THĂM DÒ ĐIỆN SINH LÝ VÀ CẮT ĐỐT
QUA ỐNG THÔNG NHỊP NHANH VÒNG VÀO LẠI NÚT NHĨ TH ẤT BẰNG NĂNG LƢỢNG SÓNG CÓ TẦN SỐ RADIO
Hoàng Văn Sỹ1, Nguyễn Minh Kha1
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Đặc điểm điện sinh lý và kết quả điều trị của nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất ở Việt Nam hiện chưa được nghiên cứu đầy đủ.
Mục tiêu: Phân tích đặc điểm lâm sàng, điện sinh lý và kết quả điều trị bằng năng lượng sóng có tần số radio của nhịp nhanh vòng vào lại nút tại bệnh viện Chợ Rẫy.
Đối tượng - Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả, hồi cứu 27 bệnh nhân nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất được chọn liên tiếp, được tiến hành thăm dò điện sinh lý trong buồng tim và cắt đốt bằng năng lượng sóng có tần số radio trong khoảng thời gian từ tháng 12/2018 đến tháng 04/2019.
Kết quả: Trong 27 bệnh nhân, độ tuổi trung bình là 53,0 ± 9,7, tỉ lệ giới nữ:nam = 3:1. Tất cả bệnh nhân đều có bằng chứng đường dẫn truyền kép qua nút nhĩ thất. Độ dài bước nhảy AH có giá trị trung vị là 90 ms.
100% số trường hợp trong cơn nhịp nhanh thuộc thể chậm-nhanh. Cắt đốt thành công ở 27 bệnh nhân (chiếm 100%), không ghi nhận trường hợp nào có biến chứng.
Kết luận: Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất xảy ra chủ yếu ở giới nữ, tất cả các trường hợp đều thuộc thể chậm nhanh. Cắt đốt đường dẫn truyền chậm bằng năng lượng sóng có tần số radio có tỷ lệ thành công cao, biến chứng rất thấp.
Từ khóa: nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất, thăm dò điện sinh lý, cắt đốt
ABSTRACT
ELECTROPHYSIOLOGIC STUDY AND CATHETER ABLATION OF ATRIOVENTRICULAR NODE REENTRANT TACHYCARDIA BY RADIOFREQUENCY ENERGY
Hoang Van Sy, Nguyen Minh Kha
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 25 - No. 2 - 2021: 29 - 34 Background: Electrophysiologic characteristics and outcome of atrioventricular node reentrant tachycardia have not been thoroughly studied in Vietnam.
Objectives: We conducted this study to analyze clinical and electrophysiologic characteristics and outcome of atrioventricular node reentrant tachycardia treatment by radiofrequency energy at Cho Ray Hospital.
Methods: A retrospective, cross-sectional descriptive study of 27 consecutive patients with atrioventricular node reentrant tachycardia underwent endocavitary electrophysiological studies and radiofrequency ablation from December 2018 to April 2019.
Results: Among 27 patients, the mean age was 53.0 ± 9.7 years, and the female to male ratio was 3:1. All patients had evidence of dual conduction through the AV node. The median AH interval was 90 ms. In 100% of cases, there were the slow-fast atrioventricular node reentrant tachycardia. The successful radiofrequency ablation was recorded in 27 of 27 patients (100%), and no patient had any complications.
1Bộ môn Nội Tổng Quát, Khoa Y, Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Nguyễn Minh Kha ĐT: 0382516248 Email: [email protected]
Conclusions: Our study revealed that atrioventricular node reentrant tachycardia occurred more frequently in female than in male, and all patients had the slow-fast atrioventricular node reentrant tachycardia during electrophysiologic study. The rate of successful radiofrequency ablation of slow pathways was high, and the complication rate was very low.
Keywords: atrioventricular node reentrant tachycardia, electrophysiologic study, ablation
ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất là một trong những nhóm bệnh lý nhịp nhanh trên thất thường gặp. Tại Mỹ, tỷ lệ hiện mắc nhịp nhanh kịch phát trên thất là 2,25/1.000 dân và tỷ lệ mới mắc là 35/100.000 dân(1). Nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất là loại nhịp nhanh thường gặp nhất chiếm khoảng 52 – 70% số trường hợp nhập viện vì nhịp nhanh kịch phát trên thất(2). Trong nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất, cơ chế dẫn đến nhịp nhanh do vòng vào lại liên quan đến 2 đường dẫn truyền riêng biệt, thường được gọi là đường dẫn truyền “nhanh” và “chậm”(3).
