TỈ LỆ HẠN CHẾ HOẠT ĐỘNG SINH HOẠT HÀNG NGÀY
CÓ SỬ DỤNG CÔNG CỤ Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE 2 TỪ 60 TUỔI TRỞ LÊN ĐIỀU TRỊ NGOẠI TRÚ
TẠI BỆNH VIỆN THỐNG NHẤT NĂM 2020
Nguyễn Văn Thuận1,Phan Như Quỳnh2, Đoàn Duy Tân2, Phạm Nhật Tuấn2
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đái tháo đường (ĐTĐ) và các biến chứng được biết đến như là một yếu tố nguy cơ của suy giảm tình trạng chức năng ở người cao tuổi. Trong khi nhân viên y tế thường chú ý đến sự suy giảm về chức năng thể chất thông qua các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (HĐSHHN) cơ bản, thì chức năng xã hội thể hiện qua các hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (Activities of Daily Living - IADL) lại thường bị bỏ quên.
Mục tiêu: Xác định tỉ lệ hạn chế hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (IADL) của bệnh nhân ĐTĐ type 2 từ 60 tuổi trở lên điều trị ngoại trú tại bệnh viện Thống Nhất năm 2020.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang được tiến hành trên 110 bệnh nhân ĐTĐ type 2 từ 60 tuổi trở lên điều trị ngoại trú tại bệnh viện Thống Nhất, TPHCM trong khoảng thời gian từ 18/05/2020 đến 12/06/2020. Thu thập dữ liệu bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp và thu thập một số thông tin từ bệnh án điện tử của đối tượng nghiên cứu.
Kết quả: Tỉ lệ hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ (IADL) là 59,1%. Tìm thấy mối liên quan giữa hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ với tuổi và bệnh lý khác (bao gồm gút, viêm gan mạn, COPD, lao phổi đang điều trị, suy giáp, cường giáp, cushing).
Kết luận: Tỉ lệ hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ (IADL) ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 cao tuổi là đáng chú ý. Cần có thêm những nghiên cứu khác đi sâu vào phân tích mối liên quan giữa hạn chế IADL và các bệnh lý đi kèm.
Từ khóa: hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ, đái tháo đường, người cao tuổi
ABSTRACTS
THE PREVALENCE OF INSTRUMENTAL ACTIVITIES OF DAILY LIVING LIMITATIONS AMONG ELDERLY PATIENTS WITH DIABETES TYPE 2
IN OUTPATIENT CLINIC OF THONG NHAT HOSPITAL, HO CHI MINH CITY IN 2020
Phan Nhu Quynh, Pham Nhat Tuan, Doan Duy Tan, Nguyen Van Thuan
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No 2- 2021: 141 - 147 Background: Diabetes and its complications are proved as risk factors of functional decline. While clinicians often focus on physical-function impairments, social-function limitations, which are reflected by the ability to perform instrumental activities of daily living, are usually neglected.
Objectives: This study aims to determine the prevalence of instrumental activities of daily living (IADL) limitations among patients aged 60 years and older with diabetes type 2 in outpatient clinic of Thong Nhat hospital, Ho Chi Minh City in 2020.
Methods: This cross-sectional study consisted of 110 patients with type 2 diabetes mellitus aged 60 years
1Bệnh viện Thống Nhất TP. Hồ Chí Minh 2Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. Phan Như Quỳnh ĐT: 0938325216 Email: [email protected]
and above who were being treated at outpatients clinic of Thong Nhat hospital, Ho Chi Minh City between May 18th, 2020 and June 12th, 2020. Data were collected through directly interview and electrical medical records.
Result: The prevalence of IADL limitation among elderly patients with diabetes type 2 was 59.1%. IADL impairments were associated with age and other diseases (included gout, chronic hepatitis, COPD, on treatment of tuberculosis, hypothyroidism, hypethyroidism, cushing).
Conclusions: The figure for IADL limitations among elderly patients with diabetes type 2 was considerable.
