TƯƠNG QUAN CÁC GIÁ TRỊ XÉT NGHIỆM
THEO DÕI HEPARIN KHÔNG PHÂN ĐOẠN Ở BỆNH NHÂN ĐƯỢC OXY HÓA QUA MÀNG NGOÀI CƠ THỂ
Phạm Thị Ngọc Thảo1, Nguyễn Phi Tùng1, Phan Thị Xuân2, Trương Thị Việt Hà2, Lê Nguyên Hải Yến2, Nguyễn Mạnh Tuấn2, Trương Ngọc Hải1, Dư Quốc Minh Quân1, Lê Phương Thảo1, Hồ Thị Thi2,
Nguyễn Xuân Bách1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Trong quá trình oxy hóa qua màng ngoài cơ thể (Extracorporeal membrane oxygenation- ECMO) bệnh nhân thường được sử dụng thuốc kháng đông, phổ biến nhất là heparin không phân đoạn (unfractionated heparin- UFH) và được theo dõi bằng các xét nghiệm ACT, APTT và anti-Xa. Tuy nhiên, hiện tại chưa có đồng thuận hoàn toàn trong chiến lược sử dụng và theo dõi thuốc kháng đông.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định sự tương quan giữa các xét nghiệm ACT, APTT và anti- Xa với nhau và với liều UFH.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả hồi cứu. Tiêu chuẩn chọn là bệnh nhân người lớn thực hiện ECMO trong giai đoạn từ tháng 01/2019 tới tháng 01/2020 ở một bệnh viện tuyến ba, được ghi nhận đủ các xét nghiệm ACT, APTT, anti-Xa, anti-thrombin và liều heparin UF cùng một thời điểm.
Kết quả: Trong 37 bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, thu được 129 bộ xét nghiệm cùng thời điểm gồm ACT, APTT, anti-Xa, anti-thrombin, liều heparin UF cùng thời điểm, trong đó có 102 bộ xét nghiệm giảm anti- thrombin. Hệ số tương quan của APTT và ACT so với anti-Xa lần lượt là 0,72 và 0,33, p <0,001. Ở những bệnh nhân không giảm anti-thombin, hệ số tương quan giữa APTT và anti-Xa là 0,80, p <0,001. ACT không tương quan với liều heparin UF. Anti-Xa và APTT chỉ tương quan thuận trung bình với liều UFH ở nhóm không giảm anti-thrombin, với hệ số tương quan lần lượt là 0,62 và 0,57, p <0,05.
Kết luận: Giá trị APTT tương quan thuận mạnh với giá trị anti-Xa cùng thời điểm, tương quan thuận rất mạnh ở những bệnh nhân không giảm anti-thrombin. Giá trị ACT tương quan yếu với giá trị anti-Xa cùng thời điểm và không tương quan với liều heparin. Các giá trị APTT và anti-Xa chỉ tương quan thuận trung bình với liều heparin UF ở nhóm không giảm anti-thrombin.
Từ khóa: oxy hóa qua màng ngoài cơ thể, thuốc kháng đông
ABSTRACT
CORRELATION OF TESTS TO MONITOR OF UNFRACTIONED HEPARIN IN ADULTS ON EXTRACORPOREAL MEMBRANE OXYGENATION
Pham Thi Ngoc Thao, Nguyen Phi Tung, Phan Thi Xuan, Truong Thi Viet Ha, Le Nguyen Hai Yen, Nguyen Manh Tuan, Truong Ngoc Hai, Du Quoc Minh Quan, Le Phuong Thao, Ho Thi Thi,
Nguyen Xuan Bach * Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 1 - 2021: 35 - 41 Background: During ECMO, anticoagulant, particularly unfractionated heparin (UFH) is commonly used and monitored by laboratory tests, including ACT, APTT, and anti-Xa.
