• Tidak ada hasil yang ditemukan

các tô chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở việt

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "các tô chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở việt"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

TRIẾT HỌC, SỐ 4 (371), THÁNG 4 - 2022

NGHIÊN CỨU VÀ HỌC TẬP

N_______________________________________________ >

CÁC CHỨC XÃ HỘI TRONG BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG VIỆT NAM HIỆN NAY***

Phạm Vãn Hưng****

*”**Thạc sĩ,ViệnTriết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.

Email: phamanhngoc211 [email protected].

Nhận ngày22tháng02 năm2022. Chấp nhậnngày 15tháng 03 năm 2022.

Tóm tắt: Hiện nay tại Việt Nam, môi trường đang gặp áplực rất lớn do các hoạt độngsảnxuất, kinh doanh sinh hoạt của con người gâyra. Điềuđó đặt ra nhiều thách thức trong bảo vệ môi trường. Trong bảo vệ môitrường, các tổ chứchội đóng vai trò quan trọng không chi góp phần nâng cao nhận thức và thúc đẩy hách nhiệmbảo vệ môitrường cho cộng đồng, mà còn giámsát, phảnbiện tư vấn cácchínhsách môi trường. Trong bài viết này, tác giả luận giải làm thêm về đặc điểm, hoạt động của các tổchức xã hội trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay.

Từ khóa: Tổ chứcxã hội, bảo vệmôi trường, ViệtNam.

1. Vê các tô chức xã hội tại Việt Nam Ở Việt Nam, tổ chức xã hội được hiểu theo nghĩa bao hàm tất cả các tổ chức cấu thành xã hội. Với ý nghĩa đó, tổ chức xã hội là một bộ phận của kết cấu và hệ thống xã hội Việt Nam, bên cạnh tổ chức chính trị (Đảng, Nhà nước), các tổ chức xã hội bao gồm những hình thức tổ chức sau đây: Tổ chức chính trị - xã hội, như Mặt trận Tổ quốc, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên...; tố chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, như Hội Luật gia, Hội Nhà Báo, Hội Nhà Văn...; tổ chức xã hội - nghề nghiệp, như Hội Kiến trúc sư Việt Nam,

Hội Mỹ thuật Việt Nam, Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam...

Tổ chức xã hội còn là thuật ngữ được dùng chỉ một hình thức liên kết giữa các cá nhân và nhóm xã hội dựa trên mối quan hệ dân sự, liên kết giữa những thành viên tự nguyện, tự quản thành các tổ chức của các cộng đồng, đoàn thể nhân dân. Nói cách khác, đây còn là các tổ chức của các cộng đồng, đoàn thể nhân dân. Như vậy, tổ chức xã hội còn là tập hợp của các hình thức không thuộc nhà nước, không mang tính

Bài viết là kết quả nghiên cứu rút ra từ Đe tài cấp Bộ "Trách nhiệm của tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay” do PGS.TS.

Nguyễn Thị Lan Hương làm chủ nhiệm.

(2)

chất chính trị, bao gồm các tổ chức phi chính phủ, tổ chức xã hội, tổ chức tự quản, cộng đồng, hội nghề nghiệp và từ thiện.

Ngoài ra, thuật ngữ tổ chức xã hội còn bao hàm các tổ chức phi chính phủ (non­

governmental organization) được Liên Hợp Quốc đưa ra vào năm 1945 và được cụ thể hcm trong Điều 71 của Hiến chương Liên Họp Quốc năm 19491.

