• Tidak ada hasil yang ditemukan

tỉ lệ người bệnh bị chiếm cư trực khuẩn gram âm đường ruột

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "tỉ lệ người bệnh bị chiếm cư trực khuẩn gram âm đường ruột"

Copied!
6
0
0

Teks penuh

(1)

TỈ LỆ NGƯỜI BỆNH BỊ CHIẾM CƯ TRỰC KHUẨN GRAM ÂM ĐƯỜNG RUỘT KHÁNG CARBAPENEM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN

TẠI BỆNH VIỆN ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Võ Trần Trọng Bình1, Huỳnh Minh Tuấn2, Phạm Thị Vân Phương1 TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Sự gia tăng của trực khuẩn Gram âm đường ruột kháng Carbapenem (Carbapenem resistant Enterobacteriaceae - CRE) đang ở mức báo động về tỷ lệ lưu hành trên thế giới. Chiếm cư CRE được xem là một trong những nguy cơ trong việc phát triển thành các nhiễm khuẩn CRE. Tuy nhiên, các nghiên cứu về chiếm cư CRE vẫn còn hạn chế tại Việt Nam, cụ thể trên đối tượng bệnh nhân nhập Khoa Hồi sức tích cực (Intensive care unit – ICU).

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người bệnh bị chiếm cư CRE tại thời điểm nhập Khoa ICU và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh (BVĐHYD TPHCM).

Đối tượng - phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả được thực hiện trên 372 bệnh án của bệnh nhân nhập mới có tầm soát chiếm cư CRE trong thời gian từ 6-12/2019 tại Khoa ICU, Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Thông tin bệnh nhân được ghi nhận thông qua hồi cứu hồ sơ bệnh án.

Kết quả: Tỷ lệ người bệnh bị chiếm cư CRE tại thời điểm nhập Khoa ICU chiếm 39,5%. Kết quả cho thấy tỷ lệ chiếm cư CRE có liên quan tới các yếu tố: Bệnh nhân có giới tính là nam, thời gian nằm viện trước khi nhập Khoa ICU, có bệnh nền là bệnh phổi mạn và bệnh thận mạn, được điều trị kháng sinh trước khi nhập Khoa ICU, phơi nhiễm nhóm kháng sinh Carbapenem và Polypeptide.

Kết luận: Tỷ lệ lưu hành của chiếm cư CRE tại thời điểm nhập Khoa ICU là khá cao. Cần có các giải pháp nhằm phòng ngừa sự chiếm cư CRE, trong đó tuân thủ điều trị bệnh nền nhằm hạn chế số đợt nhập viện và số ngày nằm viện, tuân thủ qui định sử dụng kháng sinh và tầm soát chủ động CRE cho bệnh nhận nhập viện là những biện pháp có thể đề xuất thông qua nghiên cứu này

Từ khoá: CRE, chiếm cư, Khoa Hồi sức tích cự, Carbapenem, yếu tố nguy cơ

ABSTRACT

PREVALENCE OF COLONISATION WITH CARBAPENEM-RESISTANT ENTEROBACTERIACEAE AMONG PATIENTS AND RELATED FACTORS AT UNIVERSITY MEDICAL CENTER HO CHI MINH CITY

Vo Tran Trong Binh, Huỳnh Minh Tuan, Pham Thi Van Phuong

* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 29 - 34 Background: Carbapenem-resistant Enterobacteriaceae (CRE) is increasing at an alarming rate in prevalence around the world. Colonizaion with CRE is risk factor of developing in CRE infection. In Viet Nam, the study of CRE colonization is limited, especially with the patients admitted to the Intensive Care Unit.

Objective: This study aimed to determine the prevalence of patients with CRE colonization at the time of admission to the ICU Faculty and identified risk factors associated with CRE colonization at University Medical Center Ho Chi Minh City.

Methods: We conducted a cross-sectional study among 372 medical records of newly patients screened for CRE colonization at the time of ICU admission between June and December 2019 at University Medical Center Ho Chi Minh City. Data were extracted through retrospective medical records.

Results: The prevalence of patients with CRE colonizaton was 39.5% at admitting to ICU. Risk factors associated with CRE colonization was: patients whose gender is male, length of hospital stay before admission to ICU Department, presence of chronic pulmonary disease and chronic renal disease, prior use of

1Khoa YTCC, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh 2Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh Tác giả liên lạc: ThS. Phạm Thị Vân Phương ĐT: 0386867468 Email: [email protected]

(2)

antibiotics, exposure to Carbapenem and Polypeptide antibiotics.