1Bộ môn Hồi sức – Cấp cứu – Chống độc, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
2Khoa Hồi sức Cấp cứu – Bệnh viện Chợ Rẫy
Objective: We aimed to identify correlation between ACT, APTT, anti-Xa together and dose of UFH.
Method: A single-center retrospective observational study was conducted on adult patients undergoing ECMO between January 2019 and January 2020 at a tertiary hospital. The correlations between ACT, APTT, anti-Xa, antithrombin, and UFH dose were assessed.
Results: 129 sets of measurements from 37 patients were obtained including ACT, APTT, anti-Xa, antithrombin, and UFH dose measured simultaneously. Among 129 sets of values, 102 sets were interpreted as antithrombin deficiencies. The correlation coefficient between APTT and anti-Xa; ACT and anti-Xa are respectively 0.72 and 0.33, p <0.001. The patients with normal antithrombin levels exhibited a significant correlation between APTT and anti-Xa (r = 0.80, p <0.001). ACT, on the other hand, was poorly correlated with UFH dose. Anti-Xa and APTT are only moderately correlated with UFH dose in the group without antithrombin deficiency, with correlation coefficients of 0.62 and 0.57 respectively, p <0.05.
Conclusion: APTT value is strongly correlated with anti-Xa value, particularly in patients with normal antithrombin levels. However, the ACT value was poorly correlated with anti-Xa and not with UFH dose. In groups without antithrombin deficiency, APTT and anti-Xa values moderately correlated with UFH dose.
Keywords: extracorporeal membrane oxygenation, anticoagulation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay oxy hóa qua màng ngoài cơ thể (ECMO) được chấp nhận là phương pháp điều trị cho những tình trạng suy tuần hoàn hoặc hô hấp nguy kịch đe dọa tử vong(1). Giống như với bất kỳ hệ thống nhân tạo nào khác, bệnh nhân ECMO có nguy cơ cao hình thành huyết khối do máu tiếp xúc với các bề mặt không sinh học của hệ thống ECMO, vì vậy chúng ta luôn cần phải sử dụng thuốc kháng đông, phổ biến nhất là heparin không phân đoạn (UFH)(2,3,4). Hiệu quả kháng đông của UFH được theo dõi bằng các xét nghiệm ACT, APTT và anti-Xa. Xét nghiệm ACT sử dụng máu toàn phần, đánh giá khả năng đông máu của huyết tương bên cạnh tác động của hồng cầu và tiểu cầu. Kết quả ACT bị tác động bởi nhiều yếu tố chứ không phải chỉ thể hiện tác động của UFH, bao gồm: thiếu máu, giảm fibrinogen, giảm tiểu cầu, giảm các yếu tố đông máu khác hay các tình trạng hạ thân nhiệt và pha loãng máu(5). Xét nghiệm APTT sử dụng huyết thanh nghèo tiểu cầu, thực hiện bằng phương pháp đo quang hoặc đo từ, mỗi phương pháp có ưu nhược điểm khác nhau. Cũng giống ACT, chất thử đối với APTT thay đổi chứ không được chuẩn hóa, và cũng bị gây nhiễu bởi nhiều tình trạng đi kèm như thiếu vitamin K, bệnh gan, tình trạng pha loãng máu(6,7). Anti Xa được
giới thiệu năm 1973 bởi Denson và cộng sự, xét nghiệm không đo nồng độ UFH trong máu bệnh nhân mà đánh giá hiệu quả kháng đông của UFH thông qua định lượng nồng độ phức hợp anti-thrombin-UFH trong máu, phức hợp này phản ánh đúng nồng độ lẫn hiệu quả của UFH trong máu bệnh nhân ở trường hợp không giảm anti-thrombin(3,8,9). Anti-Xa được coi là phương pháp theo dõi UFH tốt hơn 2 phương pháp còn lại và có thể so sánh giữa các trung tâm, tuy nhiên, giá trị anti-Xa cũng bị ảnh hưởng bởi các tình trạng gây sai số phương pháp đo quang, như tăng bilirubin máu và tán huyết, bên cạnh tình trạng giảm anti-thrombin(3,11).