There is a need for future studies which aim to evaluate the association between IADL impairments and comorbidity among elderly with diabetes type 2.
Keywords: instrumental activities of daily living, diabetes, elderly
ĐẶT VẤN ĐỀ
Đái tháo đường (ĐTĐ) được biết đến như là một yếu tố nguy cơ của suy giảm tình trạng chức năng ở người cao tuổi(2). Trong khi các nhân viên y tế thường chú ý đến sự suy giảm về chức năng thể chất thông qua các hoạt động sinh hoạt hàng ngày (HĐSHHN) cơ bản (bao gồm ăn uống, tiêu tiểu tự chủ, di chuyển, đi vệ sinh, mặc quần áo và tắm rửa), thì chức năng xã hội thể hiện qua các hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (IADL) lại thường bị bỏ quên. IADL (instrumental Activities of Daily Living - hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ) là các hoạt động đòi hỏi kỹ năng tư duy phức tạp, bao gồm cả kỹ năng tổ chức, sắp xếp và cần thiết để duy trì một cuộc sống độc lập trong cộng đồng, bao gồm những công việc: quản lý tiền bạc, lấy thuốc uống, đi mua sắm, làm việc nhà, di chuyển bằng các phương tiện giao thông và chuẩn bị bữa ăn. Những người có hạn chế HĐSHHN trong cấp độ này đòi hỏi một cuộc sống cần được hỗ trợ tại nhà, hoặc các dịch vụ chăm sóc cộng đồng(2).
Ở Tây Ban Nha, có 35,3% đến 49.2% bệnh nhân ĐTĐ cao tuổi có hạn chế IADL(3). Số liệu này ở Mỹ là 37,2% ở nhóm bệnh nhân ĐTĐ từ 60 tuổi trở lên(4). Tại Việt Nam, một số nghiên cứu báo cáo tỉ lệ hạn chế IADL ở người cao tuổi trong cộng đồng qua thang đo Lawton IADL là từ 27,1% đến 52,2% ở các địa điểm khác
nhau(5,8,7). Tuy nhiên, hiện tại vẫn chưa có nghiên
cứu nào báo cáo tỉ lệ hạn chế IADL ở bệnh nhân ĐTĐ cao tuổi ở Việt Nam. Vì lý do trên, nghiên cứu được tiến hành tại phòng khám ngoại trú
bệnh viện Thống Nhất, TP. Hồ Chí Minh với mục tiêu xác định tỉ lệ hạn chế hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 từ 60 tuổi trở lên.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứuĐược tiến hành trên 110 bệnh nhân ĐTĐ type 2 từ 60 tuổi trở lên điều trị ngoại trú tại bệnh viện Thống Nhất trong khoảng thời gian 18/05/2020 đến 12/06/2020 bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận tiện.
Tiêu chuẩn chọn vào
Bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên.
Được chẩn đoán ĐTĐ type 2 ít nhất 6 tháng.
Đến khám tại phòng khám ngoại trú bệnh viện Thống Nhất.
Đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại ra
Trả lời thiếu bất kỳ câu nào của bảng câu hỏi chỉ số Katz hoặc không trả lời từ 7 câu hỏi trở lên (20%) trong toàn bộ bộ câu hỏi.
Bệnh nhân có vấn đề về giao tiếp (câm, điếc,…) mà không có người trợ giúp giao tiếp đi kèm.
Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Các biến số chính
Những biến số nền gồm: giới tính, tuổi, dân tộc, tôn giáo, nơi sống, nghề nghiệp, trình độ học vấn, thu nhập trung bình, tình trạng kinh tế, người sống cùng, BMI.
Các đặc điểm bệnh lý đái tháo đường type 2 được khảo sát bao gồm thời gian mắc đái tháo đường, chỉ số HbA1c, chỉ số đường huyết đói, điều trị hiện tại (uống thuốc viên, tiêm insulin, cả 2).