Conclusions: The prevalence of patients with CRE colonizaton at the time of ICU admission is high.

We need solutions to prevent CRE occupation, in which adherence to background treatment to limit hospital admissions and hospital stay days, compliance with antibiotic regulations and CRE active screening in hospitalized patients were suggested measures in this study.

Keywords: Carbapenem resistant Enterobacteriaceae - CRE, colonization, ICU, Carbapenem, risk factor

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đề kháng kháng sinh là mối đe dọa nguy cấp toàn cầu hiện nay và sự gia tăng này ngày càng dày đặc, ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả điều trị. Năm 2019, theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC), có khoảng 2.8 triệu ca đề kháng kháng sinh xuất hiện ở Mỹ mỗi năm và hậu quả là 35.000 người chết(1).

Kháng sinh Carbapenem là một kháng sinh có hoạt phổ rộng được sử dụng trong việc điều trị các nhiễm khuẩn nặng hoặc vi khuẩn đa kháng. Tuy nhiên, sự đề kháng Carbapenem đã xuất hiện và lan rộng mạnh mẽ trên toàn cầu, đặc biệt ở nhóm trực khuẩn Gram âm đường ruột (Enterobacteriaceae)(2). Chiếm cư Carbapenem resistant Enterobacteriaceae (CRE) được xem là một trong những nguy cơ trong việc phát triển thành các nhiễm khuẩn CRE sau này(3). Bệnh nhân tại khoa ICU là đối tượng nguy cơ cao bởi do tình trạng đa kháng và được nhận các chỉ định kháng sinh theo kinh nghiệm chữa trị, đây là đối tượng dễ bị chiếm cư CRE và phát triển thành nhiễm khuẩn(4). Sự chiếm cư này sẽ tiếp tục phát triển và có thể là nguồn lây truyền cho các bệnh nhân khác, tỷ lệ phát triển thành nhiễm khuẩn khoảng 7,8%-16,5%(5,6). Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến diễn tiến bệnh vì chưa có phương pháp cụ thể được ghi nhận để điều trị vấn đề này(7).

Tại Việt Nam, các công trình nghiên cứu tỷ lệ chiếm cư CRE vẫn còn hạn chế. Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh là một trong những tuyến điều trị hàng đầu ở khu vực miền Nam, nơi tiếp nhận điều trị các bệnh nhân có đa bệnh cảnh khác nhau nên việc chủ động tầm soát chiếm cư góp phần quan trọng trong việc chữa trị. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu

khảo sát “Tỷ lệ người bệnh bị chiếm cư trực khuẩn Gram âm đường ruột kháng Carbapenem và các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh”. Từ đây, chúng tôi có thể đưa ra được một cái nhìn khái quát ban đầu về tỷ lệ chiếm cư CRE và giúp cho các bác sĩ điều trị đưa ra các biện pháp cải thiện và nâng cao hiệu quả hơn trong việc điều trị, hạn chế đề kháng kháng sinh và dự phòng nhiễm khuẩn không mong muốn cho bệnh nhân.

Mục tiêu

Xác định tỷ lệ người bệnh bị chiếm cư CRE tại thời điểm nhập Khoa ICU và các yếu tố liên quan tại bệnh viện Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh (BV ĐHYD TP. HCM).

ĐỐI TƯỢNG-PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu

Bệnh án của bệnh nhân nhập Khoa ICU trong khoảng 06-12/2019 tại BV ĐHYD TP.

HCM. Đối tượng được chọn là các hồ sơ bệnh án của bệnh nhân nhập mới tại khoa ICU trong khoảng thời gian trên và được tầm soát chiếm cư CRE tại thời điểm nhập khoa.

Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang hồi cứu.

Cỡ mẫu

Cỡ mẫu được tính theo công thức:

= ( ) × (1 − )

Với p=0,59 (theo nghiên cứu của Trần Minh Điển(8)), sai số biên d=0,05 tính được cỡ mẫu cần thiết là 372 hồ sơ bệnh án của bệnh nhân.

