ĐẠI HỌC SÀI GÒN OF SAIGON UNIVERSITY
Số 78 (8/2021) No. 78 (8/2021)
Email: [email protected] ; Website: http://sj.sgu.edu.vn/
S Ự TƯƠNG ĐỒ NG VÀ D Ị BI Ệ T GI Ữ A PH Ậ T GIÁO HÒA H Ả O VÀ H Ệ PHÁI KH ẤT SĨ
Similarities and differences between The Hòa H ả o Buddhist Bloc and The Sect of Buddhist Mendicancy
TS. Nguyễn Mạnh Tiến
Trư ng Đại học Sài Gòn
TÓM T T
Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ là hai hệ phái Phật giáo nội sinh ra đ i tại Nam Bộ vào kho ng những năm 1939 đến 1947. Khi đó đ t nước ta còn đang trong th i kì bị thực dân Pháp cai trị. Do có cùng bối c nh ra đ i nên hai hệ phái Phật giáo này có những nét tương đồng như: tính dung hòa tổng hợp, cùng th Phật Thích ca Mâu Ni, cùng sử dụng tiếng Việt làm phương tiện truyền bá tôn giáo. Tuy nhiên do quan điểm, tư tư ng của ngư i sáng lập, Hệ phái Kh t sĩ và Phật giáo Hòa H o có những điểm khác nhau như: hoàn c nh xu t thân của ngư i sáng lập, giáo lý, tổ chức hành chánh đạo, kiến trúc và trang phục. Sự giống nhau và khác nhau của hai hệ phái Phật giáo này đã phần nào đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng đa dạng của ngư i Nam Bộ. Nh vậy, hai hệ phái Phật giáo này đã đạt được nhiều thành công và tồn tại đến ngày nay.
Từ khóa: Phật giáo Hòa Hảo, Hệ phái Khất sĩ, so sánh Phật giáo Hòa Hảo và Hệ phái Khất sĩ ABSTRACT
The Hòa H o Buddhist Bloc and the Sect of Buddhist Mendicancy are two indigenous religions born in South Vietnam in the years from 1939 to 1947. At that time, our country was still under the rule of the French colonialists. Because of the same birth background, these two Buddhist sects have similarities such as: general harmony, worshiping Shakyamuni Buddha, and using Vietnamese as a means of spreading their religions. However, due to the founder’s point of view and thought, the Sect of Buddhist Mendicancy and the Hòa H o Buddhist Bloc have different points such as: the founder’s backgrounds, teachings, administrative organization, architecture and costume. The similarities and differences of these two Buddhist sects have partly met the diverse religious needs of the Southern people. Therefore, these two Buddhist sects have achieved much success and come into existence to this day.
Keywords: The Hòa Hảo Buddhist Bloc, The Sect of Buddhist Mendicancy, comparison between The Hòa Hảo Buddhist Bloc and The Sect of Buddhist Mendicancy
1. Đặt vấn đề
Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ là hai hệ phái Phật giáo b n nội sinh ra đ i tại Nam Bộ vào những năm của thập niên 30, 40 thế kỷ XX. Phật giáo Hòa H o do
ông Huỳnh Phú Sổ sáng lập. Hệ phái Kh t sĩ do ông Nguyễn Thành Đạt sáng lập. Tr i qua hơn 80 năm hình thành và phát triển, c hai hệ phái này có sức nh hư ng lớn đến đ i sống văn hóa, tinh thần của một bộ
phận dân cư Nam Bộ. Nhìn chung Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ đều có những thành công nh t định. Điều này là nh c hai hệphái này ra đ i trong một bối c nh thuận lợi; biết b o lưu được những giá trị văn hóa truyền thống gốc nông nghiệp như: tính dung hòa tổng hợp, tính linh hoạt, tính cộng đồng, v.v. Chính những giá trị này đã giúp cho Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ vừa mới lạ, vừa thân quen, thu hút ngư i dân Nam Bộ quy y các tôn giáo này. Tuy nhiên, do tôn chỉ, lập trư ng và nhu cầu sống đạo, Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ cũng có những điểm khác biệt. Bài viết này sẽ phân tích những tương đồng và dị biệt của Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ.
2. Sự giống nhau giữa Ph t giáo Hòa H o và H phái Khất sĩ
2.1. Bối cảnh ra đời
Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ cùng ra đ i tại Nam Bộ, cùng kho ng th i gian trước sau kho ng 8 năm. Phật giáo Hòa H o ra đ i năm 1939. Hệ phái Kh t sĩ thành lập năm 1947 (tính từ khi Tổ sư Minh Đăng Quang thu nhận đệ tử). C hai tôn giáo này cùng ra đ i trong một giai đoạn lịch sử với bối c nh kinh tế, xã hội chính trị giống nhau.