1 Ngân hàng thế giới giải thích về tổ chức phi chính phủ là: Tổ chức phi Chính phủ chỉ là một tổ chức hiệp hội, quỹ văn hóa, xã hội (tài trợ), hội từ thiện, tập hợp các tổ chức phi vụ lợi, hoặc các pháp nhân khác mà theo pháp luật không thuộc khu vực nhà nước và không hoạt động vi lợi nhuận - nghĩa là mọi khoản lợi nếu có sẽ không được và không thể phân phối theo kiểu chia lợi nhuận mà dùng để tiếp tục đầu tư phục vụ công việc chung. Loại tổ chức này không bao gồm các nghiệp đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận hay nhà thờ. Trên cơ sở quan niệm của thế giới, khái niệm tổ chức phi chính phủ sử dụng để chỉ các tổ chức không trực thuộc chính phủ, hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dãn chù, hoạt động phi lợi nhuận bằng vốn tự có trong khuôn khổ pháp luật. Cụ thể hơn là một tổ chức phi chính phủ, trước hết phải là một tổ chức mang tính chất độc lập với sự kiểm soát trực tiếp của chính phủ. Nó cũng đồng thời sẽ là phi lợi nhuận. Một số tiêu chí chung về các tổ chức được gọi là phi chính phủ như sau: Độc lập tương đối với chính phủ tức là ít hoặc rất ít phụ thuộc vào chính phủ; được cơ quan có thẩm quyền cho phép thành lập hoặc có sự quản lý của nhà nước (hay có tính pháp nhân); được lập ra do sự tự nguyện của nhân dân. Hoạt động phi lợi nhuận ưong khuôn khổ pháp luật. Xem: Đỗ Thị Kim Anh (2021), Vai trỏ của các tố chức phi chính phủ Việt Nam trong phát triển cộng đồng hiện nay (Nghiên cứu trường hợp Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam), Luận án tiến sĩ chuyên ngành xã hội học, Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, tr.38.

2 Điều 2, Nghị định 45/2010/NĐ-CP.

Địa vị pháp lý của các tổ chức xã hội tại Việt Nam được quy định tại một số văn bản pháp luật sau: Điều 25 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khẳng định sự ra đời và tồn tại của tổ chức xã hội là một trong những quyền chính đáng của công dân: Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định; Bộ luật Dân sự 2005 quy định chung về tổ chức xã hội; còn lại chủ yếu là các văn bản dưới luật trực tiếp quy định quyền lập hội, hình thức, cơ chế hoạt động của hội,... đó là Nghị định 88/2003/

ND-CP ngày 30-07-2003, Nghị định 45/2010/NĐ-CP, Nghị định 33/2012/NĐ- CP ngày 13-04-2012, Quyết định 68/2010/

QĐ-TTg ngày 01-11-2010, Quyết định 71/2011/QĐ-TTg ngày 20-12-2011,...

Theo quy định của Nghị định 45/2010/NĐ-CP, tổ chức xã hội ở đây được hiểu là các hình thức tổ chức của hội, hội liên hiệp, câu lạc bộ hay những hình thức tố chức tự nguyện, tự quản khác của cộng đồng không nằm trong hình thức tổ chức chính trị - xã hội, như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Nông dân Việt Nam, Hội

Cựu Chiến binh Việt Nam, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các Tổ chức giáo hội.

Nghị định này định nghĩa: “Hội là tổ chức tự nguyện của công dân, tổ chức Việt Nam cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết hội viên, hoạt động thường xuyên, không vụ lợi nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng; hồ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, được tổ chức và hoạt động theo Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan”1 2.

(3)

PHẠM VĂN HƯNG

Như vậy, theo quy định này hội ở đây được hiểu là hình thức tổ chức phi chinh trịphi nhà nước, hay chính là một hình thức của tổ chức xã hội.

Ở Việt Nam, thuật ngữ “tổ chức xã hội”

còn được dùng dưới cụm từ “tổ chức Hội quần chúng”. Cụm từ này được sử dụng thường xuyên hơn. Từ thực tiễn của Việt Nam, sự tồn tại của các tổ chức xã hội cũng chính là sự tồn tại của các hội quần chúng. “Tổ chức xã hội” hay “Hội” thực chất là hai cách gọi khác nhau để chỉ những nhóm người trong xã hội có chung một vấn đề quan tâm và cùng nhau hành động để hướng tới một mục đích chung.

Trên cơ sở quan sát và phân tích sự tồn tại, hoạt động của các tổ chức xã hội ở Việt Nam có thể rút ra một số đặc điểm của các tổ chức xã hội tại Việt Nam như sau:

Thứ nhât, tô chức xã hội là các tô chức tự nguyện của người dân có chung đặc điểm, như cùng ngành nghề, cùng sở thích, cùng giới tính, có chung mục đích tập hợp, đoàn kết các hội viên, hoạt động thường xuyên, không nhằm mục đích lợi ích nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội, hội viên, của cộng đồng, hồ trợ nhau hoạt động có hiệu quả, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Thứ hai, tổ chức xã hội tự điều hành hoạt động, tự chủ về tài chính, một số tổ chức được Nhà nước hồ trợ nằm trong nhóm đặc thù3.