Hiện tại chưa có đồng thuận hoàn toàn trong chiến lược sử dụng và theo dõi thuốc kháng đông, đặc biệt là xét nghiệm anti-Xa không phổ biến và khó có thể thực hiện nhiều lần trong ngày. Do đó, chúng tôi thực hiện nghiên cứu quan sát mô tả sự tương quan giá trị xét nghiệm theo dõi hiệu quả UFH ở bệnh nhân người lớn được thực hiện ECMO, qua đó giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn về vấn đề này.
ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuTiêu chuẩn chọn bệnh
Tất cả bệnh nhân người lớn được thực hiện
khoảng thời gian từ 01/2019 – 01/2020 được ghi nhận đủ các xét nghiệm ACT, APTT, anti-Xa, anti-thrombin và liều UFH cùng một thời điểm.
Tiêu chuẩn loại trừ
Những bệnh nhân được thực hiện ECMO dưới 24 giờ, bệnh nhân thuyên tắc phổi được điều trị tiêu sợi huyết ngay trước hoặc trong quá trình ECMO.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hồi cứu.
Phương pháp thực hiện
Bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh sẽ được thu thập số liệu về đặc điểm nhân trắc của bệnh nhân (tuổi, giới), chẩn đoán, chỉ định ECMO, phương pháp thực hiện ECMO, biến chứng xuất huyết quan trọng được định nghĩa theo ELSO và kết cục sống còn. Đồng thời các giá trị xét nghiệm ACT, APTT, anti- Xa được thực hiện tại cùng một thời điểm từ cùng một mẫu máu và liều UFH tại thời điểm lấy máu xét nghiệm cũng được ghi nhận từ bệnh án điều trị. Các trường hợp thực hiện ECMO trên 14 ngày chỉ được ghi nhận tối đa trong vòng 14 ngày để số liệu có thể đại diện tốt cho dân số chung. Giá trị anti-thrombin dưới 80% được coi là giảm anti-thrombin dựa trên giá trị tham chiếu phòng xét nghiệm.
Quy trình các xét nghiệm trong nghiên cứu
ACT được thực hiện trên thiết bị Medtronic Activated Clotting Time Cartridges, gồm 2 bộ kit là LR-ACT (ACT low range – ACT giới hạn thấp) và HR-ACT (ACT high range – ACT giới hạn cao).
APTT được thực hiện trên 3 thiết bị: STA-R Evolution (chất hoạt hóa tiếp xúc là kaolin, phương pháp đo từ); ACL TOP 750 (thuốc thử là SynthAsil, phương pháp đo quang); SYSMEX 2500 (thuốc thử là ACTIN FSL, phương pháp đo quang). Các trường hợp tăng bilirubin hoặc tán huyết được ưu tiên sử dụng phương pháp đo từ.
Anti-Xa được thực hiện trên thiết bị ACL
TOP 750, phương pháp đo quang, không bổ sung anti-thrombin ngoại sinh.
Định nghĩa biến số
Biến lâm sàng: Tuổi (biến liên tục, tính theo năm), giới (biến nhị phân, gồm 2 giới nam và nữ), chẩn đoán (biến định tính, gồm các giá trị là viêm cơ tim, hội chứng suy hô hấp cấp tiến triển -ARDS, nhồi máu cơ tim và chẩn đoán khác), phương thức ECMO (biến định tính gồm 2 giá trị VV-ECMO và VA-ECMO), chỉ định ECMO (biến định tính gồm 2 giá trị hỗ trợ tuần hoàn và hỗ trợ hô hấp).