Bệnh nhân có thể có các cơn nhịp nhanh vòng vào lại nhĩ thất, khởi phát và kết thúc đột ngột, gây ra triệu chứng mệt , hồi hộp, một số trường hợp nặng có thể ngất thậm chí gây đột tử(4). Nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất được gợi ý chẩn đoán dựa trên lâm sàng và thăm dò
điện sinh lý giúp chẩn đoán xác định. Khi thăm dò điện sinh lý sẽ giúp chẩn đoán cơ chế gây nhịp nhanh, các đặc tính dẫn truyền của đường kép qua nút nhĩ thất(5). Cắt đốt bằng năng lượng sóng có tần số radio là biện pháp điều trị triệt để của nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất trong hướng dẫn điều trị nhịp nhanh trên thất của Hội Tim Châu Âu 2019(6).
Đã có những báo cáo ban đầu về đặc điểm thăm dò điện sinh lý và điều trị bằng năng lượng sóng có tần số radio đối với nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất tại Việt Nam(7,8). Dự hậu điều trị sẽ phụ thuộc nhiều vào những yếu tố khác nhau như bệnh lý tim mạch đi kèm, đặc điểm điện sinh lý của đường dâ̂n truyền kép, do đó đòi hỏi cần có những khảo sát, đánh giá
những đặc điểm lâm sàng, điện sinh lý tại từng bệnh viện. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu đặc điểm lâm sàng, điện sinh lý và kết quả điều trị bằng năng lượng sóng có tần
số radio của nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất tại Bệnh viện Chợ Rẫy.
ĐỐI TƢỢNG - PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng nghiên cứuTất cả bệnh nhân đủ 18 tuổi với chẩn đoán lâm sàng là nhịp nhanh kịch phát trên thất và được thăm dò điện sinh lý là nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất . Nghiên cứu thực hiện tại bệnh viện Chợ Rẫy trong thời gian từ tháng 12/2018 đến tháng 04/2019.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Tất cả bệnh nhân đủ 18 tuổi với chẩn đoán lâm sàng là nhịp nhanh kịch phát trên thất và được thăm dò điện sinh lý là nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất; có cơn nhịp nhanh trên lâm sàng với tính chất khởi phát và kết thúc cơn đột ngột; điện tâm đồ bề mặt trong cơn nhịp nhanh (nếu có) có hình ảnh gợi ý của cơn nhịp nhanh kịch phát trên thất là phức bộ QRS hẹp, đều với tần số 150 – 200 lần/phút, không thấy hình ảnh sóng P; khởi phát được cơn nhịp nhanh thỏa tiêu chuẩn chẩn đoán nhịp nhanh kịch phát trên thất do vòng vào lại qua đường dẫn truyền kép; bệnh nhân đồng ý tham gia và ký vào bản chấp thuận tham gia nghiên cứu(5).
Tiêu chuẩn loại trừ
Kết quã thăm dò điện sinh lý không đũ
thông số theo qui trình nghiên cứu. Phƣơng pháp nghiên cúu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang mô tả.
Các bước tiến hành
Thu thập thông tin về thăm khám lâm sàng và các cận lâm sàng, thu thập các biến số cần thiết. Trang thiết bị: Hệ thống máy chụp mạch một bình diện Axiom Artis, máy kích thích tim theo chương trình (tích hợp trong hệ thống
thăm dò điện sinh lý tim), các điện cực thăm dò và cắt đốt.