3 Quyết định số 68/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ ban hành ngày 1/11/2010 về việc quy định Hội có tính chất đặc thù, kèm theo danh sách 28 Hội.

Thứ ba, tổ chức xã hội ở Việt Nam đồng nhất với tổ chức hội và được gọi với nhiều tên khác nhau như: Hội, liên hiệp hội, tổng hội, liên đoàn, hiệp hội, câu lạc bộ có tư cách pháp nhân và các tên gọi khác theo quy định của pháp luật.

Thứ tư, các tổ chức xã hội ở Việt Nam phát triển phong phú, bên cạnh những tổ chức đã có tư cách pháp nhân, còn tồn tại rất nhiều tổ chức chưa có tư cách pháp nhân.

2. Các tổ chức xã hội liên quan đến bảo vệ môi trường tại Việt Nam

2.1. Đặc điếm của các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ môi trường tại Việt Nam

Các tổ chức xã hội không thiết lập quyền lực công, cho nên không có quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế đối với các trường hợp phát hiện các vấn đề liên quan đến ô nhiễm, bảo vệ môi trường, mà chỉ tham gia, tác động đến hoạt động bảo vệ môi trường theo những phương thức nhất định nhằm đảm bảo quyền và lợi ích về môi trường cho các thành viên tổ chức trong xã hội ngoại trừ các trường hợp cụ thể được Nhà nước trao quyền.

Tại Việt Nam, bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung và cấp bách cúa tất cả các chủ thể xã hội, bao gồm cả các tổ chức và các cá nhân, như các tổ chức xã hội, người dân, doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước... Tuy nhiên, do trách nhiệm bảo vệ môi trường của mình, các tổ chức xã hội còn có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, tính tập trung về cơ cấu tổ chức hoạt động của các tổ chức xã hội cho phép các tổ chức xã hội bảo vệ môi trường một cách thống nhất và nhanh nhất. Thông qua bộ máy của mình, các tổ chức xã hội có có khả năng thực hiện các chủ trương của Đảng và cơ chế quản lý môi trường được các cơ quan chức năng thông qua.

(4)

Bảo vệ môi trường là hoạt động phức tạp, liên quan đến nhiều chủ thể, nhóm xã hội khác nhau, với những lợi ích đan xen nhau, do vậy sự tham gia các tố chức xã hội góp phần điều hòa các lợi ích này thông qua các hành động bảo vệ môi trường của mình.

Thứ hai, tính đại diện của các tô chức xã hội cho phép các tổ chức xã hội nhận được sự đồng thuận xã hội trong bảo vệ môi trường. Bởi, các tổ chức xã hội đại diện cho lợi ích của các thành viên hoạt động vì các mục tiêu phát triển cộng đồng, trong đó có bảo vệ môi trường và được thừa nhận về mặt pháp lý.

Các tổ chức xã hội vừa là cơ quan có sự tập trung, thống nhất về tố chức, phương thức hoạt động, song cũng vừa là cơ quan đảm bảo tính dân chủ nên có thê tập hợp được ý kiến, mong muốn của các chủ thể xã hội và có khả năng hiện thực hóa những mong muốn đó thành hiện thực một cách nhanh nhất thể hiện trong việc ra quyết định liên quan đến hoạt động của các tổ chức này. Bảo vệ môi trường là công việc hết sức phức tạp, liên quan đến nhiều bên, với nhiều mối quan hệ lợi ích.

Cho nên, trong hoạt động bảo vệ môi trường, các tổ chức xã hội có vai trò hết sức quan trọng trong việc tập hợp được ý kiến của các chủ thể xã hội và ra các quyết định, kiến nghị chính sách phù hợp với thực tế. Bên cạnh đó, các tồ chức xã hội còn là chủ thể mang tính hợp pháp trong các quan hệ đôi ngoại nên có đủ thâm quyền đại diện trong các đối thoại quốc tế liên quan đến bảo vệ môi trường.

Thứ ba, mô hình tổ chức các tổ chức xã hội góp phần giúp các tổ chức này thực

hiện trách nhiệm bảo vệ môi trường một cách nhanh chóng và thuận lợi.