Biến “xuất huyết quan trọng”: định nghĩa xuất huyết quan trọng theo định nghĩa của hướng dẫn sử dụng kháng đông trong ECMO của tổ chức ELSO. Biến xuất huyết quan trọng là biến nhị phân gồm 2 giá trị “có” và
“không”. Có xuất huyết quan trọng khi thỏa 1 trong 2 định nghĩa sau: (1) Xuất huyết rõ ràng trên lâm sàng liên quan với giảm nồng độ hemoglobin tối thiểu 2g/dl trong vòng 24 giờ, hoặc lượng máu mất lớn hơn 20 ml/kg trong vòng 24 giờ, hoặc cần truyền lớn hơn 10ml/kg khối hồng cầu trong vòng 24 giờ, hoặc (2) Xuất huyết sau phúc mạc, xuất huyết phổi, xuất huyết liên quan hệ thần kinh trung ương, hoặc xuất huyết cần can thiệp phẫu thuật.
Các biến cận lâm sàng: Thời gian ACT (biến liên tục, tính bằng giây), thời gian APTT (biến liên tục, tính bằng giây), nồng độ anti-Xa (biến liên tục, tính bằng U/L), nồng độ anti-thrombin (biến liên tục, tính bằng %), phân loại anti- thrombin (biến nhị phân, gồm 2 giá trị là “không giảm anti-thrombin” (khi anti-thrombin III ≥ 80%) và “giảm anti-thrombin” (khi anti- thrombin III <80%)).
Phương pháp thống kê
Các biến phân nhóm được trình bày dưới dạng tỉ lệ, các biến liên tục được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch chuẩn (khi phân phối chuẩn), hoặc trung vị [khoảng tứ phân vị] (khi không phân phối chuẩn). Sử dụng các phép kiểm student (t) và Mann-Whitney-U test cho
các biến liên tục theo 2 nhóm giảm và không giảm anti-thrombin. Sử dụng hệ số tương quan Pearson hoặc Spearman để đánh giá mức độ tương quan. Thể hiện sự tương quan giữa các giá trị bằng biểu đồ phân tán.
Y đức
Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP.HCM, số 122/HĐĐĐ-ĐHYD, ngày 26/02/2020.
KẾT QUẢ
Trong giai đoạn 01/2019 – 01/2020 có 37 bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn nghiên cứu và không có tiêu chuẩn loại trừ, chúng tôi thu được 129 bộ xét nghiệm cùng thời điểm gồm ACT, APTT, anti-Xa, anti-thrombin cùng với liều UFH cùng thời điểm.
Về đặc điểm bệnh nhân, tuổi trung vị của bệnh nhân là 40 (khoảng tứ phân vị 25-75% từ 32 – 50 tuổi), tỉ lệ nam và nữ tương đương nhau.
Đa số bệnh nhân được chẩn đoán là viêm cơ tim (54,0%) và ARDS (35,1%), 3 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu cơ tim và 1 bệnh nhân được chẩn đoán sốc phản vệ.
Phương thức ECMO được thực hiện gồm 23 bệnh nhân VA-ECMO (62,1%), 13 bệnh nhân thực hiện VV-ECMO (35,1%) và 1 bệnh nhân thực hiện VAV-ECMO.
Thời gian thực hiện ECMO trung vị là 7 ngày (khoảng tứ phân vị 25-75% từ 4 tới 12 ngày).
Tỉ lệ giảm anti-thrombin là 79% (102/129 bộ).
Giá trị anti-Xa trung vị nhóm không giảm anti- thrombin không cao hơn nhóm giảm anti- thrombin. Giá trị ACT và liều UFH ở nhóm giảm anti-thrombin cao hơn nhóm không giảm anti- thrombin, thể hiện ở Bảng 1.