Các tình trạng bệnh lý và các biến số khác được khảo sát bao gồm: hút thuốc lá, cholesterol toàn phần, triglycerid, LDL, HDL, tăng huyết áp, suy thận, nhồi máu cơ tim, đột quỵ, ung thư, cơ xương khớp, bệnh lý võng mạc, bệnh lý thần kinh ngoại biên và bệnh khác.
Biến số kết cuộc: hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ (IADL) được đánh giá qua thang đo Lawton IADL (gồm 8 hoạt động như sử dụng điện thoại, đi chợ, nấu ăn, làm việc nhà, giặt giũ, sử dụng phương tiện giao thông, sử dụng thuốc và quản lý chi tiêu). Có hạn chế IADL khi người cao tuổi không thực hiện được từ một hoạt động trở lên(8). Thang đo Lawton IADL đã được chuẩn hóa ở nhiều nước với chỉ số Cronbach’s alpha cao, ở phiên bản tiếng Thổ Nhĩ Kỳ chỉ số này là 0,843; ở phiên bản tiếng Trung, tiếng Hàn chỉ số này đều đạt 0,90(8,10,10).
Thu thập dữ liệu và xử lý số liệu
Nghiên cứu viên tiến hành thu thập số liệu bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp với bộ câu hỏi soạn sẵn có cấu trúc và tra cứu bệnh án điện tử.
Số liệu được nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 và xử lý bằng phần mềm Stata 14.0.
Thống kê mô tả biến số định tính bằng tần số và phần trăm. Với các biến số định lượng, mô tả bằng trung bình và độ lệch chuẩn. Nếu biến số định lượng có phân phối không bình thường, trung vị và khoảng tứ phân vị được sử dụng.
Để kiểm định mối liên quan giữa hạn chế HĐSHHN với các biến số độc lập, kiểm định Chi bình phường được sử dụng. Kiểm định chính xác Fisher được sử dụng để thay thế cho kiểm định Chi bình phương nếu có trên 20%
các ô có vọng trị <5 hoặc có ô vọng trị <1. Mức độ kết hợp được ước lượng với tỉ số tỉ lệ hiện
mắc (Prevalence ratio:PR) với khoảng tin cậy (KTC) 95%.
Những biến số gây nhiễu được kiểm soát qua phân tích đa biến bằng hồi quy poisson.
Những biến số được chọn vào mô hình hồi quy đa biến bao gồm những biến số trong phân tích đơn biến có giá trị p <0,2 và đã được chứng minh có liên quan đến hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ ở những nghiên cứu trước.
Y đức
Nghiên cứu đã được chấp thuận của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu Y sinh học bệnh viện Thống Nhất - số 14/2020/BVTN-HĐYĐ kí ngày 06/05/2020.
KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm dân số - xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=110)
Đặc điểm Tần số Phần trăm
Giới tính
Nam 55 50,0
Nữ 55 50,0
Nhóm tuổi
60-69 tuổi 50 45,5
70-79 tuổi 36 32,7
Từ 80 tuổi trở lên 24 21,8
Dân tộc
Kinh 109 99,1
Khmer 1 0,9
Khác 0 0
Tôn giáo
Không tôn giáo 66 60,0
Đạo Phật 35 31,8
Đạo Thiên chúa 9 8,2
Khác 0 0
Nơi sống
Thành thị 98 89,1
Nông thôn 12 10,9
Nghề nghiệp hiện tại
Lao động trí óc 3 2,7
Lao động phổ thông 5 4,5
Nội trợ 7 6,4
Già, nghỉ hưu 95 86,4
Trình độ học vấn
Mù chữ 2 1,8
Biết đọc biết viết 14 12,7
Tiểu học 5 4,6
Trung học cơ sở 11 10
Đặc điểm Tần số Phần trăm
Trung học phổ thông 23 20,9
Trên trung học phổ thông 55 50 Tình trạng kinh tế
Dư dả 19 17,3
Đủ sống 70 63,6
Không đủ sống 21 19,1
Người sống cùng
Sống một mình 6 5,5
Sống cùng người thân 104 94,5
Nam và nữ phân bố đều nhau, nhóm từ 60- 69 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất. Dân tộc Kinh, không tôn giáo, nghề nghiệp già nghỉ hưu chiếm đa số.