Quá trình thăm dò
Đưa các điện cực vào tim thông qua đường tĩnh mạch đùi, các dây điện cực đặt tại nhĩ phải, bó His, xoang vành và thất phải. Đo các khoảng dẫn truyền cơ bản AH, HV, QRS. Dùng máy kích thích tim theo chương trình để khởi phát cơn nhịp nhanh và đo thời gian blốc nhĩ thất xuôi dòng, đặc tính dẫn truyền kép qua nút nhĩ thất. Chẩn đoán có bằng chứng của đường kép nút nhĩ thất dựa vào bước nhảy AH ≥50 ms. Có 3 thể của nhịp nhanh vòng vào lại nhĩ thất là thể chậm-nhanh, thể nhanh-chậm và chậm-chậm.
Các thể của nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ nhất được chẩn đoán dựa vào các khoảng AH, HA và VA. Thể chậm-nhanh có AH/HA >1, VA
<60 ms; thể nhanh-chậm AH/HA <1, VA >60 ms;
thể chậm-chậm AH/HA >1, VA >60 ms(5). Quá trình cắt đốt
Đốt đường dẫn truyền chậm, đánh giá sự xuất hiện của nhịp bộ nối lúc cắt đốt, đường dẫn truyền kép sau cắt đốt. Cắt đốt nhịp nhanh vòng vào lại nhĩ thất gọi là thành công khi: Không còn gây cơn nhịp nhanh bằng kích thích tim theo chương trình kể cả sau khi tiêm atropin; không còn đường kép của nút nhĩ thất hoặc còn đường kép nhưng chỉ có một nhịp nút đảo khi kích thích tim theo chương trình. Cắt đốt đường chậm cũng được coi là có kết quả khi: đường nhanh bị tổn thường và/hoặc blốc nhĩ thất độ I (khoảng PR kéo dài)(9).
Xử lý thống kê
Các biến liên tục được thể hiện bằng trung bình ± độ lệch chuẩn nếu phân bố chuẩn và trung vị - khoảng tứ phân vị nếu phân bố không chuẩn. Biến danh định được trình bày dưới dạng tần số (phần trăm). Dùng phép kiểm Student-t cho biến liên tục có phân bố chuẩn, phép kiểm Wilcoxon rank-sum cho biến liên tục không có phân phối chuẩn và phép kiểm chi bình phương hoặc chính xác Fisher cho biến phân loại, để so sánh các biến số ở 2 nhóm. Dữ liệu được nhập và
xử theo phần mềm Stata 13 (StataCorp. 2013.
Stata Statistical Software: Release 13. College Station, TX: StataCorp LP).
KẾT QUẢ
Đặc điểm lâm sàng chung
Trong thời gian nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận được 27 trường hợp nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất qua thăm dò và c ắt đốt điện sinh lý. Độ tuổi trung bình 53,0 ± 9,7 tuổi, giới nữ chiếm 74,1% (20/27) trường hợp, gấp khoảng 3 lần so với giới nam chỉ chiếm 25,9%.
Tuổi trung bình lúc khởi phát cơn nhịp nhanh là 49,9 ± 9,3 tuổi. Chức năng co bóp thất trái là 63,0 ± 7,4%, đường kính cuối tâm trương thất trái là 44,3 ± 4,7 mm.
Thăm dò điện sinh lý
Trong 27 trường hợp, có 26 trường hợp khởi phát được cơn nhịp nhanh, 1 trường hợp chỉ có bằng chứng đường kép qua nút nhĩ thất và có điện tâm đồ trong cơn nhịp nhanh. Tần số tim trong cơn nhịp nhanh ghi nhận được là 169,2 ± 26,1 lần/phút. Tất cả các trường hợp đều thuộc thể chậm-nhanh.
Bảng 1: Các khoảng dẫn truyền cơ bản khi thăm dò điện sinh lý
Trạng thái Khoảng
dẫn truyền
Trước đốt Sau đốt Giá trị p*
AH (ms) 78,7 ± 18,4 72,8 ± 15,0 0,202 HV (ms) 40,2 ± 5,2 41,0 ± 4,0 0,529 QRS (ms) 102,1 ± 7,6 98,2 ± 4,0 0,428 Giá trị là trung bình + độ lệch chuẩn
Bảng 1 thể hiện sự thay đổi các khoảng dẫn truyền cơ bản trước và sau khi cắt đốt điện sinh lý, không ghi nhận có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa 2 thời điểm. Thời gian blốc nhĩ thất xuôi dòng trong nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất là 310 (270 – 330) ms.