Giai đoạn này, Nam Bộ còn là vùng đ t thuộc địa. Nhân dân bị bức bóc lột; đ i sống vô cùng khổ cực. Ngư i dân từ chỗ là ngư i có ruộng đ t bị biến thành ngư i làm thuê cho các địa chủ, thực dân. Ph n kháng chế độ thực dân, nhân dân nhiều nơi vùng lên kh i nghĩa, song t t c đều bị đàn áp th t bại. Nhân dân lại càng bị áp bức.
Một số ngư i dân Nam Bộ muốn tìm chỗ dựa nơi tôn giáo nhưng các tôn giáo cổ xưa thì suy thoái hoặc không có mặt tại Nam Kỳ vào lúc này. Giáo lý Công giáo lại có một số quy định không phù hợp so với
phong tục tín ngưỡng b n địa. Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ ra đ i đã đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của ngư i dân Nam Bộ. Chính hoàn c nh kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam lúc b y gi đã cho Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ đ t sống và phát triển đến ngày hôm nay.
2.2. Chủtrương dung hòa, tổng hợp 2.2.1. Sự dung hòa tổng hợp của Phật giáo Hòa Hảo
Tôn chỉ của đạo Hòa H o là “Học Phật, tu thân”. Học Phật là học giáo lý nhà Phật.
Tu thân là sửa mình theo học thuyết của Khổng Tử. Tuy tôn chỉ này không nói sự tổng hợp Phật giáo và Nho giáo của đạo Hòa H o nhưng qua đó cho th y rằng đạo Hòa H o thoáng m , dung hòa. Danh xưng “Hòa H o” cũng đã nói lên sự dung hòa hữu h o.
2.2.1.1. Yếu tố Phật giáo trong Phật giáo Hòa Hảo
Lúc thiếu th i, ông Huỳnh Phú Sổ đã lên núi học Phật. Ông đã th m nhuần giáo lý nhà Phật. Chính vì vậy mà giáo lý của Phật giáo Hòa H o th m đậm giáo lý Phật Giáo. Những triết lý về Tam nghiệp, Tứ diệu đế, Bát Chánh đạo của nhà Phật đều được kế thừa trong Phật giáo Hòa H o.
Ông Huỳnh Phú Sổ khẳng định Bát chánh đạo r t quan trọng và ngư i tín đồ cần ph i biết. Ông đã viết như sau:
“Chữ Bát Chánh rõ ràng trong giấy, Là chơn truyền của Đức Thích Ca”.
“Người tu hành cần phải tìm ra, Cho dân biết mục đầu Chánh Kiến”.
…
“Kinh nghiệm rồi ta mới diễn ca, Câu Chánh Niệm thiết tha nhiều nỗi”.
“Mục Chánh Định thiệt là rất khó, Giữ cho lòng bất động như như”.
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ)
Tứ Diệu đế cũng được gi ng gi i trong giáo lý Phật giáo Hòa H o. Ông Huỳnh Phú Sổ viết:
“Tứ Diệu đế ai có mến ưu, Thì Lão cũng kể sơ thêm nữa.
Chữ Tập Đề này đà đã mở,
Đểđem vào khuôn khổngười hiền.
…Đến Diệt Đề trừ vậy dục xưa.
Cõi hồng trần các việc mến ưa, Sự giả tạm ta nên rứt bỏ.
Muốn tâm thánh ngày kia sáng tỏ, Thì Khổ đề phải chịu nhọc hành.
Chớ đừng có ham điều sung sướng, Đức Phật Tổnào đâu hẹp lượng, Chịu nhọc nhằn mới rõ Đạo Đề. Thấy một đằng thẳng bẳng mà mê, Ôi chừng đó mới là mầu nhiệm.
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ)
2.2.1.2. Yếu tố Nho giáo trong Phật giáo Hòa Hảo
Giáo lý Nho giáo dạy con ngư i muốn lập thân giúp đ i trước ph i tu thân cho ra ngư i đạo đức. Với tôn chỉ“Học Phật – Tu thân”, Phật giáo Hòa H o chủtrương muốn thành Phật trước ph i thành nhân. Phật giáo Hòa H o sử dụng giáo lý Khổng – Mạnh làm nền t ng tu thân:
“Khuyên trai gái học theo Khổng Mạnh, Sách thánh hiền dạy đạo làm người.”
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ)
Như vậy, Phật giáo Hòa H o khuyên nhủngư i tín đồ tu thân ph i noi theo giáo lý Nho giáo. Nam ph i giữ tam cang, ngũ thường. Nữ ph i gìn giữ tam tùng, tứ đức.
“Đi thưa về cũng phải trình,
Công, Dung, Ngôn, Hạnh thân mình phải trau.”
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ)
Nội dung tu thân của Phật giáo Hòa H o khuyên nhủ tín đồ xem trọng và lo báo đáp bốn trọng ân: ân tổ tiên, cha mẹ; ân đ t nước; ân tam b o; ân đồng bào, nhân loại.