Bảng 1: Giá trị ACT, APTT, anti-Xa và liều UFH
Toàn bộ (N = 129)
Không giảm anti-thrombin
(n=27)
Giảm anti- thrombin (n=102)
p
ACT (giây) 184 [175; 196]
178 [168; 189]
185
[175;200] 0,033 APTT
(giây) 49 [40; 59] 47 [42; 54] 50 [40 ; 60] 0,300 Anti-Xa
(IU/ml)
0,28 [0,21; 0,41]
0,28 [0,24; 0,37]
0,28
[0,19; 0,42] 0,812 Liều UFH
(IU/h)
800 [600; 1000]
600 [600; 800]
800
[600; 1075] 0,110 Các số liệu trược trình bày dưới dạng TV [TPV 25-75%]
Hình 1: Biểu đồ phân tán tương quan giữa APTT, ACT và anti- Xa Bảng 2: Sự tương quan giữa ACT, APTT, anti-Xa,
liều UFH cùng thời điểm
Hệ số tương quan
Spearman Toàn bộ Không giảm anti-
thrombin APTT và anti-Xa 0,72 (p < 0,001) 0,80 (p < 0,001)
ACT và anti-Xa 0,33 (p < 0,001) 0,40 (p = 0,038) APTT và liều UFH 0,14 (p < 0,100) 0,62 (p <0,001) ACT và liều UFH -0,03 (p < 0,740) 0,16 (p = 0,420) Anti-Xa và liều UFH 0,39 (p < 0,001) 0,57 (p = 0,001)
APTT tương quan mạnh với anti-Xa cùng thời điểm với hệ số tương quan r=0,72, tương quan mạnh hơn khi bệnh nhân không giảm anti- thrombin, trên Hình 1A đường phù hợp nhất của biều đồ phân tán đi lên cùng với trục ngắn elip
ngắn. Trong khi ACT tương quan thuận yếu với anti-Xa ở cả bệnh nhân giảm và không giảm anti-thrombin, trên Hình 1B đường phù hợp nhất đi lên nhưng còn đoạn đi ngang và đoạn đi xuống, trục ngắn elip gần bằng trục dài elip. Đối với liều UFH cùng thời điểm, chỉ có anti-Xa tương quan thuận trung bình với liều UFH, APTT tương quan thuận trung bình với liều UFH cùng thời điểm, ACT không tương quan với liều UFH ở cả bệnh nhân giảm và không giảm anti-thrombin. Các sự tương quan thể hiện ở Bảng 2, Hình 2.
Hình 2: Biểu đồ tương quan từng cặp của ACT, APTT, anti-Xa và liều UFH theo nhóm anti-thrombin
BÀN LUẬN
UFH được theo dõi bằng ba xét nghiệm ACT, APTT và anti-Xa. Trong 3 xét nghiệm trên, anti-Xa được coi là chính xác hơn 2 xét nghiệm còn lại, tuy nhiên, xét nghiệm anti-Xa thường không được thực hiện phổ biến hoặc thường xuyên (nhiều lần trong ngày) vì chi phí cao, kĩ thuật phức tạp. ACT được xem là xét nghiệm phổ biến nhất vì giá thành thấp và cho kết quả nhanh tại giường dù còn nhiều hạn chế về độ
chính xác(2). Giá trị của xét nghiệm APTT để theo dõi hiệu quả UFH trong ECMO gần đây được chú ý nhiều hơn.
