (nhân thần), cho nên giữa nhân thần và nhiên thần thực chất chỉ là cách mà người dân gán cho con người mang sức mạnh của thiên nhiên, lấy đó để làm biểu tượng che chở cho nhân dân.

Ngay như “Đền Hùng ở trên núi, truy về nguồn gốc cũng chỉ là một đền thần núi. Và như thế

của địa phương được lịch sử hóa để cố kết cả dân tộc, được nâng lên từ tín ngưỡng thờ tổ tiên” (1,tr. 19) mà thành. Theo nhiều công trình nghiên cứu về tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Phú Thọ cùng nhiều các sử liệu cho thấy tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương có từ rất lâu, phát triển mạnh vào thời Hậu Lê. Thông qua các di vật còn để lại, ta thấy nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn đã liên tục sắc phong cho các vị tướng thời Hùng Vương ở trong các ngôi đình tại Phú Thọ, điển hình là ngôi đình cổ Hùng Lô có tới 11 đạo sắc phong cho 18 đời vua Hùng.

Khi mở rộng phạm vi nghiên cứu, điều đặc biệt ta có thể nhận thấy là ở Phú Thọ ước tính có khoảng 200 ngôi đình và tất cả ngôi đình ở đây đều có tục thờ Hùng Vương và các tướng lĩnh như: Cao Sơn, Quý Minh, Viễn Sơn, Ất Sơn, (ngay như tên gọi Lâu Thượng cũng là ngôi lầu được vua Hùng dựng lên để kén rể cho con gái của mình). Chính vì hình tượng nhiên thần và nhân thần được hòa vào trong một thể thống nhất như thế nên nghệ thuật chạm khắc ở đình Lâu Thượng chỉ là sự “gợi” về bóng dáng của một vị vua thời Hùng Vương trong hình ảnh hết sức quen thuộc của người dân lao động, thông qua các hoạt cảnh sinh hoạt đời thường mà có dấu chân của người đã từng đi qua. Ví dụ như bức đi săn mà ta cũng có thể hiểu ý đồ biểu hiện ở đây chính là “vua Hùng đi săn” với hoạt cảnh sinh động diễn tả người cưỡi ngựa, theo sau là đám tùy tùng phần nào cũng phản ánh rất rõ nét về tục thờ thần núi ở khu vực nơi đây. Ngoài hoạt cảnh đi săn của vua Hùng biểu hiện cho núi Hùng hùng vĩ thì một số yếu tố của đề tài chạm khắc cũng mang sắc thái cửa núi rừng được thể hiện cũng hết sức phong phú. Ta thấy có bốn bức tượng tròn bằng gỗ được gắn trên bốn cột trước khám thờ ở đình Lâu Thượng (nay chỉ còn 3 bức), tạc chân dung nam giới trong các tư thế hùng dũng như:

người đàn ông cưỡi hổ, người đàn ông cưỡi dư, tượng người đàn ông tư thế ngồi bó gối,…

Những tượng được tạc khá công phu, đẹp mắt, có chân dung khá đặc trưng của người miền núi, tướng dữ, râu tóc dài, thân hình vạm vỡ, chế ngự được các loài thú dữ ở miền rừng như:

(4)

V A

dân trong quá trình làm nông nghiệp lúa nước nhận ra Mặt trời là một nguồn sinh lực vô lượng, được tôn thờ ở vị trí hàng đầu, mà bằng chứng là được khắc nổi ở trung tâm các mặt trống đồng và được biểu hiện trong nhiều lễ hội. “Họ cũng nhận ra mối quan hệ Âm - Dương tương sinh tương khắc mà cụ thể là giữa Giống Cái và Giống Đực, rồi khái quát lên là các hiện tượng thiên nhiên như Nước/Lửa, Ngày/

Đêm… đối đãi nhau hòa hợp tạo sự phát triển (1,tr.20). Chính vì thế, mặt trời là biểu tượng cho năng lượng sống của muôn loài.

