• Tidak ada hasil yang ditemukan

Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự - CSDL Khoa học

N/A
N/A
Nguyễn Gia Hào

Academic year: 2023

Membagikan "Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự - CSDL Khoa học"

Copied!
21
0
0

Teks penuh

(1)

BÌNH LUẬN KHOA HỌC BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 (Phần Trách nhiệm hình sự)

I. Trách nhiệm hình sự

1. Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự

Trong luật hình sự, vấn đề thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) được đặt ra xuất phát từ cơ sở cho rằng việc truy cứu TNHS đối với các chủ thể phạm tội chỉ có ý nghĩa khi được thực hiện trong khoảng thời gian từ thời điểm thực hiện hành vi phạm tội cho đến thời điểm áp dụng các chế tài hình sự. Nếu đã trải qua một khoảng thời gian tương đối dài và nếu người phạm tội không có bất cứ một hành vi vi phạm nào khác hoặc hành vi chống đối khác thì việc truy cứu TNHS đối với hành vi mà họ đã thực hiện sẽ không còn ý nghĩa, mục đích giáo dục, phòng ngừa sẽ không còn. Thời hiệu truy cứu TNHS phản ánh chính sách của nhà nước đối với hành vi phạm tội của các chủ thể mà khi trải qua hết thời hạn nhất định, đáp ứng các điều kiện nhất định, chủ thể đó sẽ không bị truy cứu TNHS nữa.

Chế định thời hiệu truy cứu TNHS thể hiện rõ nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự Việt Nam xuyên suốt qua các giai đoạn lập pháp hình sự. Cùng với việc quy định cụ thể thời hiệu truy cứu TNHS, pháp luật hình sự cũng quy định về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS đối với một số tội phạm. Điều này cũng phù hợp với thừa nhận chung của pháp luật hình sự quốc tế về vấn đề thời hiệu. Bên cạnh đó, BLHS Việt Nam cũng ghi nhận thêm một số trường hợp không áp dụng thời hiệu qua đó thể hiện tính nghiêm khắc hơn trong việc tăng cường xu hướng trấn áp về hình sự.

Bình luận

Khái niệm thời hiệu truy cứu TNHS lần đầu tiên đã được ghi nhận riêng biệt bằng định nghĩa pháp lý tại khoản 1 điều 23 BLHS 1999 và nay được ghi nhận tại khoản 1 điều 27 BLHS 2015. Theo quy định về Thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự tại điều 27, có thể hiểu như sau: Thời hiệu truy cứu TNHS chính là thời hạn được BLHS ấn định theo các mức cụ thể tùy thuộc vào từng loại tội phạm mà chủ thể thực hiện, mà khi trải qua hết thời hạn đó, nếu đáp ứng được những điều kiện nhất định thì chủ thể thực hiện hành vi phạm tội không bị truy cứu TNHS nữa.

Như vậy, sau khi hết một thời hạn nhất định do luật định và khi đã đáp ứng đầy đủ các đòi hỏi được ghi nhận trong pháp luật hình sự, thì người phạm tội không thể bị Nhà nước truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc không phải chấp hành bản án kết tội đã có hiệu lực pháp luật về hành vi phạm tội trước đó của mình. Đây cũng chính là bản chất pháp lý của chế định thời hiệu truy cứu TNHS.

Thời hiệu TNHS được quy định tại 02 điều (điều 27 và điều 28) của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 2015. Căn cứ vào phân loại tội phạm tại điều 9-BLHS, các nhà làm luật đã ấn định bốn mức thời hạn sau đây:

(2)

- Năm năm đối với tội phạm ít nghiêm trọng, là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ hoặc phạt tù đến 03 năm

- Mười năm đối với tội nghiêm trọng, là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 03 năm tù đến 07 năm tù

- Mười lăm năm đối với tội rất nghiêm trọng, là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội rất lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 07 năm tù đến 15 năm tù

- Hai mươi năm đối với tội đặc biệt nghiêm trọng, là tội phạm có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đặc biệt lớn mà mức cao nhất của khung hình phạt do Bộ luật này quy định đối với tội ấy là từ trên 15 năm tù đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình.