Phương pháp chọn mẫu

Bệnh án của bệnh nhân được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên đơn dựa trên danh

(3)

sách bệnh nhân được quản lí bởi khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn với khung mẫu là 680 hồ sơ.

Phương pháp thu thập số liệu

Hồi cứu thông tin từ các bệnh án điện tử tại BV ĐHYD TP. HCM dựa vào phiếu khảo sát gồm có các phần: kết quả tầm soát CRE, đặc điểm dân số xã hội, thông tin lâm sàng bệnh nhân (số ngày nằm viện trước nhập khoa ICU, nơi chuyển đến, bệnh nền, điều trị kháng sinh trước nhập khoa ICU, phối hợp kháng sinh, số loại thuốc kháng sinh, tên kháng sinh), tiền căn y khoa trong một tháng (hoá trị/xạ trị, lọc máu/chạy thận nhân tạo), mức độ nặng của bệnh theo thang điểm APACHE II (Acute Physiologic Assessment and Chronic Health Evaluation II) và mức độ suy tạng của bệnh nhân theo thang điểm SOFA (Sequential Organ Failure Assessment).

Phân tích dữ kiện

Các dữ liệu được tổng hợp, phân tích bằng phần mềm Epidata 3.1 và Stata 14.2.

Dữ liệu được thể hiện bằng trung bình ± độ lệch chuẩn hoặc trung vị, khoảng tứ phân vị đối các biến định lượng và tỷ lệ phần trăm cho các biến định tính.

Chúng tôi sử dụng các kiểm định Chi bình phương và kiểm định chính xác Fisher để tìm các mối liên quan, với giá trị p<0,05 tìm thấy ý nghĩa thống kê. Ước lượng mối liên quan được báo cáo dưới dạng tỉ số tỷ lệ hiện mắc PR (Prevalance Ratio) với khoảng tin cậy 95% bằng cách GLM.

Y đức

Nghiên cứu này được thông qua bởi Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học Đại học Y Dược TP. HCM số 394/HĐĐĐ, ngày 02/6/2020.

KẾT QUẢ

Tỉ lệ nam và nữ tương đương nhau (50,5%

và 49,5% tương ứng). Đa số bệnh nhân có dân tộc Kinh, chiếm 94,3%. Tuổi trung bình của bệnh nhân là 69,4 tuổi, trong đó tuổi nhỏ nhất là 16 và

tuổi lớn nhất là 98 (Bảng 1).

Bảng 1: Đặc điểm dân số xã hội của mẫu nghiên cứu (n=372)

Đặc tính Tần số (n) Tỷ lệ (%) Giới tính

Nam 184 49,5

Nữ 188 50,5

Dân tộc

Kinh 351 94,3

Hoa 21 5,7

Trung bình ±

độ lệch chuẩn Nhỏ nhất Lớn nhất

Tuổi 69,4 ± 16,3 16 98

Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của mẫu nghiên cứu (n=372) Đặc tính Tần số Tỷ lệ (%) Số ngày nằm viện trước khi nhập khoa ICU

Dưới 7 ngày 280 75,3

Từ 7 đến 14 ngày 42 11,3

Từ 14 đến 28 ngày 33 8,9

Trên 28 ngày 17 4,5

Loại bệnh nền (n=337)

Tăng huyết áp 203 60,2

Tim mạch 167 49,6

Đái tháo đường 149 44,2

Thận mạn 70 20,8

Phổi mạn 58 17,2

Gan mạn 58 17,2

Ung thư 52 15,4

Bệnh khác 32 9,5

Điều trị thuốc kháng sinh trước nhập khoa ICU

288 77,4

Không 84 22,6

Nhóm kháng sinh (n=288)

Carbapenem 214 74,3

Nhóm Quinolone 111 38,5

Celphalosporin 74 25,7

Glycopeptide 46 16,0

Nhóm 5-nitro-iminazol 36 12,5

Nhóm Oxazolidinone 29 10,1

Ức chế b-lactam 27 9,4

Pencillin 14 4,9

Polypeptide 12 4,2

Phần lớn bệnh nhân có số ngày nằm viện trước khi nhập Khoa ICU là dưới 7 ngày (75,3%).