Về nghệ thuật tạo hình, nếu như ngôi sao 8 cánh hay 12 cánh kết hợp với các vòng tròn được biểu thị cho mặt trời và sự xoay chuyển của vũ trụ trong mô típ trang trí quen thuộc của người Việt cổ trên mặt trống đồng thời kỳ Đông Sơn thì vào thế kỷ XVII - XIX, hình ảnh rồng chầu mặt nhật là hình ảnh gần như phổ biến trong các ngôi đình ở Phú Thọ. Chạm khắc hình tượng rồng lẩn trong mây chầu mặt nhật được nhắc đi nhắc lại trong các khu vực trang trí quan trọng, linh thiêng, dễ nhìn như nóc đình. Khi quan sát trên nóc đình Lâu Thượng và Hùng Lô, ta thấy rất rõ đôi Rồng chầu mặt nhật (hình ảnh quả cầu lửa được đục rỗng (biểu thị cho vô cực) được chạm khá lớn, có gắn mảnh sứ mang phong cách muộn (thời Nguyễn), còn trên xà thượng và trên câu đầu là đề tài Lưỡng long chầu nguyệt (chạm đặc). Theo lớp lang sau này, khi Nho giáo có vị trí độc tôn thì hình ảnh mặt trời còn được biểu thị cho vua (vầng thái dương – thuộc dương - biểu thị cho nam giới). Bên cạnh biểu tượng mặt trời còn có mặt trăng (thuộc âm - biểu thị cho nữ giới), xét theo nguyên lý âm dương đối đãi mà sinh ra vạn vật thì mặt trăng, mặt trời bên cạnh mây mưa sấm gió sẽ tạo ra sự nảy nở sinh sôi của muôn loài, mang ước vọng về cuộc sống no đủ của con người. Nói chung, hình ảnh mặt nhật hay mặt nguyệt là một trong những biểu tượng phổ biến của mỹ thuật đình làng Việt và phần lớn được tạc đơn giản tới mức tối đa như chỉ là hình tròn hoặc giống như một quả cầu

câu đầu, xà, bẩy…).

Tín ngưỡng thờ Thành hoàng làng, thờ các anh hùng dân tộc

Trong sách Đại cương Lịch sử Việt Nam có ghi: “Từ ý thức cộng đồng cũng đã nảy sinh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, sùng bái các anh hùng, các thủ lĩnh. Cư dân Văn Lang – Âu Lạc đều có ý thức cùng chung một cội nguồn, một tổ tiên, một tập quán chung”; “Ở các thế kỷ X – XIV, những tín ngưỡng cổ truyền vẫn phổ biến” (3, tr.261). Có thể nói rằng, xu hướng thờ nhiều thần trong một ngôi đình khá phổ biến vào thế kỷ XVII.

Cụ thể:

Đình Lâu Thượng thờ bốn vị Thành hoàng làng. Bốn vị này được xác định xuất hiện vào các thời điểm lịch sử khác nhau như: Quý Minh Đại Vương (thời Hùng Vương), Ả Nương Nương tiền Đại Vương (Trưng Trắc), Bình Khôi công chúa Đại Vương (Trưng Nhị), Như Tô Tuy Lý Đại Vương (Lý Văn Liên). Với tục thờ vua Hùng theo ghi chép ở trên thì nghệ thuật chạm khắc có tạc cảnh đi săn của Vua với một sự gợi về vị Thành hoàng làng của người Việt. Rõ ràng hơn cả là tục thờ anh hùng dân tộc với hình tượng Hai Bà Trưng bằng cả nghệ thuật điêu khắc và cả chạm khắc. Hai pho tượng được thờ chính ở ngai thờ (cả hai pho tượng cổ đã bị đánh cắp ngày nay được tạc lại theo ảnh bằng hai pho tượng mới), cao cỡ khoảng 50cm, tượng gỗ được tạc trong tư thế ngồi, có sơn màu, miêu tả chân dung khá đẹp, lông mày cong vút da sáng, miệng nhỏ, mắt sáng… Ngoài tạc tượng, hai vị nữ vương còn được các nghệ sỹ dân gian đưa vào trong bức chạm ở gian trái đình (tức là hướng bên phải ngôi đình nếu mặt nhìn ra phía ngoài). Bức chạm Hai Bà Trưng cưỡi voi khởi nghĩa có hình ảnh Hai Bà được chạm khá công phu, dũng mãnh với tinh thần bất khuất kiên trung, thể hiện tinh thần tự tôn dân tộc rất quyết liệt trong thời kỳ Bắc thuộc ở đất Việt.