Tất cả các trường hợp trong dân số nghiên cứu đều có bằng chứng đường kép qua nút nhĩ thất với bước nhảy AH>50 ms. Độ dài của bước nhảy AH có giá trị trung vị là 90 ms với khoảng tứ phân vị 80 – 100 ms, nhỏ nhất là 54 ms, lớn
nhất là 198 ms. Thời gian phân bố bước nhảy AH được thể hiện ở Hình 1.
Hình 1: Phân bố thời gian của bước nhảy AH Kết quả cắt đốt và biến chứng
Trong 27 bệnh nhân, cắt đốt thành công ở 27 bệnh nhân chiếm 100%. Không có trường hợp nào ghi nhận biến chứng. Chúng tôi ghi nhận có 25 trường hợp mất đường dẫn truyền kép qua nút nhĩ thất, chiếm 92,6% và 2 trường hợp vẫn còn bằng chứng qua nút nhĩ thất, chiếm 7,4%. Ngoài ra, trong quá trình cắt đốt, ghi nhận 26/27 trường hợp (96,3%) có nhịp bộ nối khi đốt đường chậm và 3,7% không ghi nhận có nhịp bộ nối.
BÀN LUẬN
Về thể của cơn nhịp nhanh, trong nghiên cứu của chúng tôi ghi nhận 100% các trường hợp nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất thuộc thể chậm-nhanh (thể điển hình). Các tác giả khác cũng ghi nhận thể điển hình chiếm ưu thế, các thể không điển hình chiếm tỷ lệ khoảng 5 – 10%
nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất. Cụ thể, theo Tôn Thất Minh (2004) thì thể điển hình chiếm 96,6%(10), theo Trần Song Giang (2012) tỷ lệ này là 95,9%(7). Các tác giả ở nước ngoài cũng ghi nhận tỷ lệ thể điển hình rất cao, Feldman A (2011) báo cáo tỷ lệ trên là 94,9%(11), theo Katritsis DG (2019) ghi nhận có 92,9% bệnh nhân nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất thuộc thể điển hình(12).
Về đặc điểm chung của dân số nghiên cứu, tỷ lệ nữ nhiều hơn nam khoảng 3 lần. Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi tương tự với các nghiên cứu khác trên thế giới. Trần Song Giang ghi nhận tỷ lệ giới nữ chiếm 71,2% các trường hợp nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất(7), tương tự Farkowski MM cũng báo cáo tỷ lệ giới nữ cao hơn nam gấp khoảng 3,5 lần(13). Rõ ràng nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất hay gặp ở nữ giới hơn nam giới. Nghiên cứu của Phạm Trường Sơn thực hiện tại bệnh viện Quân đội 108 với tỷ lệ quân nhân cao đến khám và điều trị nên tỷ lệ nam giới cao hơn bình thường(8).
Sự xuất hiện cơn nhịp nhanh do cơ chế vòng vào lại của đường dẫn truyền kép được giải thích bởi các lý do sau. Các bất thường về dẫn truyền của đường chậm và nhanh qua nút nhĩ thất có thể đã hiện diện từ trước. Nhưng có hay không xuất hiện cơn nhịp nhanh tùy thuộc vào đặc tính dẫn truyền như thời gian trơ, tốc độ dẫn truyền và sự xuất hiện của các ổ kích nhịp ở nhĩ như ngoại tâm thu. Khi bệnh nhân lớn tuổi, sự thay đổi tăng lên của các yếu tố trên đóng vai trò
quan trọng trong khởi phát cơn nhịp nhanh(14). Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100% các trường hợp có bằng chứng đường kép qua nút nhĩ thất được xác định bằng bước nhảy AH.