Bệnh nhân có bệnh nền là tăng huyết áp chiếm tỷ lệ cao nhất (60,2%), tiếp đến là tim mạch (49,6%). Việc được điều trị kháng sinh trước nhập Khoa ICU chiếm tới 77,4%. Trong đó, nhóm kháng sinh phổ biến nhất là nhóm Carbapenem (74,3%) và thấp nhất là nhóm Polypeptide (4,2%) (Bảng 2).

(4)

Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả tầm soát CRE tại thời điểm nhập Khoa ICU cho thấy tỉ lệ bị chiếm cư CRE của bệnh nhân là 39,5%

(Bảng 3).

Bảng 3: Tỉ lệ chiếm cư CRE của mẫu nghiên cứu (n=372)

Kết quả sàng lọc Tần số (n) Tỷ lệ (%)

Chiếm cư CRE 147 39,5

Không chiếm cư CRE 225 60,5

Kết quả phân tích mối liên quan cho thấy bệnh nhân có giới tính là nam có tỷ lệ chiếm cư cao hơn 1,32 lần so với nữ (KTC 95%=1,03-1,71).

Số ngày nằm viện trước đó có mối liên quan có ý nghĩa thống kê với việc chiếm cư CRE. Cụ thể

khi số ngày nằm viện trước khi nhập khoa ICU tăng lên một bậc là 7 ngày thì tỷ lệ bị chiếm cư CRE tăng lên 1,33 lần. Bệnh nhân có bệnh nền là bệnh phổi mạn và bệnh thận mạn có tỉ lệ chiếm cư CRE cao gấp 1,46 và 1,47 tương ứng so với bệnh nhân không có các bệnh nền này. Việc được điều trị kháng sinh của bệnh nhân trước khi nhập khoa ICU có tỷ lệ chiếm cư gấp 1,75 so với không điều trị kháng sinh. Trong đó, phơi nhiễm nhóm Carbapenem và nhóm Polypeptide có tỷ lệ chiếm cư lần lượt gấp 1,47 và 1,98 lần (Bảng 4).

Bảng 4: Các yếu tố liên quan với chiếm cư CRE ở bệnh nhân nhập Khoa ICU (n=372)

Đặc điểm Chiếm cư CRE

p PR

(KTC 95%) Có n (%) Không n (%)

Giới tính

Nữ 64 (34,0) 124 (66,0) 1

Nam 83 (45,1) 101 (54,9) 0,029(*) 1,32 (1,03-1,71)

Số ngày nằm viện trước nhập Khoa ICU

Dưới 7 ngày 95 (33,9) 185 (66,1)

<0,001 (**)

1

Từ 7 - 14 ngày 18 (42,9) 24 (57,1) 1,33 (1,2-1,47)

Từ 14 - 28 ngày 21 (63,6) 12 (36,4) 1,76 (1,44-2,16)

Trên 28 ngày 13 (76,5) 4 (23,5) 2,35 (1,73-3,17)

Bệnh nền (n=337)

Thận mạn 38 (54,3) 32 (45,7) 0,009(*) 1,46 (1,12-1,91)

Phổi mạn 32 (55,2) 26 (44,8) 0,013(*) 1,47 (1,11-1,93)

Điều trị kháng sinh trước khi nhập khoa ICU

Không 63 (75,0) 21 (25,0) 1

126 (43,8) 162 (56,2) 0,002(*) 1,75 (1,18-2,59)

Loại kháng sinh điều trị trước khi nhập khoa ICU (n=288)

Carbapenem 102 (47,7) 112 (52,3) 0,023(*) 1,47 (1,03-2,1)

Polypeptide 10 (83,3) 2 (16,7) 0,005(*) 1,98 (1,49-2,65)

* Kiểm định Chi bình phương **Kiểm định Chi bình phương khuynh hướng BÀN LUẬN

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chiếm cư CRE ở bệnh nhân nhập Khoa ICU là khá cao.

Điều này được tìm thấy gần như tương đồng về tỷ lệ chiếm cư CRE với các nghiên cứu tại Israel (33,3%), Mỹ (41,7%), Trung Quốc và Hàn Quốc (33,3%)(9,10,11,12).Tuy nhiên, tỷ lệ chiếm cư này thấp hơn so với nghiên cứu tác giả Trần Minh Điển được thực hiện trên chung cho 12 bệnh viện tại Việt Nam (59%)(8). Chiếm cư CRE sẽ là nguồn lây lan cho giữa các bệnh nhân với nhau và yếu tố gia tăng cho việc phát triển nhiễm khuẩn sau đó(3). Đây cũng được

xem là hậu quả cho việc sử dụng kháng sinh không phù hợp, góp phần thúc đẩy đề kháng không mong muốn.