Ân Tổ tiên cha mẹ
Tổ tiên, cha mẹ là những ngư i đã cưu mang, nuôi dưỡng và dạy dỗ ta từ thu bé cho đến khi trư ng thành. Ông bà, cha mẹ tạo dựng sự nghiệp cho con cháu. Vì vậy, bổn phận con cháu ph i biết nhớơn và hiếu th o với tổ tiên, cha mẹ. Nội dung này đúng với nội dung Phụ tử cương của Nho giáo. Trong S m gi ng của Phật giáo Hòa H o có viết:
“Hiếu trung lòng chớ vội quên, Sống lo trọn Đạo, thác lên Tiên Đài".
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ) Ân Đất nước
Giáo lý Phật giáo Hòa H o gi i rõ:
Sinh ra là nh ân ông bà cha mẹ, lớn lên ta lại nh ân Đ t nước để hư ng t c đ t mà ta sống, ngọn rau mà ta ăn, giống nòi ta duy trì và phát triển trên m nh đ t này. Nên ta ph i có nghĩa vụ xây dựng đ t nước vào th i bình và b o vệ đ t nước vào th i chiến. Ông Huỳnh Phú Sổ có dạy: “Bờ cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc gia mạnh giàu mình ta mới ấm”. Trong bốn trọng ân thì ân đ t nước là cao trọng. Dù ngư i tu hay ngư i đ i ai cũng mang ân quốc gia.
Ông Huỳnh Phú Sổ, là một lãnh tụ tôn giáo, có cách nhìn thông thoáng, tiến bộ.
Ông cho rằng khi đ t nước lâm nguy,
ngư i tu sĩ không thể th ơ, lo tụng kinh, gõ mõ mà ph i biết tham gia chống giặc.
Khi đ t nước thanh bình thì tu sĩ tiếp tục con đư ng tu luyện:
“Tăng sĩ quyết chùa am bế cửa, Tuốt gươm vàng lên ngựa sông pha.
Đền xong nợ nước thù nhà,
Thiền môn trở gót Phật Đài Nam Mô.”
(Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn.
1966. Sấm giảng Thi văn toàn bộ) Ân Tam Bảo
Tam b o tức là Phật, Pháp, Tăng. Hai ân trên đều thiên về vật ch t, còn về mặt tinh thần thì cần ph i có sự giúp đỡ của Phật, Pháp, Tăng. Phật là bậc giác ngộ đã tìm ra con đư ng gi i thoát chúng sinh khỏi mọi sự đau khổ của chốn hồng trần.
Ngư i đã tìm ra con đư ng giác ngộ để chúng sinh có thể dựa vào đó mà gi i thoát b n thân, con đư ng đó chính là Pháp.
Tăng chính là những đệ tử của Đức Phật, những ngư i tu hành theo Pháp và có thể giúp chúng sinh hiểu được thêm về Pháp của Phật để chúng sinh càng gần hơn đến con đư ng giác ngộ. Nên tín đồ ph i kính ngưỡng Phật, nghiêm cẩn tuân hành theo Pháp và tôn trọng chư Tăng.
Ân Đồng bào và Nhân loại
Trong cuộc sống, ai cũng cần có sự giúp đỡ của cộng đồng, nhân loại. Vì vậy, Phật giáo Hòa H o khuyên nhủ tín đồ ph i biết nhớ ơn đồng bào, nhân loại và ph i nỗ lực giúp đỡ cộng đồng nếu có điều kiện.
2.2.2. Sự dung hòa tổng hợp của Hệ phái Khất sĩ
Hệ phái Kh t sĩ chủ trương dung hòa truyền thống tu học của Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông.
Từkhi đức Phật Thích Ca Mâu Ni tịch diệt, đạo Phật bắt đầu phân hóa thành nhiều chi, nhiều phái. Mỗi chi phái đạo Phật có
cách thực hành nghi lễ th tự, cúng tế, giới luật, trang phục riêng. Chính vì mỗi phái đạo Phật có nét riêng nên đôi khi có x y ra b t hòa giữa các hệ phái đạo Phật. Có nhiều hệ phái Phật nhưng có hai hệ phái lớn đó là Nam tông và Bắc tông có nh hư ng đến Hệ phái Kh t sĩ. Hai hệ phái Phật giáo này có những nét khác nhau rõ rệt. Tổ sư Minh Đăng Quang đã khéo léo tổng hợp hai hệ phái Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông để thành lập ra một hệ phái mới gọi là Hệ phái Kh t sĩ. Hệ phái Kh t sĩ ra đ i b o đ m đúng truyền thống tu hành của hai hệ phái nhưng cũng phù hợp tâm lý thích sự dung hòa của ngư i Nam Bộ. Sự dung hòa của hệ phái Kh t sĩ được thể hiện rõ qua giới luật, trang phục, ẩm thực.