Như chúng ta đã biết, khoảng AH là thời gian dẫn truyền từ nút nhĩ thất xuống bó His. Khi kích thích nhĩ sớm dần sẽ tạo ra một ngoại tâm thu nhĩ, nếu nút nhĩ thất chỉ có 1 đường duy nhất thì khoảng AH sẽ dài dần ra cho đến khi không còn sóng H, chính là thời kỳ trơ của nút nhĩ thất. Khi tồn tại 2 đường dẫn truyền chậm và nhanh với đặc điểm về thời gian trơ khác nhau, khi đó xung động đi qua đường nhanh nên tạo ra khoảng AH ngắn. Nhưng nếu đường nhanh bị trơ, xung động đi qua đường chậm sẽ làm cho khoảng AH dài ra nhiều từ đó tạo nên bước nhảy AH (>50 ms). Do đó khi tồn tại bước nhảy chứng tỏ có bằng chứng đường kép qua nút nhĩ thất. Tuy nhiên không có bước nhảy không có nghĩa là không có 2 đường dẫn truyền nhanh và chậm, mà do sự chênh lệch về thời gian trơ ngắn giữa 2 đường này nên không tạo ra được sự chênh lệch đủ lớn (bước nhảy). Theo Trần Song
Giang và cộng sự (2012), tỷ lệ đường kép qua nút nhĩ thất là 74,3%(7), theo Liu S (2001) thì tỷ lệ này là 79%(15), theo Estner HL (2005) là 71,4%(16). Trong nghiên cứu này, tỷ lệ có đường kép qua nút nhĩ thất cao hơn các nghiên cứu khác có thể do cỡ mẫu nhỏ hơn. Ngoài ra, bệnh nhân trong nghiên cứu ít được sử dụng thuốc gây ảnh hưởng dẫn truyền của đường chậm trước đó, nếu đã dùng thuốc trước đó sẽ chờ một thời gian để thải trừ thuốc(17).
Trong nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất, chúng tôi ghi nhận tỷ lệ cắt đốt thành công là 100%. Trong đó, có 2 trường hợp biến đổi dẫn truyền nút nhĩ thất, kiểm tra sau cắt đốt không khởi phát được cơn nhịp nhanh nhưng còn bước nhảy AH và nhịp nút đảo. Các tác giả trong và ngoài nước cũng báo cáo tỷ lệ cắt đốt thành công cao như Trần Song Giang (2012) là 99,4%(7), theo Tôn Thất Minh (2004) là 100%(10), theo Bottoni N (2003) là 98%(18), và theo Kihel J là 99,6%(19). Như vậy, điều trị nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất bằng phương pháp cắt đốt đường chậm với năng lượng có tần số radio là phương pháp hiệu quả, triệt để với tỷ lệ thành công rất cao. Tỷ lệ thành công cao và không ghi nhận biến chứng trong nghiên cứu của chúng tôi có thể do cỡ mẫu nhỏ và theo dòng thời gian thì tỷ lệ biến chứng giảm có thể do sự cải thiện dần kỹ thuật cắt đốt, tiếp thu kinh nghiệm từ các nghiên cứu trước.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu, chúng tôi ghi nhận nhịp nhanh vòng vào lại nút nhî thất thư ờng gặp ở giới nữ nhiều hơn, được điều trị cắt đốt trong độ tuổi trung niên. Tất cả các trường hợp đều có bằng chứng đường kép qua nút nhĩ thất, tất cả các cơn nhịp nhanh vòng vào lại nút nhĩ thất được đều thuộc thể chậm-nhanh (thể điển hình).
Cắt đốt đường dẫn truyền chậm bằng năng lượng sóng có tần số radio có tỷ lệ thành công cao, biến chứng rất thấp.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Orejarena LA, Vidaillet HJr, DeStefano F, et al (1998).
Paroxysmal supraventricular tachycardia in the general population. J Am Coll Cardiol, 31(1):150-157.
2. Link MS (2012). Clinical practice. Evaluation and initial treatment of supraventricular tachycardia. N Engl J Med, 367(15):1438-1448.
3. Delacretaz E (2006). Clinical practice. Supraventricular tachycardia. N Engl J Med, 354(10):1039-1051.
4. Chrispin J, Misra S, Marine JE, et al (2018). Current management and clinical outcomes for catheter ablation of atrioventricular nodal re-entrant tachycardia. Europace, 20(4):e51-e59.
5. Katritsis DG, Josephson ME (2016). Classification, Electrophysiological Features and Therapy of Atrioventricular Nodal Reentrant Tachycardia. Arrhythm Electrophysiol Rev, 5(2):130-135.