Ở đình Hùng Lô, theo các sắc phong để lại cùng thông tin ghi chép trong lý lịch di tích của đình có ghi nơi đây thờ ba vị thần vào thời Hùng Vương là: Ất Sơn Thánh Vương (vua Hùng

(5)

V Ă N HÓ A

thứ 4 – Hùng Hy Vương), Viễn Sơn Thánh Vương (vua Hùng thứ 5 – Hùng Hoa Vương) và Áp Đạo Quan Đại Vương (tướng bảo vệ Vua Hùng). Đình Hùng Lô không giống với các ngôi đình khác bởi vì đây là một ngôi đình được xuất phát từ một ngôi đền, nên ở đây không thờ Thành hoàng làng. Ngôi đền này được dựng lên để thờ vua. Theo lý lịch còn ghi chép lại, khi nhà vua cùng cô con gái yêu cưỡi ngựa hồng đi ngang qua thấy thế đất đẹp cùng cảnh vật nên thơ, vua cho ấy là vận tốt nên lập ấp, lập nên xóm làng. Do đó, để tưởng nhớ công ơn lập làng, người dân nơi đây đã lập ngôi đền này để thờ vua, cho nên nghệ thuật chạm khắc ở đây chỉ phần lớn miêu tả lại cảnh sinh hoạt của làng xã như: đấu vật, cưỡi trâu,... Tuy nhiên, có một hoạt cảnh có nhắc đến một vị vua trong lịch sử dân tộc, đó là vua Đinh Tiên Hoàng qua hoạt cảnh Chú bé Đinh Bộ Lĩnh Tập trận cờ lau (bức chạm này xét về tạo hình mỹ thuật thì mang phong cách chạm khắc của cuối thế kỷ XVII rất rõ như: về đề tài, tạo hình nhân vật, phong cách chạm… ). Tuy bức chạm chỉ là cảnh diễn tập một trò chơi trận giả của một chú bé (Đinh Tiên Hoàng lúc còn nhỏ) nhưng qua đó chính là truyền thống thờ phụng các anh hùng dân tộc có công với làng với nước. Đây cũng là một truyền thống quý báu của dân tộc ta.

3.2. Tín ngưỡng nông nghiệp (cầu mưa – cầu mùa)

Tục thờ thủy thần (Cầu mưa, cầu tạnh) Tín ngưỡng nông nghiệp là loại hình tín ngưỡng rất phổ biến trong đời sống của nhân dân ta. Theo các nhà nghiên cứu khảo cổ học dự đoán: “Nghề nông nghiệp nguyên thủy đã có từ thời văn hóa Hòa Bình, Bắc Sơn, tiếp tục phát triển, trở thành nghề phổ biến, chủ đạo trong thời kỳ hậu đồ đá mới”; “Cư dân bấy giờ đều làm nghề nông trồng lúa và các cây lương thực khác bằng cuốc đá..” (3, tr.26). Theo cách lý giải của Trần Đình Hoành bình trong sách Lĩnh nam chích quái thì nói tới nông nghiệp là nói tới nước. Cho nên văn hóa “nước” còn được thể hiện trong Truyện Hồng Bàng (Long Nữ, Động Đình Hồ, Lạc Long Quân); Chử Đồng Tử nhường

ăn. Văn hóa “nước” quan trọng cho người Việt đến nỗi từ “nước” cần cho sự sống con người, chữ “nước”cũng dùng để gọi cho quốc gia, quê hương, Tổ quốc như: nước Việt, làng nước, non nước, nước Nam, nước nhà…