2.2.2.1. Về giới luật
Bộ Luật của Hệ phái Kh t sĩ thể hiện sự dung hòa giữa giới luật Nam tông và giới luật Bắc tông. Nếu sử dụng bộ luật của Phật giáo Nam tông thì Hệ phái Kh t sĩ sẽ không thu nhận Tỳ kheo ni và không được lập Ni đoàn. Vì truyền thống Nam tông chỉ nhận tu sĩ nam phái xu t gia. Trong khi đó, Phật giáo Bắc tông có cho phép nữ giới xu t gia. Kết hợp hai truyền thống tu hành của Nam tông và Bắc tông, Tổ sư Minh Đăng Quang cho lập Tăng đoàn và Ni đoàn. Đây là một sáng kiến m ra cho nữ giới con đư ng tu học, gi i thoát. Tổ sư Minh Đăng Quang đã tham kh o Bộ luật Dharmaguptama của Phật giáo Đại thừa để soạn th o luật cho Hệ phái Kh t sĩ. Theo đó, Tỳkheo (tu sĩ nam) ph i giữ 250 giới, Tỳ kheo ni (tu sĩ nữ) giữ 348 giới. Ngoài ra, Tổ sư Minh Đăng Quang còn dung hòa nhiều quan điểm, tư tư ng của Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông khác. Thí dụ, Ngài chú trọng Tứ y pháp Trung đạo1 của Phật giáo Nam tông nhưng Ngài lại
cũng đề cao Tứ thánh chủng2 của Phật giáo Bắc tông.
2.2.2.2. Về trang phục
Trang phục giữa các hệ phái khác nhau. Phật giáo theo truyền thống Nam tông như n Độ, Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Campuchia… đắp y giống như đức Phật lúc còn tại thế. Trang phục Phật giáo Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật B n, Tây Tạng, Mông Cổ, Phật giáo Bắc tông Việt Nam… dựa trên chiếc y của đức Phật đã biến t u, kết hợp cùng yếu tố trang phục truyền thống từng nước.
Tổ sư Minh Đăng Quang đã kết hợp những nét đẹp trong trang phục của hai trư ng phái để “tạo nên một sắc thái độc đáo vừa phù hợp với hình thức và tinh thần của Phật tăng xưa, lại cũng rất phù hợp với thẩm mỹ của người Việt và truyền thống Phật giáo Đại thừa” (Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hệ phái Kh t sĩ, 2016, tr.543).
Hệ phái Kh t sĩ quy định:
- Tăng có 3 y: y thượng bá nạp, y trung v i nguyên và y hạ v i nguyên.
Ni lưu có trang phục khác với trang phục chư tăng. Chiếc y trung giống như chiếc áo dài Việt Nam nên khi đắp y vẫn thể hiện sự kín đáo, đoan nghiêm. Theo Đại đức Thích Giác Hoàng: “… một số Tỳ kheo ni Nam truyền khi thọ đại giới cũng được đắp y quấn (lum) giống như chư Tăng, hoặc đắp y chừa cánh tay (mà không có áo dài tay) như Tăng giới, có những bất tiện nhất định về thẩm mỹ y phục” (Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hệ phái Kh t sĩ, 2016, tr.543).
2.2.2.3. Vềẩm thực
Phật giáo Nam tông quy định tu sĩ xu t gia (gọi là sư) mỗi ngày chỉăn hai cữ: sáng ăn điểm tâm, trưa ăn cữ chính. Buổi sáng,
sau khi điểm tâm, các sư đi kh t thực (tức là đi xin ăn) hóa duyên. Các sư cho rằng, tín chủ, phật tử bận việc, không thể đến chùa cúng dư ng nên các sư đi đến từng thôn sớm để kh t thực, tạo điều kiện cho các tín chủ, phật tử cúng dư ng tạo phước.
Đến 11 gi trưa, các sư ph i về nơi trú xứ (chùa, tịnh xá, am, cốc…) cúng ngọ, hồi hướng công đức cho tín chủ đã cúng dư ng. Sau đó các sư thọ thực. Buổi chiều, các sư lo tu tập. Do đi kh t thực, vật thực tín chủcúng dư ng đa dạng có thể là thực phẩm chay, cũng có c thực phẩm mặn.
Nên các sư Phật giáo Nam tông không chú trọng việc ăn chay. Các sư được phép ăn mặn với điều kiện vật phẩm đó là Tam tịnh nhục. Có nghĩa là các sư ăn thịt động vật nhưng các sư không th y, không nghe tiếng kêu la của con vật bị giết và không nghĩ con vật đó bị giết vì mình.