Mối liên quan giữa tỷ lệ chiếm cư CRE và giới tính được tìm thấy thông qua nghiên cứu này. Nghiên cứu ghi nhận được mối liên quan giữa việc bệnh nhân nằm viện trước khi nhập khoa ICU với chiếm cư CRE, tương đồng với các nghiên cứu trước đây(4,9). Việc phơi nhiễm này được xem như là nguy cơ tiềm tàng cho lây lan của vi khuẩn kháng thuốc và sự lây lan vô tính của CRE đã được báo cáo trước đó, đây có thể xem là yếu tố nguy cơ cho chiếm cư CRE. Đồng

(5)

thời, sự chiếm cư CRE này có thể lây lan qua gián tiếp từ nhân viên y tế hoặc các dụng cụ y khoa nếu việc kiểm soát nhiễm khuẩn không được quản lí tốt(3).

Ngoài ra, nghiên cứu còn ghi nhận được mối liên quan giữa một số nhóm bệnh nền với chiếm cư CRE. Cụ thể bệnh nhân có bệnh nền là nhóm bệnh phổi mạn và nhóm bệnh thận mạn được tìm thấy mối liên quan chiếm cư CRE. Mối liên quan này cũng đã được tìm thấy ở các nghiên cứu đã được thực hiện trước đây(11,12). Nhóm bệnh nhân có bệnh nền nêu trên được xem là đối tượng nguy cơ cho chiếm cư CRE. Bệnh nhân có sự lui tới định kỳ với các phòng khám ngoại trú tại bệnh viện, đây có thể là cơ hội của việc phơi nhiễm không đáng có. Bên cạnh đó, bệnh nhân với tình trạng chức năng kém dễ dàng bắt gặp các triệu chứng đợt cấp của bệnh nền, mà nguyên nhân có thể là một nhiễm trùng. Việc này có thể là một yếu tố góp phần các đợt nhập viện nội trú không mong muốn. Từ đây, các phơi nhiễm kháng sinh trong quá trình điều trị sẽ gây gián đoạn hệ cân bằng các vi khuẩn đường ruột, là cơ hội cho sự việc chiếm cư CRE được hình thành ở bệnh nhân.

Sự phơi nhiễm kháng sinh trong quá trình điều trị trước nhập khoa ICU cũng tìm thấy được mối liên quan đến chiếm cư CRE, tương đồng với các nghiên cứu trước(13,14).Việc phơi nhiễm kháng sinh càng cao đồng nghĩa môi trường vi khuẩn thường trú bị xáo trộn, sự tác động này tạo nên việc đề kháng không mong muốn và tăng tỷ lệ bị chiếm cư CRE(15). Sự xáo trộn này sẽ càng tăng cao nếu việc phơi nhiễm kháng sinh kéo dài, đặc biệt nhóm kháng sinh phổ rộng được điều trị theo kinh nghiệm. Các lợi khuẩn vốn có sẽ bị ức chế và tạo cơ hội cho việc đề kháng không mong muốn xuất hiện. Thông qua kết quả báo cáo, nhóm kháng sinh được tìm thấy có mối liên quan việc bị chiếm cư là nhóm Carbapenem. Điều này được tìm thấy tương tự ở các nghiên khác như nghiên cứu ở Trung Quốc (2010-2011), Italia (2012-2013), Hàn Quốc (2006- 2010)(9,16,17). Chúng tôi tìm thấy sự phù hợp điều

này với thực trạng sử dụng kháng sinh và đề kháng kháng sinh tại địa điểm nghiên cứu của chúng tôi. Năm 2017, ghi nhận được tỷ lệ sử dụng kháng sinh nhóm Carbapenem (cụ thể Meropenem) để điều trị theo kinh nghiệm là 71,6%(18). Đây là kháng sinh phổ rộng dùng để điều trị các nhiễm khuẩn nặng nhưng với tỷ lệ nêu trên đã tạo ra một nguy cơ đề kháng cao cho vi khuẩn phát triển. Bên cạnh đó, tỷ lệ đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Gram âm đường ruột với kháng sinh Meropenem cũng đã được báo cáo là 27%(19). Trong nghiên cứu này, chúng tôi còn bắt gặp một điểm mới là nhóm kháng sinh Polypeptide có mối liên quan với chiếm cư CRE.