Vậy nên, tục thờ thủy thần là một trong những dấu vết của tín ngưỡng dân gian ở miền sông nước nói chung, và đây cũng là một nét văn hóa rất phổ biến của người dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ với nghề chính là sản xuất nông nghiệp. Phú Thọ tuy là miền đất Trung du nhưng lại có yếu tố của miền sông nước nên tục thờ thủy thần phát triển rất mạnh ở đây cũng là điều rất dễ hiểu. Nói đến tục thờ nước thì biểu hiện rõ nét nhất mà ta có thể thấy trong các dịp lễ hội là tục đua thuyền, tục rước nước, tục cầu mưa, cầu tạnh… Ở các ngôi đình lân cận, ta thấy có một đề tài khá chung đó là bức Đua thuyền (đình Hương Canh, đình Tiên Canh), Chèo thuyền (đình Hoàng Xá), ở Phú Thọ tiêu biểu là đình Đào Xá – Thanh Thủy có bức chạm này. Tuy ở đình Lâu Thượng và đình Hùng Lô đều không có mảng chạm nào về cảnh đua thuyền mà chỉ có hình ảnh tiên cưỡi rồng - tạo hình giống như tiên đang ngồi du ngoạn trên một chiếc thuyền rồng, đặc biệt ở đình Hùng Lô có một bức miêu tả 3 người ngồi chung trên một chiếc thuyền (không rõ có phải là đua thuyền hay không) thì rõ ràng là có yếu tố nước. Ngoài ra, yếu tố nước lại được biểu thị theo một cách khác và phong phú hơn trong đình Lâu Thượng: lúc là rồng ổ khi là rồng ấp, rồng leo, lúc lại chỉ đơn giản là các vân xoắn, đao mác, thủy ba… Nói riêng về rồng thì biểu tượng này rất phổ biến trong các di tích của mỹ thuật cổ, có thể hiểu theo cách lý giải rất hay về rồng trong cuốn sách Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật của PGS.Chu Quang Trứ:

Rồng đen lấy nước thì mưa, rồng vàng lấy nước thì vua đi cày”. Các thần mây mưa đều có thân hình rồng, nó được mường tượng qua các đám mây “vòi rồng”, nhưng mối liên tưởng: Rồng - cơn dông - dòng sông đã khiến người nghiên cứu nhận ra có sự chuyển hóa từ thuộc tính âm (dòng sông) sang thuộc tính dương (mây

(6)

V A

ở miền rừng thì biểu hiện của yếu tố nước cũng rất rõ ràng ngay từ khi hình thành dân tộc Việt.

Ta có thể thấy một vài hình tượng rắn và rồng được chạm chung với nhau ở các bức chạm ở đình Hùng Lô. Đặc biệt có một bức mang yếu tố “nước” vô cùng ẩn ý là bức: chú bé Đinh Bộ Lĩnh tập trận cờ Lau. Đây hai bức chạm mà bối cảnh là miền sông nước. Tích kể rằng, Đinh Tiên Hoàng lúc còn nhỏ khi đi chăn trâu bèn rủ bạn bè tập trận giả và cùng các bạn đã mổ trâu khao quân. Khi bị người chú mắng, ông đã bỏ chạy trốn ra đến bờ sông, nước sông tự nhiên rẽ lối cho Hoàng đi. Ông chú thấy điềm lạ bèn mổ lợn đem ra bờ sông cúng lễ. Cho nên bức chạm có biểu hiện yếu tố “nước” rất rõ nét.

Ngoài các tác phẩm chạm khắc chính, yếu tố nước còn biểu hiện trong dạng thờ Tứ Pháp (Mây - Mưa - Sấm - Chớp) được chạm khắc rất nhiều trên các đầu đao, đầu dư, kẻ hiên… Với kỹ thuật chạm khắc khéo léo và vô cùng mềm mại, các hình tượng trở nên sống động và rất tinh tế mang biểu trưng cho yếu tố nước và vấn đề trị thủy của nhân dân ta.