Phật giáo Bắc tông không quy định khắt khe mỗi ngày các thầy (các tu sĩ xu t gia Bắc truyền gọi là thầy) ăn bao nhiêu lần. Ngoài bữa ăn chính ra, các thầy còn có thể ăn thêm bữa phụ. Hay khi đi làm việc đạo, các thầy có thể ăn ngoài gi . Tuy nhiên, Phật giáo Bắc tông quy định rõ ràng rằng tu sĩ xu t gia ph i ăn chay và cật lực ph n đối thậm chí chỉ trích nặng nề đối với những ai xu t gia mà còn ăn thịt động vật dù với b t kì lý do nào. Thật ra, khi mới du nhập vào Trung Quốc cho đến th i đại Nam Bắc triều Trung Quốc, các thầy tu Phật giáo đều ăn mặn. Đến đ i vua Lương Võ Đế (464–569), ông y với tư cách là một quốc vương phật tử đã cổ súy cho việc ăn chay trư ng đối với các tu sĩ. Từ đó, ăn chay trư ng tr thành quy định bắt buộc cho tu sĩ xu t gia. Phật giáo Bắc tông một sốnước vẫn ăn mặn ngay từ đầu khi Phật giáo du nhập cho đến hôm nay như Mông Cổ, Tây Tạng, Bhutan, Banladesh, Nepal, v.v. (Viện
Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hệ phái Kh t sĩ, 2016, Hệ phái Kh t sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập. NXB Hồng Đức – Thích Giác Hoàng, Đạo Phật Kh t sĩ: Sự tổng hòa của hai truyền thống Phật giáo Nam tông và Bắc tông, tr. 543).
Tổ sư Minh Đăng Quang kế thừa những tinh hoa của hai hệ phái Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc tông. Từ đó Ngài đưa ra giới luật về kh t thực và thọ trai. Theo đó, tu sĩ hệ phái bắt buộc ăn chay, mỗi ngày chỉđược ăn một lần vào gi ngọ (11 gi - 13 gi ). Từ gi ngọ hôm nay đến gi ngọ hôm sau, tu sĩ không được dùng b t cứ vật thực gì. Khi đi kh t thực, tín chủ cúng dư ng, các sư ph i hỏi vật thực là chay hay mặn. Nếu vật thực là chay, các sư mới được nhận. Khi mới thành lập, các tu sĩ ph i đi kh t thực hóa duyên. Ngày nay, Giáo hội Phật giáo Việt Nam quy định tu sĩ Hệ phái Kh t sĩ không được đi kh t thực. Tuy nhiên, vào những ngày lễ truyền thống của hệ phái, các sư cũng đi kh t thực nhưng đây chỉ là nghi thức, phục hiện lại truyền thống kh t sĩ của hệ phái.
Hệ phái Kh t sĩ chỉ tổng hợp cái hay của các hệ phái Phật vì lập trư ng của hệ phái này là: “Nối truyền Thích ca chánh pháp”. Trong khi Phật giáo Hòa H o chủ trương tổng hợp Phật giáo, Nho giáo kết hợp với tín ngưỡng dân gian th cúng ông bà. Nhưng nhìn chung hai tôn giáo này cùng giống nhau chỗ dung hòa, c i m .
2.3. Ý nghĩa của biểu tượng
Đạo Hòa H o chọn biểu tượng th tự là t m “Trần Dà”. Phật giáo Hòa H o gi i thích màu dà là màu do các màu khác trộn lẫn mà thành. Từ lý gi i này cho th y biểu tượng th cúng của đạo Hòa H o cũng mang tín dung hòa tổng hợp. Trong t m Trần Dà hội đủ c Phật, Pháp, Tăng. Nên
Phật giáo Hòa H o th Trần Dà là th Phật.
Với tâm nguyện “Nối truyền Thích ca chánh pháp” nên trong nghi thức th tự hay trong đ i sống thực tiễn, Hệ phái Kh t sĩ luôn thể hiện đúng chân truyền của đạo Phật. Trong chánh điện tịnh xá, Hệ phái Kh t sĩ chỉ th một tượng Phật Bổn sư Thích Ca Mâu Ni ngồi với tư thế kiết già.
Trong khi các hệ phái Phật giáo Bắc tông th r t nhiều vị Phật.
2.4. Sử dụng tiếng Việt và các thểthơ để truyền đạo
Ngư i miền Tây ch t phác thật thà. Họ yêu những làn điệu dân ca, câu hò, những bài thơ lục bát, song th t lục bát. Nó vốn đơn gi n, mộc mạc, dễ nhớ, dễ thể hiện.