Một nửa số đối tượng có học vấn trên trung học phổ thông. Đa số có kinh tế đủ sống và sống cùng người thân (Bảng 1).
Bảng 2: Phân loại chỉ số khối cơ thể (BMI) (n=108)
Đặc điểm Tần số Phần trăm
Phân loại BMI (n=108)
Bình thường (BMI <23kg/m2) 45 41,7 Thừa cân (BMI≥23 kg/m2) 63 58,4
Tỉ lệ bệnh nhân có BMI>23kg/m2 chiếm đa số (Bảng 2).
Bảng 3: Đặc điểm bệnh lý đái tháo đường type 2 (n=110)
Đặc điểm Tần số Phần trăm
Khoảng thời gian mắc đái tháo đường
≤ 10 năm 70 63,6
> 10 năm 40 36,4
Chỉ số HbA1c
Kiểm soát kém (> 7%) 63 57,3
Kiểm soát tốt (≤ 7%) 47 42,7
Chỉ số đường huyết đói
Kiểm soát kém (> 7mmol/l) 65 59,1 Kiểm soát tốt (≤ 7mmol/l) 45 40,9
Điều trị hiện tại
Uống thuốc viên 78 70,9
Tiêm insulin 11 10
Cả 2 21 19,1
Đa số bệnh nhân có thời gian mắc đái tháo đường type 2 từ 10 năm trở xuống. Về kiểm soát đường huyết, ở cả 2 chỉ số HbA1c và chỉ số đường huyết đói, hơn một nửa số bệnh nhân có tình trạng kiểm soát kém. Điều trị hiện tại đa số bằng thuốc viên hạ đường huyết (Bảng 3).
Đa số bệnh nhân chưa từng hút thuốc. Ở các chỉ số chuyển hóa lipid, tỉ lệ bệnh nhân
không đạt mục tiêu điều trị là từ 30% trở xuống (Bảng 4).
Bảng 4: Tình trạng hút thuốc lá và chuyển hóa lipid (n=110)
Đặc điểm Tần số Phần trăm
Hút thuốc lá
Chưa từng hút thuốc 72 65,5
Từng hút nhưng đã bỏ 28 25,4
Vẫn đang hút thuốc 10 9,1
Cholesterol cao (n=109)
≥ 5,3 mmol/l 25 22,7
< 5,3 mmol/l 85 77,3
Triglycerid cao
> 2,3 mmol/l 33 30
≤ 2,3 mmol/l 77 70
LDL cao
≥ 3,4 mmol/l 16 14,6
< 3,4 mmol/l 94 85,4
HDL thấp
<0,9 mmol/l 20 18,2
≥ 0,9 mmol/l 90 81,8
Bảng 5: Bệnh lý đi kèm và biến chứng
Loại bệnh Tần số (Phần trăm)
Có Không
Tăng huyết áp 97 (88,2) 13 (11,8) Cơ xương khớp 42 (38,2) 68 (61,8) Biến chứng thần kinh ngoại biên 23 (20,9) 87 (79,1) Bệnh khác* 19 (17,3) 91 (82,7) Bệnh lý võng mạc 17 (15,5) 93 (84,5) Suy thận 13 (11,8) 97 (88,2) Đột quỵ 6 (5,5) 104 (94,5) Nhồi máu cơ tim 5 (4,5) 105 (95,5)
Ung thư 1 (0,9) 109 (99,1)
Chưa ghi nhận bệnh đi kèm hoặc
biến chứng 5 (4,5) 105 (95,5)
* Bệnh khác gồm: Gút, viêm gan mạn, COPD, lao phổi đang điều trị, suy giáp, cường giáp, Cushing
Tăng huyết áp là bệnh có tỉ lệ mắc cao nhất, ung thư là bệnh có tỉ lệ mắc thấp nhất. Chỉ có 4,5% bệnh nhân chưa ghi nhận có bệnh lý đi kèm hay biến chứng (Bảng 5).