6. Brugada J, Katritsis DG, Arbelo E, et al (2020). 2019 ESC Guidelines for the management of patients with supraventricular tachycardiaThe Task Force for the management of patients with supraventricular tachycardia of the European Society of Cardiology (ESC). Eur Heart J, 41(5):655-720.
7. Trần Song Giang (2012). Nghiên cứu đặc điểm điện sinh lý và điều trị nhịp nhanh do vòng vào lại nút nhĩ thất bằng năng lượng sóng có tần số radio. Luận văn Tiến sỹ Y học, Trường Đại học Y Hà Nội.
8. Phạm Trường Sơn (2017). Nghiên cứu hiệu quả triệt đốt bằng sóng tần số radio của nhịp nhanh kịch phát trên thất vòng vào lại nút nhĩ thất. Y - Dược học Quân Sự, 6:91-98.
9. Manolis AS, Wang PJ, Estes NA et al (1994). Radiofrequency ablation of slow pathway in patients with atrioventricular nodal reentrant tachycardia. Do arrhythmia recurrences correlate with persistent slow pathway conduction or site of successful ablation? Circulation, 90(6):2815-2819.
10. Tôn Thất Minh (2004). Khảo sát điện sinh lý và cắt đốt bằng năng lượng sóng có tần số Radio qua catheter để điều trị nhịp nhanh trên thất. Luận văn Tiến sỹ Y học, Đại Học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh.
11. Feldman A, Voskoboinik A, Kumar S, et al (2011). Predictors of acute and long-term success of slow pathway ablation for atrioventricular nodal reentrant tachycardia: a single center series of 1,419 consecutive patients. Pacing Clin Electrophysiol, 34(8):927-933.
12. Katritsis DG, Zografos T, Siontis KC, et al (2019). Endpoints for Successful Slow Pathway Catheter Ablation in Typical and Atypical Atrioventricular Nodal Re-Entrant Tachycardia: A Contemporary, Multicenter Study. JACC Clin Electrophysiol, 5(1):113-119.
13. Farkowski MM, Pytkowski M, Maciag A, et al (2014). Gender- related differences in outcomes and resource utilization in patients undergoing radiofrequency ablation of supraventricular tachycardia: results from Patients' Perspective on Radiofrequency Catheter Ablation of AVRT and AVNRT Study. Europace, 16(12):1821-1827.
14. Goyal R, Zivin A, Souza J, et al (1996). Comparison of the ages of tachycardia onset in patients with atrioventricular nodal reentrant tachycardia and accessory pathway-mediated tachycardia. Am Heart J, 132(4):765-767.
15. Liu S, Yuan S, Hertervig E, et al (2001). Gender and atrioventricular conduction properties of patients with symptomatic atrioventricular nodal reentrant tachycardia and Wolff-Parkinson-White syndrome. J Electrocardiol, 34(4):295- 301.
16. Estner HL, Ndrepepa G, Dong J, et al (2005). Acute and long-
term results of slow pathway ablation in patients with atrioventricular nodal reentrant tachycardia--an analysis of the predictive factors for arrhythmia recurrence. Pacing Clin Electrophysiol, 28(2):102-110.
17. Gambhir DS, Bhargava M, Nair M, et al (1996). Comparison of electrophysiologic effects and efficacy of single-dose intravenous and long-term oral amiodarone therapy in patients with AV nodal reentrant tachycardia. Indian Heart J, 48(2):133-137.
18. Bottoni N, Tomasi C, Donateo P, et al (2003). Clinical and electrophysiological characteristics in patients with
atrioventricular reentrant and atrioventricular nodal reentrant tachycardia. Europace, 5(3):225-229.
19. Kihel J, Da Costa A, Kihel A, et al (2006). Long-term efficacy and safety of radiofrequency ablation in elderly patients with atrioventricular nodal re-entrant tachycardia. Europace, 8(6):416-420.
Ngày nhận bài báo: 13/11/2020
Ngày nhận phản biện nhận xét bài báo: 01/02/2021 Ngày bài báo được đăng: 10/03/2021