Dựa vào quy định này, có thể thấy nhà làm luật đã quy định bốn mức thời hạn khác nhau tương ứng với bốn loại tội phạm khác nhau đã được phân loại tại điều 9 BLHS. Trên cơ sở đó, cơ quan tiến hành tố tụng chỉ có thể dựa vào các căn cứ này để truy cứu TNHS người phạm tội. Thời hiệu truy cứu TNHS cần được tính từ thời điểm tội phạm hoàn thành, tức là từ khi hành vi nguy hiểm cho xã hội được thực hiện chứ không phải là từ ngày tội phạm bị phát hiện hoặc từ khi xảy ra hậu quả của tội phạm. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào loại tội phạm mà thời điểm tính thời hiệu có thể khác nhau. Chẳng hạn, đối với tội kéo dài thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày tội phạm kết thúc, trong khi đó, đối với tội liên tục thì được tính từ ngày hành vi cuối cùng trong một loạt hành vi tội phạm được thực hiện. Hay đối với trường hợp phạm tội nhiều lần thì thời điểm truy cứu TNHS được tính từ ngày tội nào được thực hiện trước tiên trong số các tội bị phát hiện và người phạm tội bị đưa ra xét xử. Như vậy, về nguyên tắc, BLHS 2015 quy định thời hiệu truy cứu TNHS được tính từ ngày tội phạm được thực hiện. Tuy nhiên, BLHS cũng quy định hai điều kiện để xác định lại thời điểm tính thời hiệu truy cứu TNHS:

- Một là, nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 điều 27, người phạm tội lại thực hiện hành vi phạm tội mới mà Bộ luật này quy định mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy trên 01 năm tù, thì thời hiệu đối với tội cũ được tính lại kể từ ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

- Hai là, nếu trong thời hạn quy định tại khoản 2 điều 27, người phạm tội cố tình trốn tránh và đã có quyết định truy nã, thì thời hiệu tính lại kể từ khi người đó ra đầu thú hoặc bị bắt giữ.

Bằng quy định tại điều 27 BLHS 2015, có thể thấy rằng, để không bị truy cứu TNHS do hết thời hiệu, theo chúng tôi, cần có các điều kiện sau:

Thứ nhất, phải trải qua hết thời hạn nhất định được quy định tại khoản 1 điều 27;

(3)

Thứ hai, trong khoảng thời gian nói trên, người phạm tội không được phạm tội mới có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là trên 01 năm tù. Điều này có nghĩa là, nếu người phạm tội thực hiện tội mới có mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội đó là từ 01 năm tù trở xuống thì người này vẫn không bị truy cứu TNHS về tội đã phạm trước đó;

Thứ ba, cũng trong khoảng thời gian nói trên, người phạm tội không được cố tình trốn tránh và không có quyết định truy nã của cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền.

Những điều kiện này vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật hình sự, không làm bỏ lọt tội phạm, vừa giúp các cơ quan tiến hành tố tụng đảm bảo tính kịp thời và đúng thời hạn trong việc xử lý tội phạm, tránh những nguyên nhân khách quan và chủ quan đến từ chủ thể tiến hành tố tụng làm cho hết thời hiệu truy cứu TNHS, dẫn tới không thể xử lý tội phạm.

So với BLHS năm 1999 quy định về thời hiệu truy cứu TNHS, có thể thấy nội dung của điều luật này không có nhiều sự thay đổi đáng kể, các mức thời hạn vẫn được giữ nguyên, chỉ có sự thay đổi một số cụm từ nhất định. Cụ thể là sự thay đổi cụm từ “tự thú” thành “đầu thú”. Sự khác nhau giữa hai khái niệm này được thể hiện thông qua việc người phạm tội đã có lệnh truy nã hay chưa. Việc sửa đổi này hoàn toàn hợp lý và chính xác.

Quy định về thời hiệu truy cứu TNHS này cũng được áp dụng đối với hành vi phạm tội của pháp nhân thương mại là chủ thể mới trong quan hệ pháp luật hình sự theo quy định của BLHS năm 2015.