Trong khi lao động hay lúc thư nhàn, ngư i Nam Bộ hay hò, ca những điệu lý, ngâm nga những bài thơ, câu chuyện bằng thơ lục bát. Đó là lý do mà ngư i miền Tây thuộc nhiều câu chuyện bằng thơ như Lục Vân Tiên, Truyện Kiều, bài vè, bài s m, v.v. Nắm bắt được tâm lý này của ngư i dân Nam Bộ nên Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ đã khai thác yếu tố ngôn ngữ thuần Việt để làm công cụ truyền đạo.
Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ và Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương dùng tiếng thuần Việt làm phương tiện để phổ truyền giáo lý. Các Ngài đã dùng tiếng Việt để diễn gi i những giáo lý căn b n của đạo Phật. Thỉnh tho ng, các Ngài còn dùng thể thơ lục bát, song th t lục bát, kệ để gi ng dạy giáo lý cho phật tử nghe.
Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ khi gi ng giáo lý nhà Phật đã có sự gi ng lược, dễ hiểu.
Ngài không chú trọng nghi lễ cúng tế, hình thức pháp y, pháp khí. Theo Ngài, tu thân, tu tâm mới quan trọng. Trong kho ng 8 năm truyền đạo, Ngài vừa trị bệnh miễn phí cho dân, vừa gi ng gi i giáo lý, đôi khi Ngài còn nói c thiên cơ (tiên tri th i
cuộc). Những l i gi ng, l i s m của Ngài được đúc kết thành quyển S m gi ng – Thi văn toàn bộ. Trừ những l i s m truyền khó hiểu ra, các bài gi ng của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đều mộc mạc, gi n dị, dễ hiểu.
Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ diễn gi i Tứ diệu đế, Bát chánh đạo của Phật giáo ra thành thểthơ như đã trích dẫn mục 2.2.1.
Trong gần 10 năm truyền đạo, Tổ sư Minh Đăng Quang đã để lại một bộ Chơn lý gồm 69 bài gi ng ngắn gọn, dễ hiểu về giáo lý đạo Phật, về Hệ phái Kh t sĩ. Về nghi thức tụng niệm, những bài kinh tụng của Hệ phái Kh t sĩ đều sử dụng tiếng thuần Việt và các thểthơ lục bát, song th t lục bát, tứ tuyệt, v.v. Chính vì vậy mà l i kinh, tiếng kệ của Hệ phái Kh t sĩ dễ đi vào lòng ngư i.
Thí dụ bài kệ Khai kinh phiên âm theo Hán Việt:
Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp Bá thiên vạn kiếp nan tương ngộ Ngã kim thính văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chơn thiệt nghĩa.
(Thích Đăng Quang, 2009, tr.94) Bài kệ phiên âm Hán Việt đọc nghe âm điệu hay nhưng r t khó hiểu vì không ph i ngư i Nam Bộnào cũng biết chữ Hán.
Hệ phái Kh t sĩ đã sử dụng bài kinh này được dịch ra tiếng Việt giúp cho phật tử dễ nhớ, dễ hiểu, dễđọc.
Vòi vọi không trên pháp thẳm sâu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Con nay nghe đặng chuyên trì niệm Nguyện giải Như Lai nghĩa nhiệm mầu.
(Giáo hội Phật giáo Việt Nam, 2009, tr.45) Khi sử dụng các bộ kinh Phật, bài kinh tụng được dịch của các hệ phái Phật giáo khác, Hệ phái Kh t sĩ cũng sử dụng những bộ kinh, những bài kinh được dịch sang tiếng Việt như Kinh Pháp cú b n dịch của
Hòa thượng Thích Minh Châu (1969) hay bài Kinh Vu Lan, Báo hiếu tứ trọng ân, Kinh Phổ môn, Kinh Bát nhã b n thơ, v.v.
Bài thơ Khất sĩ của tác gi Nguyên Thư ng được đăng trên trang chuaxaloi.vn có đoạn thơ sau đã nói lên chủ trương của Hệ phái Kh t sĩ:
Những bài kinh Phật dạy Những lời Tổkhuyên răn Uyển chuyển thành vần điệu Mở tâm sáng bao người
Hệ phái Kh t sĩ chọn ngôn ngữ thuần tiếng Việt để phổ thông giáo lý là một chủ trương đúng đắn vì kinh sách thuần Việt dễ đọc, dễ nhớ. Triết lý nhà Phật được chuyển t i bằng l i lẽ chân ch t, mộc mạc, dễ hiểu r t hợp với tính cách của ngư i dân Nam Bộ. Chính vì lẽđó, Hệ phái Kh t sĩ gần gũi và thu hút được đông đ o ngư i dân Nam Bộ tin theo.