Trong 8 hoạt động được đánh giá, chuẩn bị bữa ăn là hoạt động có tỉ lệ phụ thuộc cao nhất (42,7%), sử dụng phương tiện giao thông là hoạt động có tỉ lệ phụ thuộc thấp nhất (7,3%). Tỉ lệ hạn chế hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (IADL) ở bệnh nhân ĐTĐ type 2 từ 60 tuổi trở lên điều trị ngoại trú tại bệnh viện
Thống Nhất năm 2020 là 59,1% (KTC 95% 49,8 – 68,4) (Bảng 6).
Bảng 6: Tỉ lệ và phân loại hạn chế hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (thang đo Lawton IADL) (n=110)
Hoạt động Tần số (Phần trăm) Phụ thuộc Độc lập Sử dụng điện thoại 15 (13,6) 95 (86,4)
Mua sắm 32 (29,1) 78 (70,9) Chuẩn bị bữa ăn 47 (42,7) 63 (57,3) Việc nhà 20 (18,2) 90 (81,8) Giặt giũ 23 (20,9) 87 (79,1) Sử dụng phương tiện giao thông 8 (7,3) 102 (92,7)
Sử dụng thuốc 14 (12,7) 96 (87,3) Quản lý tiền bạc 10 (9,1) 100 (90,9)
IADL 65 (59,1) 45 (40,9)
Bảng 7: Mô hình hồi quy đa biến poisson giữa hạn chế IADL và các yếu tố liên quan
Hạn chế IADL PR (KTC 95%) Giá trị p Nhóm tuổi
60-69 tuổi 1
70-79 tuổi 1,48 (1,01 - 2,19) 0,046 80 tuổi trở lên 1,97 (1,35 - 2,88) <0,001
Người sống cùng
Sống cùng người thân 4,22 (0,99-17,95) 0,051 Phân loại BMI
Thừa cân 1,00 (0,74-1,37) 0,986 Thời gian mắc đái tháo đường
Trên 10 năm 1,08 (0,82 – 1,43) 0,588 Chỉ số HbA1c
Kiểm soát kém 1,24 (0,91 – 1,71) 0,176 Bệnh khác*
Có 1,60 (1,19-2,17) 0,002
* Bệnh khác gồm: Gút, viêm gan mạn, COPD, lao phổi đang điều trị, suy giáp, cường giáp, cushing
Kết quả phân tích đa biến cho thấy, nhóm từ 70 đến 79 tuổi có tỉ lệ hạn chế IADL cao hơn 48% so với nhóm từ 60 đến 69 tuổi với p=0,046.
Nhóm từ 80 tuổi trở lên có tỉ lệ hạn chế IADL cao hơn 1,97 lần so với nhóm từ 60 đến 69 tuổi với p <0,001 (Bảng 7).
Ngoài ra, nhóm mắc bệnh khác (bao gồm gút, viêm gan mạn, COPD, lao phổi đang điều trị, suy giáp, cường giáp, Cushing) có tỉ lệ hạn chế IADL cao hơn 60% so với nhóm không mắc bệnh khác, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,002.
BÀN LUẬN
Trong tổng số 110 đối tượng tham gia vào nghiên cứu, nhóm từ 60 đến 69 tuổi chiếm tỉ lệ cao nhất. Đáng chú ý, một nửa số đối tượng có học vấn cao (trên trung học phổ thông) và có thu nhập ổn định (Bảng 1). Điều này phù hợp với đặc điểm của địa điểm nghiên cứu là bệnh viện Thống Nhất – nơi tiếp nhận điều trị cho đối tượng hưu trí ở Thành phố Hồ Chí Minh và khu vực phía nam.