Đối với quy định tại điều 28 về việc không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với một số tội, bao gồm các tội xâm phạm an ninh quốc gia và các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh, có thể thấy rằng, nhà làm luật vẫn đặt an ninh quốc gia ngang hàng với hòa bình và anh ninh của nhân loại. Điều này cũng có nghĩa là chính sách nhân đạo về thời hiệu truy cứu TNHS không được phép và không bao giờ được áp dụng đối với các loại tội phạm này. Một điểm mới nữa liên quan đến thời hiệu truy cứu TNHS là, theo quy định tại BLHS năm 2015, ngoài việc vẫn giữ nguyên quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS đối với các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII, các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI, khoản 3 Điều 28 còn bổ sung thêm hai tội khác vào các trường hợp không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, bao gồm: Tội tham ô tài sản theo khoản 3, khoản 4 Điều 353 và tội nhận hối lộ theo khoản 3, khoản 4 Điều 354. Nói cách khác, người phạm tội tham ô tài sản hoặc tội nhận hối lộ nếu thuộc trường hợp rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng sẽ không được áp dụng thời hiệu truy cứu TNHS. Đây là một quy định, chính sách mới, thể hiện thái độ kiên quyết của Nhà nước nhằm tăng cường đấu tranh chống tệ tham nhũng đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng, phức tạp như hiện nay.

(4)

2. Miễn trách nhiệm hình sự

Cũng như TNHS, miễn TNHS thể hiện sự phản ứng đối với người có hành vi phạm tội từ phía Nhà nước và xã hội. Người thực hiện hành vi phạm tội đã thỏa mãn dấu hiệu cấu thành tội phạm, tuy nhiên tùy thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự mà các cơ quan tiến hành tố tụng thấy rằng việc truy cứu TNHS là không cần thiết mà vẫn đáp ứng các yêu cầu đấu tranh phòng ngừa tội phạm cũng như giáo dục, cải tạo người phạm tội nên ra quyết định miễn TNHS cho họ. Mặc dù vậy, họ vẫn có thể phải chịu các biện pháp cưỡng chế thuộc các ngành luật khác. Có thể thấy, miễn TNHS cũng là một chế định nhân đạo trong chính sách hình sự của nhà nước ta, phản ánh chính sách phân hóa tội phạm và người phạm tội hoặc pháp nhân phạm tội, thể hiện nguyên tắc “nghiêm trị kết hợp với khoan hồng”, “trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục, cải tạo” trong Luật hình sự Việt Nam.

Bình luận

Chế định miễn TNHS phản ánh xu hướng của chính sách hình sự là khi có những điều kiện nhất định thì cần có những biện pháp tác động pháp lý khác thay cho các biện pháp tác động hình sự. Điều này vẫn đạt được mục đích của hình phạt mà không nhất thiết phải áp dụng hình phạt. Chúng tôi cũng đồng ý quan điểm cho rằng chế định miễn trách nhiệm hình sự nhằm mục đích tiết kiệm việc trừng trị bằng các biện pháp pháp lý hình sự1. Mặc dù có ý nghĩa quan trọng như vậy nhưng khái niệm miễn trách nhiệm hình sự vẫn chưa được nhà làm luật nước ta ghi nhận chính thức trong pháp luật hình sự thực định. Trong một số công trình nghiên cứu, các tác giả có đưa ra định nghĩa khoa học của khái niệm này như sau: “Miễn TNHS là không buộc người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã phạm”2; “Miễn TNHS là không buộc một người đáp ứng những điều kiện nhất định phải gánh chịu hậu quả pháp lý bất lợi do việc người đó đã thực hiện hành vi phạm tội, mà vẫn bảo đảm yêu cầu đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội”3. Hay trong một công trình khác, các tác giả lại đưa ra khái niệm miễn TNHS gộp chung với khái niệm giảm TNHS như sau: “Miễn, giảm trách nhiệm hình sự là các biện pháp có tính chất khoan hồng được quy định trong BLHS thể hiện bằng việc miễn, giảm sự tác động cưỡng chế thuộc nội dung của trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong quá trình truy cứ trách nhiệm hình sự và thực hiện trách nhiệm hình sự của người phạm tội.”4. Chúng tôi thấy rằng những quan điểm trên đều có những nhân tố hợp lý riêng, tuy nhiên xuất

1 Võ Khánh Vinh (2010), Giáo trình luật hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, tr.383 2 Trường Đại học luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXBCAND, Hà Nội, tr.252