3. Sự khác nhau giữa H phái Khất sĩ và Ph t giáo Hòa H o
3.1. Giáo lý
Giáo lý cơ b n của Phật giáo Hòa H o có hai phần: Phật học và tu thân. Phần Phật học l y giáo lý nhà Phật làm cơ b n. Phần tu thân, Phật giáo Hòa H o kế thừa giáo lý Nho giáo, hướng tín đồ thực hành Tứ ân (Ân cha mẹ, ân đ t nước, ân đồng bào nhân loại, ân Tam b o). Chủ trương của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ muốn c i tổ Phật giáo truyền thống, đơn gi n giáo lý, giới luật Phật giáo để mọi ngư i cùng tu. Ông cho rằng giáo lý Phật giáo truyền thống vốn cao siêu, khó hiểu, khó hành, khó thành.
Những l i gi ng dạy của Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ được ghi trong Sấm giảng thi văn toàn bộ.
Với chí nguyện “Nối truyền Thích ca chánh pháp”, Hệ phái Kh t sĩ chỉ tích hợp giáo lý hay của các hệ phái Phật giáo khác như Phật giáo Nam tông và Phật giáo Bắc
tông. Cụ thể, Hệ phái Kh t sĩ kế thừa phương pháp thực hành trì bình kh t thực, ăn ngọ và mỗi ngày chỉ ăn một bữa, sử dụng kinh điển tiếng Pali theo truyền thống Nam tông, noi theo Phật Tăng xưa th i n Độ cổ đại. Hệ phái Kh t sĩ cũng tích hợp những cái hay của hệ phái Phật giáo Bắc tông như ăn chay, thu nhận Ni giới xu t gia, sử dụng kinh điển chữ Hán. Những bài gi ng của Tổ sư Minh Đăng Quang được tổng hợp lại thành Bộ chơn lý gồm 69 bài.
3.2. Tổ chức hành chánh đạo
Phật giáo Hòa H o không có hàng giáo phẩm. Điều hành giáo hội Trung ương là do một Ban trị sựđứng đầu là Hội trư ng, dưới có Phó Hội trư ng và các Viện đặc trách. Tại địa phương: tỉnh, huyện, xã, p đều có Ban trị sự qu n lý bổn đạo địa phương.
Từ khi thành lập hệ phái, Tổ sư Minh Đăng Quang đã chú trọng xây dựng, đào tạo Tăng đoàn. Ngài cho thành lập giáo hội dựa vào sốlượng ngư i xu t gia. Tiểu giáo hội có 20 vị; Trung giáo hội có 100 vị; Đại giáo hội có 500 vị. Từ năm 1954 tr về sau, Giáo hội Kh t sĩ được chia thành nhiều giáo đoàn, tên giáo đoàn là tên vị Trư ng lão lập giáo đoàn. Từ năm 1981, tên các giáo đoàn được đặt theo số thứ tự như: Giáo đoàn I, Giáo đoàn II… Giáo đoàn VI. Năm 1966, các giáo đoàn hợp nh t thành lập Giáo hội Tăng già Kh t sĩ Việt Nam, đứng đầu là đức Tăng thống. Về tổ chức hành chánh, đứng đầu là Trung ương trụ s đặt tại Tịnh xá Trung Tâm (98 Nguyễn Trung Trực, Quận Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh ngày nay). các tỉnh, huyện, xã thì lập các chi hội sau cùng là Tịnh xá, am, cốc.
Đặc biệt Hệ phái Kh t sĩ có Giáo hội riêng cho nữ tu. Năm 1958, Ni trư ng Huỳnh Liên thành lập Giáo hội Ni giới Việt Nam trụ s đặt tại Tịnh xá Ngọc
Phương (491/1 Lê Quang Định, Phư ng 1, Quận Gò V p ngày nay). Chức năng và nhiệm vụ của Giáo hội Ni giới Kh t sĩ Việt Nam cũng giống chức năng, nhiệm vụ của Giáo hội Tăng già Kh t sĩ Việt Nam.
3.4. Về kiến trúc
- Kiến trúc Phật giáo Hòa H o
Tổ đình Phật giáo Hòa H o đơn gi n, chỉ là một tòa nhà ba gian c t theo kiểu nhà vư n Nam Bộ. Các yếu tố trang trí cũng không đặc sắc và không mang nhiều ý nghĩa biểu trưng.
- Kiến trúc Hệ phái Kh t sĩ
Ban đầu, Tổ sư Minh Đăng Quang chủ trương đi kh t thực, hóa duyên, không một chỗ quá ba tháng, tịnh xá chỉ là nơi tạm dừng chân nên lúc này tịnh xá chỉ c t tạm đơn gi n:
Về chỗ ở thung dung nhàn hạ, Dưới gốc cây lều lá đơn sơ, Miễn là tránh nắng đụcmưa,
Không cần xinh đẹp, chẳng ưa màu mè”
(Giáo hội Phật giáo Việt Nam – Hệ phái Kh t sĩ, 2009, tr.171).
Về sau, khi Hệ phái phát triển, tịnh xá cũng được xây dựng khang trang, kiên cố.