3.3.Tín ngưỡng phồn thực

“Bên cạnh tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, người đương thời còn bảo lưu những tàn dư của các hình thức tôn giáo nguyên thủy như tín ngưỡng vật tổ ma thuật, phồn thực với những nghi lễ cầu mong được mùa, giống nòi phát triển” (3, tr.55). Với văn hóa trồng lúa nước và sản xuất nông nghiệp, việc lấy sản lượng thu hoạch làm trọng là điều rất dễ hiểu. Tuy nhiên, không phải năm nào cũng được mùa và thắng lợi, thậm chí có những năm đói kém, mất mùa. Cho nên ngoài nghi thức cúng tế trời đất, cầu cho mưa thuận gió hòa thì bên cạnh đó còn có một số tục và hèm làm lúc nửa đêm trong các lễ hội như tục Linh tinh tình phộc (ở Tứ Xã – Lâm Thao – Phú Thọ) được thực hành bằng cách diễn lại các cảnh giao hoan giữa hai bộ phận Nam và Nữ, như một lời gửi gắm lên thần linh về ước vọng được mùa trong một năm. Với cách lý giải này, rõ ràng bản chất của tín ngưỡng phồn thực là sùng bái cái thiêng và

thấy hình ảnh đôi nam nữ đang giao phối trên nắp thạp đồng Đào Thịnh với bộ phận sinh dục to quá cỡ hay ta có thể thấy hình ảnh cô gái khỏa thân nằm vắt vẻo trên râu rồng, hình ảnh nam nữ tình tự, giao hoan ngay khu vực trung tâm ở khám thờ trước mặt các vị thần.

Về nghệ thuật chạm khắc, ở đình Lâu Thượng và Hùng Lô không có các hoạt cảnh về khỏa thân nam nữ đang giao phối như các ngôi đình khác nhưng lại được biểu thị theo một cách đầy ẩn ý hơn. Tiêu biểu cho tín ngưỡng phồn thực ở đình Lâu Thượng và Hùng Lô chính là các hoạt cảnh “Rồng ổ”. Nếu nhìn bằng mắt thường, mỗi một mảng chạm khắc rồng ổ bao gồm một rồng mẹ và cỡ 5-7 rồng con, con ẩn con hiện, con thì có vảy con thì trơn. Thực chất, số mà chúng ta thấy được chỉ mang tính chất ước lệ vì đây là con số phiếm chỉ, chỉ số nhiều vô hạn mà chúng ta không thể đếm hết được.

Rồng mẹ, rồng con tẩng tầng lớp lớp xen lẫn là các đao lửa mây mưa sấm chớp và các dải dây hoa cách điệu đã tạo nên một hoạt cảnh nhà rồng cực kỳ huyên náo. Tín ngưỡng phồn thực mang ý nghĩa sinh sôi nảy nở ấy được chạm khắc ngay tại khu vực khám thờ, trước mặt các vị thần linh đã tạo ra một không gian vô cùng sống động, chất chứa bao ước vọng về sự trường tồn của người nông dân Việt Nam.

3.4. Tín ngưỡng cầu bình an

Đây là một loại hình tín ngưỡng vừa mang yếu tố khoa học, vừa mang yếu tố tâm linh được gắn liền với đời sống của người dân. Vào thời đại Hùng Vương, con người chủ yếu làm nông nghiệp, cho nên bên cạnh việc cầu cho mưa thuận gió hòa mùa màng tươi tốt thì vấn đề trị thủy được người xưa hết sức chú trọng.

Theo quan niệm của người xưa: Thủy là nước mà nước là đầu mối là căn nguyên của phúc lẫn họa. Cho nên tục rước nước của cư dân nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam là một lễ tục vô cùng quan trọng. Một loạt các mảng chạm khắc thể hiện tinh thần trị thủy rất quyết liệt của người xưa như: người đàn ông cầm đao chế ngự rồng, người cưỡi rùa , hình tượng người múa

(7)

V Ă N HÓ A

trên đầu rồng (Hùng Lô)… Bên cạnh vấn đề trị thủy thì vấn đề lịch sử xã hội đương thời cũng tác động không nhỏ tới nghệ thuật chạm khắc đình làng ở lưu vực ngã ba Hạc. Xét trên bối cảnh chung của giai đoạn thế kỷ XVI là cuộc xung đột giữa nhà Mạc - chúa Trịnh, vua Lê; thế kỷ XVII là Trịnh - Nguyễn phân tranh. Hai cuộc xung đột lớn này làm cho phong kiến trung ương tập trung vào quân sự rất mạnh. Ở thời kỳ này làng xã tự quản, Nho giáo không được coi trọng, nhân dân lầm than không biết bấu víu vào đâu nên đây được coi là chất xúc tác để nghệ thuật dân gian phát triển. Chính vì thế, việc chạm khắc các đề tài như: Hai Bà Trưng cưỡi voi phất cờ khởi nghĩa (mong đất nước thái bình, thịnh trị), hình ảnh chú bé Đinh Bộ Lĩnh tập trận mổ trâu khao quân (khát vọng chiến thắng kẻ thù), Thày trò Đường Tăng đi Tây Trúc thỉnh kinh (ước vọng về cuộc sống thoát khổ)...