3 Trịnh Tiến Việt (2010), Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.71

4 Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức, TP Hồ Chí Minh, tr.68

(5)

phát từ tính mới của BLHS 2015 so với BLHS 1999 trước đây trong đó có những điểm mới liên quan đến miễn TNHS, cho nên trong khái niệm về miễn TNHS cần đưa thêm chủ thể là pháp nhân vào như khái niệm được nêu trong sách giáo trình Luật hình sự Việt Nam của trường đại học Luật Hà Nội. Bên cạnh đó, miễn TNHS cũng cần được hiểu là việc cơ quan tiến hành tố tụng ở các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử không buộc người phạm tội hay pháp nhân phạm tội phải chịu TNHS về tội mà họ đã thực hiện và thay vào đó có thể áp dụng các biện pháp tác động khác hoặc các biện pháp giám sát, giáo dục đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Như vậy, khái niệm về miễn TNHS sẽ rõ ràng và đầy đủ hơn. Miễn TNHS có một số đặc điểm sau:

- Thứ nhất, miễn TNHS là sự phản ánh rõ nét nhất nguyên tắc nhân đạo của chính sách hình sự nói chung và luật hình sự nói riêng của Nhà nước.

- Thứ hai, miễn TNHS là sự xóa bỏ hoàn toàn hậu quả pháp lý của việc thực hiện một tội phạm chỉ được đặt ra đối với người nào là chủ thể của chính tội phạm ấy, lẽ ra nếu không đủ căn cứ để được miễn TNHS thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS.

- Thứ ba, phụ thuộc vào giai đoạn tố tụng hình sự tương ứng cụ thể, miễn TNHS chỉ được thực hiện bởi một cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án. Cụ thể, đó là Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát hoặc Tòa án (các điều 230, 285 và 282 BLTTHS năm 2015), khi đảm bảo các căn cứ pháp lý và những điều kiện do pháp luật hình sự quy định.

BLHS hiện hành quy định các trường hợp miễn TNHS rải rác ở nhiều điều luật khác nhau thuộc phần chung và phần tội phạm cụ thể bao gồm:

- Miễn TNHS do tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội (Điều 16) - Miễn TNHS do hết thời hiệu truy cứu TNHS (khoản 1 điều 27) - Miễn TNHS đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (khoản 2 điều 91) - Miễn TNHS đối với người phạm tội gián điệp (khoản 4 điều 110) - Miễn TNHS đối với người phạm tội đưa hối lộ (khoản 7 điều 364) - Miễn TNHS đối với người phạm tội môi giới hối lộ (khoản 6 điều 365) - Miễn TNHS đối với người phạm tội không tố giác tội phạm (khoản 2 điều 390)

Tuy nhiên, tại điều 29 của Bộ luật quy định các căn cứ để được miễn TNHS cũng đồng thời là những trường hợp được quy định một cách trực tiếp và áp dụng cho tất cả các tội phạm bao gồm các trường hợp sau:

- Khoản 1 điều 29 quy định hai trường hợp đương nhiên được miễn TNHS:

Trường hợp thứ nhất là khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa. Theo đó, trong trường hợp vụ án đang trong quá trình điều tra, truy tố hoặc xét xử, như do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì người phạm tội sẽ được miễn TNHS

(6)

(điểm a, khoản 1). Sự thay đổi chính sách, pháp luật được hiểu là sự thay đổi của BLHS bao gồm BLHS đã phi hình sự hóa đối với tội phạm mà người đó đã thực hiện trước đó hoặc BLHS vẫn quy định hành vi phạm tội đó trong Bộ luật, trong khi đó pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực đó đã có sự thay đổi dẫn đến hành vi đó không còn bị nghiêm cấm nữa. Do đó, việc đưa người phạm tội ra xử lý trong những trường hợp này sẽ không phù hợp với yêu cầu của thực tiễn5.