Tính phân cấp trong hệ thống các tổ chức xã hội đảm bảo sự tập trung của các tổ chức xã hội qua sự thống nhất từ trung ương đến địa phương. Trong các hoạt động bảo vệ môi trường, sự thống nhất này giúp cho việc hiện thực hóa các quyết định của các tổ chức xã hội một cách nhanh chóng, kịp thời, đồng thời có tiếng nói một cách hiệu quả bằng nhiều biện pháp tổng hợp khác nhau. Bảo vệ môi trường vừa liên quan đến nhiều chủ thế xã hội, vừa ảnh hưởng rộng lớn đến mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội, cho nên mô hình tổ chức, hay thể chế, cơ chế hoạt động sẽ có ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội.

Chính vì những đặc điểm ưên mà trên thực tế, thường các tố chức xã hội thực hiện được bảo vệ môi trường một cách nhanh chóng, thống nhất và hiệu quả hơn các chủ thể xã hội khác. Điều này chỉ cho thấy tính tất yếu của các tổ chức xã hội, cũng như vai trò, ưách nhiệm của các tổ chức xã hội trong việc thực hiện chức năng của nó nói chung và frong bảo vệ môi trường nói riêng.

Từ đây có thể khẳng định, các tổ chức xã hội, đặc biệt các tổ chức chính trị - xã hội, là “một cánh tay nối dài của Nhà nước”, là một công cụ tuyên truyền vận động thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước4, trong đó có lĩnh vực bảo vệ môi trường; là phương thức thực hiện quyền dân chủ và

4 Xem: Hồ Quế Hậu (2014), Vai trò của các tổ chức xã hội-nghề nghiệp đối với sự phát triển kinh tế sau 30 năm đồi mới, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Số 208 tháng 10/2014, tr.2, 7.

(5)

PHẠM VĂN HƯNG

lợi ích của cá nhân và cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường tại Việt Nam và bảo đảm các quyền thụ hưởng về môi trường trong lành; là một thể chế xã hội có vai trò vị trí riêng trong việc nói lên tiếng nói và thực hiện các hành động cụ thể nhằm điều tiết hành vi của tổ chức và cá nhân trong xã hội, cùng với Nhà nước trong việc bảo vệ môi trường.

Các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường lại có đặc điểm riêng là có tính độc lập, tính dân chủ, tính phi lợi ích, trong khuôn khổ thể chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” trong các hoạt động có liên quan, hoạt động với mục đích phi lợi nhuận. Do đó, nó thu hút được một lực lượng thành viên tham gia ở nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau và sự tham gia của cộng đồng vào việc bảo vệ môi trường.

Trên thực tế, các tổ chức xã hội với tư cách tổ chức tự nguyện của quần chúng đã thu hút được sự tham gia của cộng đồng dân cư, các chủ thể có liên quan vào bảo vệ môi trường khá mạnh mẽ và sâu rộng.

2.2. Phương thức hoạt động của các tố chức xã hội trong bảo vệ môi trường ở

Việt Nam hiện nay

Các tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường tại Việt Nam hiện nay có nhiều hoạt động nổi bật về truyền thông, góp phần nâng cao nhận thức cho cộng đồng, từ đó hình thành ý thức tự giác chấp hành luật pháp về bảo vệ môi trường, tích cực của họ trong tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu. Các tổ chức xã hội cũng xây dựng nhiều mô hình hoạt động và được nhân rộng tại nhiều địa phương,

như mô hình về quản lý rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, bảo tồn cây di sản, cộng đồng sử dụng năng lượng tái tạo, tái chế rác thải... Nhìn chung, các tổ chức xã hôi trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam hiện nay hoạt động theo phương thức ủy quyền. Điều này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, các tổ chức xã hội là những tổ chức đại diện cho quyền làm chủ của nhân dân theo nguyên tắc “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, cụ thể là

“phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ của nhân dân; tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội”5. Đặc biệt, các cơ quan nhà nước cần phải “đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước”6. Ở một chiều cạnh khác, tổ chức xã hội cùng với Nhà nước và thị trường vừa hỗ trợ, vừa ràng buộc lẫn nhau tạo thành ba trụ cột vận hành mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội đất nước trên giác độ vừa tham gia hình thành phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vừa phài bảo vệ môi trường.

5 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.50.

6 Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Sđd., t.I, tr.51.