Nghiên cứu này có tỉ lệ hạn chế hoạt động sinh hoạt hàng ngày có sử dụng công cụ (IADL) là 59,1% (Bảng 6). Tỉ lệ này cao hơn kết quả của Maria Huedo ở Tây Ban Nha trên đối tượng là người từ 65 tuổi trở lên (từ 35,3 đến 49,2%)(2), nghiên cứu của Munshi M ở Mỹ trên 60 bệnh nhân ĐTĐ 70 tuổi trở lên (39%)(12), nghiên cứu Kalyani S ở Mỹ (43,6%)(4), nghiên cứu tại Thổ Nhĩ Kỳ của Istek N (24,7%)(13). Sự khác biệt này ngoài các lý do như sự khác biệt trong dân số chọn mẫu, thang đo được sử dụng, thì có lẽ còn đến từ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Các nghiên cứu được đề cập ở trên được tiến hành ở các nước Âu Mỹ, là nơi có nền y tế phát triển, đi kèm theo đó là các dịch vụ xã hội được xây dựng chuyên biệt phù hợp với chăm sóc sức khỏe lão khoa. Do IADL là các hoạt động phản ánh chức năng xã hội, môi trường có tác động lớn đến sự thực hiện các hoạt động chức năng xã hội của người cao tuổi. Điều này cho thấy sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống chăm sóc sức khỏe người cao tuổi trong cộng đồng, cũng như hình thành các dịch vụ dành riêng cho người cao tuổi – những thứ chưa phổ biến ở nước ta. Tại Việt Nam, tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào báo cáo tỉ lệ hạn chế IADL trên người cao tuổi có bệnh nền là ĐTĐ. Tỉ lệ hạn chế IADL ở người cao tuổi trong cộng đồng được báo cáo tại Việt Nam thấp hơn tỉ lệ hạn chế IADL ở nghiên cứu
này(5,8,7). Điều này là hợp lý vì theo một phân tích
gộp, số chênh hạn chế IADL ở bệnh nhân ĐTĐ cao gấp 1,65 lần so với nhóm không có ĐTĐ(2).
Hoạt động IADL có tỉ lệ hạn chế cao nhất là chuẩn bị bữa ăn với 42,7%, trong khi đó hoạt động có tỉ lệ hạn chế thấp nhất là sử dụng phương tiện giao thông với 7,3% (Bảng 6). Điều này có thể là do đa phần các đối tượng sống tại thành phố và có kinh tế ổn định, nhiều đối tượng cho rằng họ không thể nấu ăn vì không biết sử dụng các thiết bị nhà bếp hiện đại mà con cháu họ trang bị trong nhà. Ngược lại, với hoạt động sử dụng phương tiện giao thông, thang đo Lawton quy định chỉ cần người cao tuổi có thể tự đi bằng taxi, xe ôm hoặc sử dụng phương tiện giao thông công cộng với sự giúp đỡ của người khác. Điều này dễ dàng hơn cho người dân thành thị khi các phương tiện giao thông công cộng cũng như dịch vụ taxi, xe ôm rộng khắp.
Không tìm thấy mối liên quan giữa BMI, các đặc điểm bệnh lý ĐTĐ type 2, hút thuốc lá, các chỉ số lipid và hạn chế IADL.
Ở nghiên cứu này, tỉ lệ hạn chế IADL có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa các nhóm tuổi khác nhau (Bảng 7). Có thể thấy, quá trình lão hóa tự nhiên có tác động đáng kể lên khả năng thực hiện các HĐSHHN có sử dụng công cụ ở người cao tuổi mắc ĐTĐ.