Trường hợp thứ hai là khi có quyết định đại xá (điểm b, khoản 1). Người phạm tội ở bất cứ giai đoạn nào của quá trình tố tụng, nếu có quyết định đại xá thì họ đương nhiên được miễn TNHS. Đây là một trường hợp miễn TNHS thể hiện chính sách nhân đạo đặc biệt nhất của nhà nước đối với các chủ thể phạm tội. Đại xá là biện pháp khoan hồng của nhà nước có nội dung tha tội, thường là hoàn toàn và triệt để. Theo quy định của Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam, chỉ có Quốc Hội mới có quyền quyết định đại xá. Cơ sở để Quốc Hội ban hành quyết định đại xá là nhân dịp những sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước. Văn bản đại xá do Quốc Hội ban hành có hiệu lực đối với tất cả những hành vi phạm tội được nêu trong văn bản đó và xảy ra trước khi ban hành văn bản đại xá. Nếu hành vi phạm tội đã bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử thì phải đình chỉ, nếu đã chấp hành xong hình phạt thì được coi là không có án tích. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là trong trường hợp người đang chấp hành hình phạt mà có quyết định đại xá thì đây được coi là trường hợp miễn chấp hành hình phạt theo khoản 1 điều 62 BLHS.

- Khoản 2 và khoản 3 quy định bốn trường hợp có thể miễn TNHS như sau:

Trường hợp thứ nhất là khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm a khoản 2). Nếu như BLHS 1999 coi đây là một trong các căn cứ đương nhiên được miễn TNHS thì BLHS 2015 chuyển thành căn cứ có thể được miễn TNHS, có nghĩa là trong trường hợp này các cơ quan tiến hành tố tụng cần phải cân nhắc, xem xét thận trọng, đánh giá khách quan, chính xác từng hành vi phạm tội cụ thể tương ứng với hoàn cảnh cụ thể để ra quyết định miễn hay không miễn TNHS. Do sự chuyển biến của tình hình mà người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa được hiểu là: “Sự thay đổi của tình hình phải xảy ra sau khi chủ thể thực hiện hành vi phạm tội đồng thời tại thời điểm khi có sự chuyển biến của tình hình thì tội phạm mà người đó thực hiện nhất thiết phải đang ở trong giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử”6; đồng thời người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa có nghĩa là “trước khi có sự chuyển biến của tình hình, người đó là đối tượng nguy hiểm cho xã hội đáng phải chịu TNHS về hành vi phạm tội đã thực hiện nhưng do

5 Xem thêm Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tài liệu tập huấn BLHS 2015, Hà Nội, 5/2016

6 Trịnh Tiến Việt (2010), Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.135

(7)

tại thời điểm điều tra, truy tố hoặc xét xử, cộng với sự chuyển biến của tình hình, thì người này không còn là phần tử, đối tượng nguy hiểm cho xã hội nữa”7.

Trường hợp thứ hai là khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa (điểm b khoản 2). Đây chính là một trường hợp đặc biệt do sự chuyển biến của tình hình dẫn tới người phạm tội không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa, nhưng đây là sự chuyển biến thuộc về đặc thù bản thân người phạm tội mà cụ thể là tình trạng sức khỏe của họ thể hiện qua việc họ mắc các căn bệnh hiểm nghèo.

Điều kiện để có thể được miễn TNHS trong trường hợp này đó là: người phạm tội phải đang mắc bệnh hiểm nghèo (các bệnh mà theo kết luận của cơ quan y tế có thẩm quyền là những bệnh nguy hiểm đến tính mạng và khó có phương thức chữa trị) và bản thân người phạm tội không còn đủ khả năng gây nguy hiểm cho xã hội.

Đây là một trường hợp mới được bổ sung vào BLHS 2015 đáp ứng được thực tiễn xử lý tội phạm và cũng thể hiện được chính sách nhân đạo của nhà nước. Tuy vậy cũng cần phân biệt với trường hợp người phạm tội đã bị kết án, chưa chấp hành hình phạt mà mắc bệnh hiểm nghèo và người đó không còn nguy hiểm cho xã hội nữa thì người phạm tội được miễn chấp hành hình phạt quy định tại điểm b khoản 2 điều 62 BLHS.