Có thể thấy nguyên tắc này là sự cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”. Thông thường, nhân dân thực hiện quyền kiểm fra, giám sát của mình đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà nước và của hệ thống chính trị thông qua cơ chế gián tiếp, đó là:

ủy thác quyền lực của mình cho những đại diện là bộ máy Nhà nước và thông qua cơ

(6)

chế trực tiếp là tự tập hợp nhau lại thành các tổ chức tự quản, tự trị và tự nguyện. Do vậy, các tổ chức xã hội là kênh thông tin tất yếu, là yêu cầu chính đáng của nhân dân trong việc thực hiện quyền lực của mình, bởi nhân dân sẽ không thể và không bao giờ ủy thác được hết quyền lực của mình vào các cơ quan công quyền đại diện cho mình7 đối với các vấn đề, vụ việc liên quan đến môi trường. Sự ra đời của tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường là tất yếu như vậy. Tại Việt Nam, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định về quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình trong việc bảo vệ môi trường. Điều 1 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định: Bảo vệ môi trường là quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 nhấn mạnh đến sự cần thiết đối với sự tham gia của nhân dân vào mọi quá trình lập kế hoạch, chương trình, thực thi và giám sát những vấn đề kinh tế - xã hội ở địa phương. Bảo vệ môi trường, thứ vốn được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống chính trị, trong đó có sự tham của các tổ chức xã hội theo nguyên tắc thực hiện cơ chế dân chủ trong giám sát, cho thấy Việt Nam nhận thức rất rõ ràng và đúng đắn về vai trò của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường.

7 Xem: Nguyễn Đức Thùy (chủ biên) (2012), Tiếp cận Ọuvền irons Bảo vệ Môi trường Tài liệu Tập huấ^ỉucù, tr 75

Thứ hai, trên thực tế, các tổ chức xã hội còn đảm trách công tác tổ chức tiếp nhận, vận động tài trợ hoặc tài trợ trực tiếp cho những chương trình bảo vệ môi trường, xây dựng và triển khai các dự án nhằm bảo vệ môi trường, cung cấp thông tin về môi trường, đồng thời là cầu nối giữa các

bên liên quan để đưa ra các giải pháp kỳ thuật nhằm giảm thiểu tác hại đối với môi trường; tham gia vào việc đóng góp ý kiến vào việc xây dựng và hoàn thiện chính sách pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường... Các tổ chức xã hội thường được mời tham gia hoặc chủ động tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm để tập hợp ý kiến của các bên liên quan tham gia vào công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp luật đối với các dự án luật quan trọng trong lĩnh vực môi trường.

Thứ ba, các tố chức xã hội còn thực hiện chức năng giám sát bảo vệ môi trường.

Vai trò giám sát bảo vệ môi trường là một trong những nhiệm vụ quan trọng của các tổ chức xã hội. Pháp luật Việt Nam quy định quyền và trách nhiệm của các to chức, cá nhân trong việc tham gia kiểm tra, giám sát bảo vệ môi trường, đặc biệt là các tổ chức xã hội ở cấp độ địa phương. Các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường với tư cách lực lượng cộng đồng, nhân dân, đóng vai trò kiểm ưa, giám sát các hoạt động liên quan đến bảo vệ môi trường của các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân và sự quản lý môi trường của các cơ quan chức năng.

Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 quy định ưách nhiệm thực hiện và kiêm tra việc thực hiện các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường của chủ dự án.

Theo đó, cần phải niêm yết công khai tại địa điểm thực hiện dự án về các loại chất thải, công nghệ xử lý, thông số tiêu chuẩn về chất thải, các giải pháp bảo vệ môi trường đe cộng đồng dân cư biết, kiếm ưa,

(7)

PHẠM VĂN HƯNG

giám sát8. Như vậy, hoạt động kiểm tra, giám sát của cộng đồng dân cư và tổ chức xã hội đã được luật hóa và là yêu cầu không thể thiếu ngay từ khâu thẩm định các dự án đến quá trình thực hiện hay kết thúc các chưong trình, dự án. Ở đây, các tổ chức xã hội đã cho thấy tính hiệu quả trong việc tăng cường sự tham gia mạnh mẽ và sâu rộng của cộng đồng dân cư, các chủ thề nghĩa vụ có liên quan (như chính quyền, doanh nghiệp) vào kiểm tra, giám sát bảo vệ môi trường.