Điều này cho thấy chính đề kháng nêu trên, các nhân viên y tế đang phải chịu áp lực trước việc lựa chọn kháng sinh trong điều trị. Việc cố gắng gia tăng sử dụng nhóm kháng sinh khác hay sự một sự kết hợp của nhóm kháng sinh để thay thế nhóm Carbapenem đang tăng cao. Vì thế việc thay thế sử dụng nhóm kháng sinh khác để ngăn chặn sự đề kháng của vi khuẩn đường ruột gần như tạo ra tiền đề cho một sự đề kháng khác.

Trong quá trình thực hiện nghiên cứu, chúng tôi đã cố gắng kiểm soát sai lệch thông tin có thể xảy ra. Tuy nhiên, việc thu thập dữ liệu gián tiếp thông qua ghi nhận hồ sơ bệnh án nên phụ thuộc hoàn toàn việc ghi nhận của nhân viên y tế. Đồng thời, thực hiện thiết kế nghiên cứu cắt ngang mô tả, chúng tôi chưa nêu lên được mối quan hệ nhân quả giữa chiếm cư CRE và các yếu tố quan tâm trong nghiên cứu. Đây là những hạn chế bắt gặp trong nghiên cứu này, cần được lưu ý của nghiên cứu.

KẾT LUẬN

Tỷ lệ chiếm cư CRE ở đối tượng bệnh nhân nhập khoa ICU ở mức độ khá cao và có mối liên quan đến giới tính, thời gian nằm viện trước nhập khoa ICU, có bệnh nền là nhóm bệnh phổi mạn và nhóm bệnh thận mạn, được điều trị kháng sinh trước nhập khoa ICU (cụ thể là nhóm Carbapenm và nhóm Polypeptide). Vì thế, bệnh viện cần có những biện pháp phù hợp để ngăn chặn sự chiếm cư này, trong đó cố gắng thực

(6)

hiện tốt quản lý việc sử dụng kháng sinh, đặc biệt nhóm kháng sinh phổ rộng. Đồng thời, cần có sự lưu ý và nâng cao hơn việc chăm sóc cho các bệnh nhân có bệnh nền nêu trên tránh các sự phơi nhiễm không đáng có. Lưu ý việc chăm sóc cho các bệnh nhân nội trú đang điều trị tại các cơ sở y tế, cụ thể nâng cao việc quản lý kiểm soát nhiễm khuẩn góp phần nào hạn chế yếu tố gây hại không mong muốn cho bệnh nhân. Với những điểm hạn chế về sai lệch thông tin do thu thập thứ cấp và chưa nêu được mối liên hệ nhân quả, chúng tôi mong rằng các nghiên cứu sau có thể khảo sát sâu hơn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Centers for Disease Control and Prevention (2017). About

Antibiotic Resistance. URL:

https://www.cdc.gov/drugresistance/about.html.

2. Brolund A, Lagerqvist N, Byfors S, Struelen J, Monnet L, Albiger B, Kohlenberg A (2019). Worsening epidemiological situation of carbapenemase-producing Enterobacteriaceae in Europe, assessment by national experts from 37 countries, July 2018. Eurosurveillance Journa, 24(4):54-56.

3. Centers for Disease Control and Prevention (2019). Clinicians:

Information about CRE. URL:

https://www.cdc.gov/hai/organisms/cre/cre-clinicians.html.

4. Debby BD, Ganor O, Yasmin M, David L, Nathan K (2012).

Epidemiology of carbapenem resistant Klebsiella pneumoniae colonization in an intensive care unit. European Journal of Clinical Microbiology & Infectious Diseases, 31(8):1811-1817.

5. Giannella M, Trecarichi EM, De Rosa FG, Del Bono V, Bassetti M, Lewis M (2014). Risk factors for carbapenem-resistant Klebsiella pneumoniae bloodstream infection among rectal carriers: a prospective observational multicentre study. Clinical Microbiology and Infection, 20(12):1357-1362.