cùng một loạt các hoạt cảnh tươi vui trong các dịp hội hè (mong một cuộc sống chỉ có niềm vui và hạnh phúc) như: đấu vật (Hùng Lô), Lễ hội đua ngựa (Lâu Thượng) cùng các hoạt cảnh Rồng ổ (mang yếu tố sinh sôi nảy nở, dư thừa, no đủ) và hình ảnh tiên múa, phượng múa....

4. Kết luận

Có thể khẳng định, tín ngưỡng dân gian trong đời sống của người dân ở lưu vực ngã ba sông Bạch Hạc là một loại hình tín ngưỡng dân gian vừa mang yếu tố hoài cổ của thời kỳ Văn Lang cổ đại, vừa đậm chất đương thời trong khoảng thế kỷ XVII - XIX bởi lẽ nó được gắn liền với đời sống của người nông dân. Đây là một trong những yếu tố quan trọng làm cho giá trị văn hóa của các ngôi đình càng trở nên linh thiêng trong tiềm thức, hòa quyện trong bóng dáng của nghệ thuật tạo hình, là sự biến hóa trong các điêu khắc dân gian tạo nên một bản tình ca ca ngợi về tình yêu non sông đất nước, mong ước về một đất nước thái bình, thịnh trị.

Qua thời gian, tín ngưỡng dân gian càng trở nên bề thế vững chắc trong lòng nhân dân mà theo như nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền đã phần nào khẳng định “Tôn giáo, tín ngưỡng ra đời giải quyết cho con người cái không với tới

người tới lúc diệt vong”. Vậy nên tín ngưỡng dân gian ra đời, phát triển là nhu cầu tất yếu của xã hội đương thời, tạo nên một dòng chảy đậm nét về văn hóa nghệ thuật cổ truyền trên mảnh đất Hùng Vương.

C.T.V

(NCS, Viện Văn hóa Nghệ thuật Quốc gia Việt Nam)

Phụ lục ảnh

Một số chạm khắc đình Lâu Thượng

Ảnh 1. Người cưỡi ngựa chế ngự rồng (Nguồn: st)

Ảnh 2. Người đàn ông cưỡi hổ (Nguồn: st)

Ảnh 3. Người đàn ông ngồi (Nguồn: st)

(8)

V A

Một số chạm khắc đình Hùng Lô

Ảnh 5. Đấu vật (Nguồn: st)

Ảnh 6. Hình tượng người múa trên đầu rồng (Nguồn: st)

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Tiến Khôi (chủ biên, 2000), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ - Tập 1, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

2. Trương Hữu Quýnh (chủ biên, 2010), Đại cương lịch sử Việt Nam (tập 1), Nxb. Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

3. Chu Quang Trứ (2013), Văn hóa Việt Nam nhìn từ mỹ thuật, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội.

4. Hoàng Tâm Xuyên (chủ biên, 2014), Mười tôn giáo lớn trên thế giới. Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

Ngày nhận bài: 5 - 5 - 2017

Ngày phản biện, đánh giá: 15 - 9 - 2017 Ngày chấp nhận đăng: 30 - 9 - 2017

Ảnh 7. Rồng rắn (Nguồn: st)

Ảnh 8. Tích truyện (Nguồn: st) Ảnh 4. Rồng ổ (Nguồn: st)

Referensi

Dokumen terkait

Chùa Thầy có sự hài hòa giữa kiến trúc và cảnh quan, bên cạnh đó còn là sự hòa điệu của một hợp thể không gian Phật Giáo với các tôn giáo và tín ngưỡng bản địa: Đạo Giáo, Nho Giáo,