8 Xem: Luật bảo vệ môi trường năm 2020, điều 30, 31,32,33.

Việc giám sát và bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội được thực hiện thông qua các hoạt động phát hiện, tố giác, phản biện xã hội, vận động và tư vấn chính sách. Các tổ chức xã hội còn là cầu nối cho sự tham gia rộng rãi của mọi tầng lớp nhân dân vào giám sát và bảo vệ môi trường. Vì vậy, cần hết sức đề cao vai trò của các tổ chức xã hội và cộng đồng trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Thực hiện vai trò cầu nối giữa các bên liên quan với Nhà nước trong việc tham gia xây dựng và tổ chức thực hiện bảo vệ môi trường của các tổ chức xã hội tại Việt Nam thể hiện ở một số hoạt động sau:

Hoạt động phát hiện, tố giác:

Các tổ chức xã hội phát hiện, tố giác hành vi vi phạm pháp luật về môi trường được quy định trong hệ thống pháp luật quốc gia thực hiện bảo vệ và giám sát môi trường, có các hoạt động nhằm phát hiện những sai phạm của việc thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường. Các tổ chức này hoàn toàn có quyền tố giác những vi phạm về bảo vệ môi trường mà các tổ chức sản xuất, kinh doanh gây ra. Cùng với vai trò tố giác, các tổ chức xã hội thay mặt cho một nhóm xã hội hay một cộng đồng, đặc

biệt là các nhóm yếu thế, có những hành động tập thể để chỉ ra về những sự vi phạm nghiêm trọng đối với môi trường của các tổ chức, doanh nghiệp, các nhân, từ đó tổ giác lên cơ quan chức năng.

Hoạt động phản biện xã hội:

Các tổ chức xã hội đều có vai trò phản biện xã hội đối với đến các dự án luật, hoạch định chính sách, kế hoạch, chương trình liên quan đến sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và bảo vệ môi trường nói riêng. Trong Luật Bảo vệ môi trường Điều 5, khoản 6 quy định: Bảo đảm quyền lợi của tổ chức, cộng đồng dân cư, hộ gia đình và cá nhân đóng góp cho hoạt động bảo vệ môi trường; ưu đãi, hồ trợ hoạt động bảo vệ môi trường; thúc đẩy sản phẩm, dịch vụ thân thiện môi trường; Điều 158, khoản 2 quy định: Tổ chức chính trị-xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp có quyền tư vấn, phản biện về bảo vệ môi trường với cơ quan quản lý nhà nước và chủ dự án đầu tư, cơ sở có liên quan theo quy định của pháp luật.

Như vậy, thông qua hoạt động giám sát, phản viện, các tổ chức xã hội đóng góp tích cực vào các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội, phát triển cộng đồng nói chung, đặc biệt là trong những chương trình, dự án liên quan đến môi trường.

Vận động và tư vấn chính sách:

Vai trò tư vấn, khuyến nghị chính sách của các tổ chức xã hội được xác lập trong các quy định tại Điều 144 của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. Theo đó, các tổ chức, cá nhân đều được khuyến khích thúc

(8)

đẩy phát triển dịch vụ bảo vệ môi trường với chức năng bao gồm tư vấn, đào tạo, cung cấp thông tin về môi trường.

Với vai trò là một kênh thông tin quan trọng của cơ chế dân chủ cơ sở trong bảo vệ môi trường, các tổ chức xã hội không chỉ phản ánh về những vi phạm đối với pháp luật bảo vệ môi trường mà còn đưa ra những kiến nghị, đề xuất cho việc xử lý và giải quyết các vấn đề liên quan đến môi trường. Thông qua các tổ chức xã hội, người dân có thể bày tỏ trực tiếp ý kiến đóng góp của mình đối với những quyết định, chương trình và kế hoạch liên quan đến bảo vệ môi trường ở địa phương và cap quôc gia .

Thứ tư, giáo dục, truyền thông, tuyên truyền, phồ biến bảo vệ môi trường đối với mọi tầng lớp nhân dân.