Trường hợp thứ ba là trước khi hành vi phạm tội bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Đây là trường hợp miễn TNHS có tính chất lựa chọn, thể hiện tính tích cực của người phạm tội thông qua hành vi tự thú của họ trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Điều kiện để người phạm tội tự thú có thể được miễn TNHS như sau: một là, tội phạm mà người phạm tội tự thú đã thực hiện chưa bị phát giác, chưa ai biết có tội phạm xảy ra hoặc có biết nhưng chưa biết ai là người phạm tội; hai là, người phạm tội phải khai báo đầy đủ hành vi phạm tội của mình cũng như các đồng phạm khác, không che giấu bất kỳ tình tiết nào của vụ án, cung cấp nhưng chứng cứ, tài liệu và những thông tin hữu ích cho cơ quan có thẩm quyền giúp cho việc phát hiện và điều tra, khám phá tội phạm có hiệu quả; ba là, cùng với việc tự thú, người phạm tội còn phải cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm là những thiệt hại cụ thể về vật chất, thể chất, tinh thần do hành vi phạm tội gây ra dẫn tới trên thực tế thiệt hại không xảy ra hoặc có nhưng ở mức độ không đáng kể; và bốn là, người phạm tội còn phải lập được công lớn (là trường hợp người bị kết án đã có hành động giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền phát hiện, truy bắt, điều tra tội phạm; cứu được người khác trong tình thế hiểm nghèo hoặc đã cứu được tài sản của nhà nước, của

7 Trịnh Tiến Việt (2010), Chế định miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.135

(8)

tập thể, của công dân trong thiên tai, hoả hoạn; có những phát minh, sáng chế hoặc sáng kiến có giá trị hoặc thành tích xuất sắc đột xuất khác được các cơ quan có thẩm quyền xác nhận8) hoặc có cống hiến đặc biệt được nhà nước và xã hội thừa nhận. Về quy định “có cống hiến đặc biệt được nhà nước và xã hội thừa nhận”, thiết nghĩ cần phải có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn trường hợp này, qua đó việc vận dụng điều kiện này để miễn TNHS quy định tại điểm c khoản 2 điều 29 đối với người phạm tội được chính xác.

Trường hợp thứ tư là người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự (khoản 3 điều 29). Để có thể được miễn TNHS trong trường hợp này, người phạm tội phải đáp ứng đầy đủ 4 điều kiện chặt chẽ do luật định gồm: về tội phạm được thực hiện, phải là tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng; về khách thể bị xâm hại, phải là khách thể liên quan trực tiếp đến nhân thân hoặc tài sản con người (như tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản); về mức độ thể hiện sự ăn năn, hối cải của người phạm tội, đó là phải là người đó đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả; và về phía người bị hại, phải được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn TNHS. Đây là một trường hợp miễn TNHS mới lần đầu tiên được quy định trong BLHS. Chính vì vậy hiện nay có quan điểm cho rằng quy định này chưa chặt chẽ dẫn tới có thể hiểu theo các cách khác nhau:

một là, người phạm tội ít nghiêm trọng thì trong mọi trường hợp đều có thể được xem xét để miễn TNHS mà không nhất thiết phải gây ra thiệt hại hoặc hai là, người phạm tội ít nghiêm trọng hay tội nghiêm trọng do vô ý đều phải gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì mới có thể được xem xét để miễn TNHS9. Chúng tôi cho rằng, theo quy định này, cần phải hiểu là để được xem xét miễn TNHS, người phạm tội phải là người đã thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng do cố ý và vô ý, đồng thời họ phải gây ra thiệt hại nhất định (về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của người khác) thì mới thỏa mãn một trong các điều kiện để có thể miễn TNHS theo khoản 3 của điều luật này. Ngoài ra, người bị hại ở trong điều khoản này cũng cần phải được hiểu là người đã bị thiệt hại trên thực tế do tội phạm gây ra để phân biệt với trường hợp có người bị hại do hành vi chuẩn bị phạm tội hay phạm tội chưa đạt nhưng chưa gây ra thiệt hại trên thực tế.

8 Xem điểm a, mục 2.1 Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật Hình sự về thời hiệu thi hành bản án, miễn chấp hành hình phạt, giảm thời hạn chấp hành hình phạt.

9 Nguyễn Thị Phương Hoa, Phan Anh Tuấn (2017), Bình luận khoa học Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), NXB Hồng Đức, TPHCM, tr.73,74

(9)