Ngoài ra, nhóm có bệnh khác (bao gồm gút, viêm gan mạn, COPD, lao phổi đang điều trị, suy giáp, cường giáp, cushing) có tỉ lệ hạn chế IADL cao hơn 60% so với nhóm không mắc (KTC 95% 1,19-2,17), sự khác biệt có ý nghĩa thống kê với p=0,002 (Bảng 7). Do đặc tính của các đối tượng trong nghiên cứu, các bệnh khác được ghi nhận gồm những bệnh mạn tính có tính chất nghiêm trọng, việc mắc các bệnh này làm tăng tỉ lệ suy giảm mức độ độc lập IADL là có thể lý giải được. Điều này gợi ý sự cần thiết của việc thêm vào các bệnh này như một biến số độc lập trong việc tìm kiếm các nguyên nhân làm suy giảm IADL trên bệnh nhân ĐTĐ cao tuổi trong tương lai.
Số liệu nghiên cứu được thu thập dựa trên bệnh án điện tử, hạn chế sai lệch thông tin. Tuy
nhiên, nghiên cứu vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế.
Với thiết kế nghiên cứu cắt ngang cộng với cỡ mẫu nhỏ, nghiên cứu chỉ ghi nhận được tỉ lệ hiện mắc và mối liên quan chứ không xác định được yếu tố thời gian và quan hệ nguyên nhân kết quả. Dù vậy, kết quả nghiên cứu có thể làm tiền đề cho những nghiên cứu bệnh chứng và đoàn hệ trong tương lai.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ hạn chế HĐSHHN có sử dụng công cụ ở bệnh nhân ĐTĐ cao tuổi là khá cao. Cần có thêm những nghiên cứu khác đi sâu vào phân tích mối liên quan giữa hạn chế IADL và các bệnh lý đi kèm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Wong E, Backholer K, Gearon E, et al (2013). Diabetes and risk of physical disability in adults: a systematic review and meta- analysis. Lancet Diabetes Endocrinol, 1(2):106-114.
2. Edemekong PF, Bomgaars DL, Sukumaran S, et al (2020).
Activities of Daily Living. URL:
https://www.ncbi.nlm.nih.gov/books/NBK470404/.
3. Martinez-Huedo AM, Andres AL, Hernandez-Barrera V, et al (2011). Trends in the prevalence of physical and functional disability among Spanish elderly suffering from diabetes (2000–
2007). Diabetes Research and Clinical Practice, 94(2):30-33.
4. Kalyani R, Saudek CD, Brancati FL, et al (2010). Association of diabetes, comorbidities, and A1C with functional disability in older adults: results from the National Health and Nutrition Examination Survey (NHANES), 1999-2006. Diabetes Care, 33(5):1055-1060.
5. Nguyễn Thị Lan Thanh (2015). Khảo sát tình trạng hạn chế chức năng và mối liên quan với các bệnh lý đi kèm ở người cao tuổi trong cộng đồng xã Vĩnh Thành, huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre.
Luận văn Thạc sĩ Y học, Đại học Y Dược TP. HCM.
6. Huỳnh Thị Kim Huệ (2017). Tần suất hạn chế chức năng và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi trong cộng đồng quận 4 thành phố Hồ Chí Minh. Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 21(2):204-209.
7. Võ Văn Tài (2013). Tỉ lệ hạn chế hoạt động trong cuộc sống hàng ngày của người cao tuổi tại thành phố Vũng Tàu năm 2013.
Luận án chuyên khoa II Chuyên ngành Quản lý y tế, Đại học Y Dược TP. HCM.
8. Fisher T (2008). Assessing function in the elderly: Katz ADL and Lawton IADL. Masters of Health Informatics, Dalhousie University.
9. Isik EI, Yilmaz S, Uysal I, et al (2020). Adaptation of the Lawton Instrumental Activities of Daily Living Scale to Turkish: Validity and Reliability Study. Annals of Geriatric Medicine and research, 24(1):35-40.
10. Tong AY, Man DW (2002). The validation of the Hong Kong Chinese version of the Lawton Instrumental Activities of Daily