Một số nghiên cứu gần đây cho thấy APTT tương quan với anti-Xa, liều UFH và nồng độ UFH tốt hơn, hoặc ACT tương quan rất kém với anti-Xa, liều UFH cùng thời điểm lẫn nồng độ heparin UFH(7,10). Các nghiên cứu này chủ yếu là trên bệnh nhân thực hiện ECMO trẻ em. Trong phương pháp định lượng anti-Xa thường quy
thường không thêm anti-thrombin ngoại sinh vì trong dân số chung tỉ lệ giảm anti-thrombin là rất thấp, tuy nhiên, ở bệnh nhân thực hiện ECMO thì tình trạng giảm anti-thrombin là phổ biến, điều này làm giá trị anti-Xa sẽ thấp hơn thực tế so với nồng độ UFH. Do đó, chúng tôi phân tích thêm dưới nhóm, là những bệnh nhân không giảm anti-thrombin, khi đó, giá trị anti-Xa thể hiện khá chính xác nồng độ UFH để thấy vai trò của ACT và APTT.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, chúng tôi thấy rằng giá trị APTT tương quan mạnh với giá trị anti-Xa cùng thời điểm (r=0,72, p <0,001) và tương quan rất mạnh ở những bệnh nhân không giảm anti-thrombin (r=0,80, p <0,001). Trong khi đó, giá trị ACT tương quan yếu với giá trị anti- Xa cùng thời điểm, ở nhóm chung lẫn nhóm bệnh nhân không giảm anti-thrombin. Tác giả Khaja cũng thấy rằng giá trị APTT tương quan với anti-Xa tốt hơn giá trị ACT, với hệ số tương quan r=0,364 so với 0,125, tuy nhiên đây là nghiên cứu trên trẻ sơ sinh, cỡ mẫu nhỏ (21 bệnh nhân) và không phân tích vai trò của anti- thrombin. Một nghiên cứu khác của tác giả Liveris A trên 17 bệnh nhân ECMO trẻ em và trẻ sơ sinh cũng cho kết quả tương tự rằng giá trị ACT cùng thời điểm tương quan kém nhất với nồng độ UFH, giá trị APTT tương quan tốt hơn và anti-Xa tương quan tốt nhất(7). Có rất ít nghiên cứu đánh giá sự tương quan của ACT, APTT, anti-Xa, liều UFH ở người lớn trên bệnh nhân thực hiện ECMO. Nghiên cứu của tác giả Atallah S trên 46 bệnh nhân được thực hiện ECMO, tác giả thấy hệ số tương quan Pearson của APTT và liều UFH từ 0,43 tới 0,54; trong khi hệ số tương quan Pearson của ACT chỉ có 0,11 – 0,14(10). Tuy nhiên, liều UFH không thể hiện được nồng độ UFH đạt hiệu quả kháng đông ở người lớn, đặc biệt trên bệnh nhân hồi sức nói chung và bệnh nhân thực hiện ECMO nói riêng. ACT sử dụng máu toàn phần, do đó chịu ảnh hưởng của tất cả các thành phần liên quan trong hệ thống đông cầm máu thay vì chỉ thể hiện hiệu quả UFH, ACT còn là xét nghiệm phụ thuộc vào kĩ thuật
thực hiện nên dễ dàng tạo ra sai số. Trong kết quả nghiên cứu này ta cũng thấy, khi nồng độ anti-thrombin giảm thì giá trị ACT ở nhóm không giảm anti-thrombin cũng cao hơn có ý nghĩa thống kê. Không giống như ACT, giá trị APTT cùng một thời điểm tương quan mạnh với giá trị anti-Xa cùng một thời điểm. Giải thích cho điều này, ngoài ưu điểm trong nguyên lý đo APTT thể hiện hiệu quả kháng đông tốt hơn, APTT trong nghiên cứu của chúng tôi còn được thực hiện bằng cả 2 phương pháp đo quang học và đo từ, giúp hạn chế nhược điểm của xét nghiệm này trong những trường hợp tăng bilirubin, tán huyết… cũng như tăng độ nhạy của xét nghiệm. Về liều UFH, mặc dù UFH được chỉnh theo các xét nghiệm nhưng thường chỉ duy trì trong ngưỡng điều trị nên không có giá trị ngoại vi.
Kết quả nghiên cứu này gợi ý rằng, APTT đáng tin cậy hơn ACT trong theo dõi hiệu quả và chỉnh liều UFH ở những bệnh nhân người lớn thực hiện ECMO không giảm anti-thrombin vì nó tương quan rất mạnh với nồng độ anti-Xa trong trường hợp này. Ở bệnh nhân giảm anti- thrombin, anti-Xa không còn phản ánh tốt nồng độ kháng đông hiệu quả của UFH, giá trị thực sự của APTT trong trường hợp này cần so sánh APTT với một thước đo tốt hơn phương pháp định lượng anti-Xa thông thường, như là định lượng anti-Xa có thêm vào anti-thrombin ngoại sinh. Ở bệnh nhân giảm anti-thrombin, cần 1 phác đồ chỉnh liều UFH cụ thể hơn vì tương quan giữa các giá trị xét nghiệm ACT, APTT, anti-Xa với nhau và với liều UFH yếu hơn, đặc biệt là ACT không tương quan với liều UFH.