6. Tischendorf J, Almeida de Avila R, Safda N (2016). Risk of infection following colonization with carbapenem-resistant Enterobactericeae: A systematic review. American Journal of Infection Control, 44(5):539-543.

7. Morrill Haley J, Pogue Jason M, Kaye Keith S, LaPlante Kerry L (2015). Treatment Options for Carbapenem-Resistant Enterobacteriaceae Infections. Open Forum Infect Disease, 2(2):50-50.

8. Tran Minh D, Larsson M, Olson L (2019). High prevalence of colonisation with carbapenem-resistant Enterobacteriaceae among patients admitted to Vietnamese hospitals: Risk factors and burden of disease. Journal of Infection, 79(2):115-122.

9. Young AJ, Eun SJ, Hyung KM, Choi H, Kyung KJ, Won AH, Ho KJ, Jeon Y, Jin JS, Bean KS (2014). Risk factors for the acquisition of carbapenem-resistant Escherichia coli at a tertiary care center in South Korea: a matched case-control study. American Journal of Infection Control, 42(6):621-625.

10. Yaakov D, Edelman R, Dror T, Hussein K (2016). Carbapenem Resistant Enterobacteriaceae Colonization and Infection in Critically Ill Patients: A Retrospective Matched Cohort Comparison to Non-Carriers. Journal of Hospital Infection, 94(1):54-59.

11. Bhargava A, Hayakawa K, Silverman E, Haider S, Alluri Chaitanya K, Datla S, et al (2014). Risk factors for colonization due to carbapenem-resistant Enterobacteriaceae among patients exposed to long-term acute care and acute care facilities. Infection Control and Hospital Epidemiology, 35(4):398- 405.

12. Fang L, Lu X, Xu H, Mau X (2019). Epidemiology and risk factors for carbapenem-resistant Enterobacteriaceae colonisation and infections: case-controlled study from an academic medical center in a southern area of China. Pathogens and Disease, 77(4):34-36.

13. Howe McConville T, Berger Sullivan S, Gomez-Simmonds A, Whittier S, Uhlemann AC (2017). Carbapenem-resistant Enterobacteriaceae colonization (CRE) and subsequent risk of infection and 90-day mortality in critically ill patients, an observational study. PLoS ONE, 12 (10):186-195.

14. Zhao Z, Xu X, Liu M, Wu J, Lin J, Li B (2014). Fecal carriage of carbapenem-resistant Enterobacteriaceae in a Chinese university hospital. American Journal of Infection Control, 42(5):e61-e64.

15. Perez F, Pultz JM, Endimiani A, Bonomo AR, Donskey JC (2011). Effect of Antibiotic Treatment on Establishment and Elimination of Intestinal Colonization by KPC-Producing Klebsiella pneumoniae in Mice. Antimicrobial Agents and Chemotherapy, 55(6):2585–2589.

16. Jiao Y, Qin Y, Liu J, Li Q, Dong Y, Shang Y, Huang Y, Liu R (2015). Risk factors for carbapenem-resistant Klebsiella pneumoniae infection/colonization and predictors of mortality:

a retrospective study. Pathogens and Global Health, 109(2):68-74.

17. Falagas ME, Rafailidis PI, Kofteridis D, Virtzili S, Chelvatzoglou FC, Papaioannou V, Maraki S, Samonis G, Michalopoulos A (2007). Risk factors of carbapenem-resistant Klebsiella pneumoniae infections: a matched case–control study. Journal of Antimicrobial Chemotherapy, 60(5):1124-1130.

18. Đỗ Đình Vinh, Trần Ngọc Phương Minh, Hà Nguyễn Y Khuê, Đặng Nguyễn Đoan Trang (2019). Khảo sát việc sử dụng kháng sinh trong điều trị viêm phổi bệnh viện tại Bệnh viện Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 23(2):526-531.

19. Huỳnh Minh Tuấn, Trần Âu Quế Nhung, Nguyễn Kim Huyền, Vũ Thị Châm, Phạm Thị Lan, Hà Thị Nhã Ca, Nguyễn Thanh Bảo (2015). Khảo sát tỷ lệ mắc và tính đề kháng kháng sinh của vi khuẩn đường ruột trong viêm phổi bệnh viện tại BV Đại học Y Dược TP.HCM. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 19(1):445-451.

Ngày nhận bài báo: 16/11/2020

Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021

Referensi

Dokumen terkait