Các tổ chức xã hội còn có trách nhiệm quan trọng đó là tham gia giáo dục, phổ biến, tuyên truyền bảo vệ môi trường, như xây dựng ý thức bảo vệ môi trường, phổ biến pháp luật bảo vệ môi trường. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 đã tạo hành lang pháp lý cho các tố chức xã hội và cá nhân tham gia vào bảo vệ môi trường nói chung và giáo dục, phổ biến, tuyên truyền về bảo vệ môi trường nói riêng. Theo đó, Nhà nước khuyến khích các tập thể, tổ chức xã hội, cá nhân tham gia đóng góp mọi nguồn lực trong bảo vệ môi trường. Việc phổ biến, tuyên truyền và giáo dục bảo vệ môi trường cho cá nhân, các tổ chức sản xuất, kinh doanh và dịch vụ là trách nhiệm hoạt động của các tổ chức xã hội nói chung, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vự môi trường nói riêng. Điều này được thể hiện ở nhiệm vụ của các tổ chức xã hội trong lĩnh vực

bảo vệ môi trường còn được tái khẳng định trong những điều lệ về hội của các tổ chức xã hội này. Chẳng hạn, Điều lệ Hội bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (một tổ chức xã hội thành viên của Liên hiệp các Hội Khoa học kỳ thuật và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam) đã khẳng định Hội có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức và phổ biến kiến thức về bảo vệ thiên nhiên và môi trường; thực hiện các hoạt động tư vấn, phản biện và giám sát bảo vệ môi trường. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ cơ bản của hầu hết các tổ chức xã hội liên quan đến bảo vệ môi trường9 10.

9 Xem: http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchi tiet.aspx?tintucid=207388.

10 Xem: http://www.vacne.org.vn/dieu-le-to-chuc/

0020200.html#:~:text=%C4%90i%El%BB%81u

%201%E 1 %BB%87%20H%E 1 %BB%99i%20B%

E1 %B A%A3o%20v%E 1 %BB%87,B%E 1 %BB%9 9%20tr%C6%B0%E 1 %BB%9Fng%20B%E 1 %BB

%99%20N%E 1 %BB%99i%20v%E 1 %BB%A5.

Tóm lại, bảo vệ môi trường không chỉ là quyền và nghĩa vụ của mọi công dân, mà quan trọng hơn, đó là trách nhiệm của Nhà nước, của các cấp chính quyền và của toàn xã hội, trong đó có các tổ chức xã hội. Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, nhiều tổ chức xã hội đã được hình thành và hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Bản thân các tổ chức xã hội đã tích cực tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường, đóng góp vào việc theo dõi, giám sát, phát hiện những hành vi vi phạm pháp luật vê bảo vệ môi trường, có vai trò quan trọng trong các hoạt động truyền thông và giáo dục về bảo vệ môi trường. Tuy nhiên, để nâng cao hiệu quả của các tổ chức xã hội trong bảo vệ môi trường trong tình hình mới hơn nữa thì Việt Nam còn rất nhiều việc phải làm. □

Referensi

Dokumen terkait

Trong bản Hương ước này, việc bảo vệ môi trường sống đã được cụ thể hóa bằng các điều luật gắn với làng xã buộc mọi người phải chấp hành.. Thông qua bản Hương ước, chúng ta học được

Vai trò của giáo dục ý thức bảo vệ môi trường trong việc chủ động ứng phó với nguy cơ đe dọa an ninh phi truyền thống ở Việt Nam Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương tại

Từ hướng tiếp cận của lý thuyết cấu trúc - chức năng, để tìm nguồn gốc sâu xa của những sai lệch về mặt đạo đức ở Việt Nam hiện nay, cần đi từ việc phân tích cấu trúc quan hệ giữa các

Bảng 1: Hệ thống phân loại các hoạt động xã hội dựa trên các cấp độ tham gia theo quan điểm của Levasseur và cộng sự Cấp độ Mô tả cấp độ của sự tham gia Ví dụ về việc thực hiện vai trò

Khẳng định vai trò của Mặt trận, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội Bổ sung, phát triển năm 2011 nêu rõ: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể

- Xây dựng tổ nhân dân tự quản, gắn việc bảo vệ môi trường vào nội dung xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư ; xây dựng các phong trào quần chúng về bảo vệ môi trường như phong trào

Theo đó, có thể hiểu hoạt động của ĐBQH ở nước ta làviệcĐBQH thực hiện các chức năng, hay tiến hành các công việc cụ thể trong quyền hạn được pháp luật quy định, phù hợp với vị trí, vai

Làm cho đội ngũ giáo viên các trường mầm non nhận thức rõ vai trò, tác dụng của thiết bị dạy học, đồ dùng, đồ chơi trong việc thực hiện đổi mới phương pháp tổ chức các hoạt động giáo