Theo hiểu biết của chúng tôi, nghiên cứu này là nghiên cứu đầu tiên trên bệnh nhân ECMO người lớn ghi nhận các giá trị ACT, APTT, anti- Xa, liều UFH có phân loại theo nhóm anti- thrombin, giúp thấy rõ hơn sự tương quan theo từng nhóm.
KẾT LUẬN
Trên bệnh nhân người lớn thực hiện ECMO
quan mạnh với giá trị anti-Xa cùng thời điểm, tương quan rất mạnh ở những bệnh nhân không giảm anti-thrombin. Giá trị ACT tương quan yếu với giá trị anti-Xa cùng thời điểm và không tương quan với liều UFH. Các giá trị APTT và anti-Xa chỉ tương quan thuận tốt với liều UFH ở nhóm không giảm anti-thrombin.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Maxwell BG, Powers AJ, Sheikh AY, Lee PH, Lobato RL, Wong JK (2014). Resource use trends in extracorporeal membrane oxygenation in adults: an analysis of the Nationwide Inpatient Sample 1998-2009. Journal of Thoracic and Cardiovascular Surgery, 148(2):416-421.e1.
2. Bridges BC, Rannucci M, Lequier LL (2017). Anticoagulation and disorders of hemostasis. In: Thomas V, Brogan M, et al.
Extracorporeal life support: the ELSO Red Book. 5th ed, pp.93- 103. URL: https://link.springer.com/article/10.1007/s00431-020- 03898-9.
3. Chlebowski M, Baltagi S, Carlson M, Levy J, Spinella P (2020).
Clinical controversies in anticoagulation monitoring and anti- thrombin supplementation for ECMO. Critical Care, 24(1):19.
4. Wong JJM, Lam JCM, Mok YH, Lee JH (2018). Anticoagulation in extracorporeal membrane oxygenation. Journal of Emergency and Critical Care Medicine, 2(2):12.
5. Yoshimoto Y, Hasebe T, Takahashi K, Amari M, Nagashima S, Kamijo A, et al (2013). Ultrastructural characterization of
surface-induced platelet activation on artificial materials by transmission electron microscopy. Microscopy Research and Technique, 76(4):342-349.
6. Nankervis CA, Preston TJ, Dysart KC, Wilkinson WD, Chicoine LG, Welty SE, et al (2007). Assessing heparin dosing in neonates on venoarterial extracorporeal membrane oxygenation. ASAIO Journal, 53(1):111-114.
7. Liveris A, Bello RA, Friedmann P, Duffy MA, Manwani D, Killinger JS, et al (2014). Anti-factor Xa assay is a superior correlate of heparin dose than activated partial thromboplastin time or activated clotting time in pediatric extracorporeal membrane oxygenation*. Pediatr Crit Care Med, 15(2):e72-79.
8. Kitchen S, Jennings I, Woods TA, Preston FE (1996). Wide variability in the sensitivity of APTT reagents for monitoring of heparin dosage. J Clin Pathol, 49(1):10-14.
9. Vandiver JW, Vondracek TG (2012). Antifactor Xa levels versus activated partial thromboplastin time for monitoring unfractionated heparin. Pharmacotherapy, 32(6):546-558.
10. Atallah S, Liebl M, Fitousis K, Bostan F, Masud F (2014).
Evaluation of the activated clotting time and activated partial thromboplastin time for the monitoring of heparin in adult extracorporeal membrane oxygenation patients. Perfusion, 29(5):456-461.
Ngày nhận bài báo: 24/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 20/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021