Điểm đặc biệt là các hạng mục trong tịnh xá đều được quy định rõ ràng và thống nh t toàn hệ phái. Tịnh xá các nơi có lớn, nhỏ về kích thước nhưng những quy định về bố cục bên trong trú xứ và kích thước các hạng mục đều có một ý nghĩa biểu trưng. Ngôi tịnh xá hình bát giác tượng trưng cho bát chánh đạo (chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh t n, chánh niệm, chánh định). Bên trong tịnh xá có tứ trụ (bốn cây cột) tượng trưng cho tứ chúng (chúng Phật tử nam, chúng Phật tử nữ, chúng Tăng, chúng Ni). Bốn chúng này hình thành giáo hội. Trung tâm chánh điện có tháp tam c p
tượng trưng cho Tam B o (Phật, Pháp, Tăng) cũng là tượng trưng cho Giới, Định, Huệ. Trên tháp tam c p có B o tháp 13 tầng, bên trong tháp là tượng Phật Thích ca Mâu ni. Số 13 của B o tháp theo Hệ phái Kh t sĩ gi i thích rằng con đư ng tiến hóa của chúng sanh có 13 bậc là: lục phàm (địa ngục, quỷ đói, súc sanh, thần A-tu-la, ngư i, tr i), Tứ thánh (Thánh một lần tái sanh, Thánh không còn tái sanh cõi này, Thánh vô sanh A–la–hán), Tam tôn (Duyên giác, Bồ tát, Như lai). Phật bậc thứ 13.
Trên nóc chánh điện có hoa sen, trên hoa sen có ngọn đèn chơn lý. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết, thoát tục. Ngọn đèn chơn lý tượng trưng cho trí tuệ, chơn lý, giáo pháp.
3.5. Về trang phục
Trang phục của Hệ phái Kh t sĩ có sự kết hợp giữa trang phục của Phật giáo Bắc tông và Phật giáo Nam tông. Màu trang phục chủ yếu là màu vàng, nâu, lam, v.v.
Tín đồ thư ng mặc màu lam, áo giới màu trắng. Tăng, ni xu t gia ph i cạo tóc.
Trang phục của Phật giáo Hòa H o chỉ có màu đen, không có trang phục riêng cho chức việc, tín đồ. Trong sinh hoạt, tín đồ Phật giáo Hòa H o mặc áo bà ba đen. Khi
hành lễ, tín đồ mặc áo dài màu đen. Tín đồ và chức việc không cạo tóc. Tín đồ nam giới có khi để tóc, để râu.
Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ là hai tôn giáo nội sinh ra đ i tại Nam Bộ vào những năm của thập niên 30, 40 của thế kỷ XX. Khi đó đ t nước ta còn đang trong th i kì bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến nhà Nguyễn cai trị. Nhân dân chịu c nh lầm than khốn khổ. Phật giáo Hòa H o và Hệ phái Kh t sĩ tr thành chỗ dựa tinh thần của một bộ phận cư dân Nam Bộ. Do có cùng bối c nh ra đ i nên hai hệ phái Phật giáo có những nét tương đồng như: tính dung hòa tổng hợp, cùng th Phật Thích ca Mâu ni, cùng sử dụng tiếng thuần Việt làm phương tiện truyền bá tôn giáo.
Tuy nhiên do quan điểm, tư tư ng của ngư i sáng lập, Hệ phái Kh t sĩ và Phật giáo Hòa H o có những điểm khác nhau như Giáo lý, tổ chức hành chánh đạo, kiến trúc và trang phục. Sự giống nhau và khác nhau của hai hệ phái Phật giáo này đã phần nào đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng đa dạng của ngư i Nam Bộ. Nh đáp ứng được nhu cầu tín ngưỡng của ngư i dân Nam Bộ nên hai hệ phái Phật giáo này đã đạt được nhiều thành công và tồn tại đến ngày nay.
TÀI LI U THAM KH O
Tổsư Minh Đăng Quang (2016). Chơn Lý. NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
Thích Đăng Quang (2009). Kinh nhật tụng. NXB Hồng Đức.
Thích Trí Qu ng, Thích Giác Toàn, Nguyễn Quốc Tu n (chủ biên) (2016). Hệ phái Khất sĩ: Quá trình hình thành, phát triển và hội nhập. Kỷ yếu Hội th o của Viện Nghiên cứu Tôn giáo thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Hệ phái Kh t sĩ. NXB Hồng Đức.
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (2009). Nghi thức tụng niệm. NXB Tôn giáo.
Ban Trị sự Trung ương Phật giáo Hòa H o, Ban Phổ truyền giáo lý biên soạn (1966). Sấm giảng Thi văn toàn bộ. NXB Tôn giáo.
Ngày nhận bài: 28/4/2021 Biên tập xong: 15/8/2021 Duyệt đăng: 20/8/2021