Bên cạnh những điểm mới về chế định miễn TNHS được quy định tại BLHS 2015 mang tính chặt chẽ hơn, mở rộng phạm vi áp dụng miễn TNHS hơn, tách biệt trường hợp đương nhiên được miễn và có thể được miễn TNHS trong hai khoản khác nhau của điều luật…, có thể nhận thấy rằng vẫn còn những điểm cần hoàn thiện chế định này. Trước hết có thể thấy, quy định về miễn TNHS còn nằm rải rác ở nhiều điều luật khác nhau trong BLHS và BLTTHS, như quy định về miễn TNHS khi người phạm tội tự ý nữa chừng chấm dứt việc phạm tội, miễn TNHS khi người yêu cầu rút yêu cầu khởi tố vụ án và quy định miễn TNHS tại các điều luật cụ thể về tội phạm. Để đảm bảo tính nhất quán trong quy phạm pháp luật, các quy định này phải được quy định thống nhất vào một điều luật cụ thể để làm căn cứ miễn TNHS cho người phạm tội hoặc cần có một khoản bổ sung tại điều 29 với nội dung là các trường hợp miễn trách nhiệm hình sự khác được quy định ở các tội phạm cụ thể và các điều luật khác của Bộ luật này. Bên cạnh đó, cơ quan có thẩm quyền cần có văn bản hướng dẫn cụ thể hơn các trường hợp miễn TNHS, đặc biệt là trường hợp quy định tại khoản 3 điều 29 bởi vì đây là trường hợp mới, lần đầu tiên được quy định trong BLHS 2015 nên cần phải xem xét, đánh giá một cách nghiêm túc và cân nhắc khi áp dụng để tránh những tác động tiêu cực làm ảnh hưởng đến mục đích của việc áp dụng chính sách nhân đạo này.

Tóm lại, chế định về thời hiệu truy cứu TNHS và miễn TNHS được xem là hai chế định mang tính nhân đạo vì chúng nhằm giảm nhẹ bớt mức độ TNHS và tha miễn TNHS. Cùng với các biện pháp tha miễn TNHS khác, chế định thời hiệu truy cứu TNHS và miễn TNHS đã thể hiện sự tôn trọng và bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật hình sự. Nội dung của chúng phản ánh ở các mức độ khác nhau sự khoan hồng của Nhà nước đối với người phạm tội vì tính chất của các biện pháp này là sự giảm nhẹ tác động cưỡng chế hình sự thuộc nội dung của TNHS.

II. Quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể

Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án sẽ lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể theo một thủ tục nhất định để áp dụng đối với người phạm tội hay pháp nhân thương mại phạm tội. Việc quyết định hình phạt có căn cứ, công minh và đúng pháp luật sẽ giúp đạt được mục đích của hình phạt, qua đó giúp cho người bị kết án cải tạo, giáo dục tốt để trở thành người có ích cho xã hội, giúp nhà nước đạt được mục đích phòng người tội phạm.

Bình luận

Điểm mới của BLHS 2015 lần này so với BLHS 1999 là đã tách các quy định về quyết định hình phạt thành hai mục khác nhau bao gồm: mục thứ nhất là các quy định chung về quyết định hình phạt mang tính định hướng và là căn cứ cho việc quyết định hình phạt (được quy định từ điều 50 đến điều 53); mục thứ hai là các trường hợp quyết định hình phạt cụ thể (được quy định từ điều 54 đến điều 58).

Như vậy, đối với các trường hợp phạm tội thông thường, khi quyết định hình phạt,

(10)

Tòa án căn cứ vào các quy định và nguyên tắc chung trong bộ luật hình sự. Còn trong một số trường hợp đặc biệt, việc quyết định hình phạt còn phải tham khảo và dựa trên một số nguyên tắc bổ sung khác. Đó là các trường hợp: quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (điều 54), quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (điều 55), tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (điều 56), quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (điều 57) và quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (điều 58). Căn cứ bổ sung đối với mỗi trường hợp để ra quyết định hình phạt nêu trên là khác nhau, do đó, các mức hình phạt cũng sẽ khác nhau. Hành vi phạm tội của tội phạm nếu thuộc vào trường hợp nào sẽ bị xử lý theo mức của trường hợp đã quy định đó theo pháp luật hình sự.Các trường hợp quyết định hình phạt cụ thể như sau:

1. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (điều 54)

Theo quy định này, Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt trong ba trường hợp sau:

a. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Đối tượng được áp dụng trong trường hợp này là người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 điều 51. Ở đây, Tòa án phải dựa vào mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng tức là khung cụ thể chứ không phải là dựa vào mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định như cách mà BLHS 1999 đã quy định trước đây. Cách quy định mới này giúp cho việc hiểu và áp dụng trường hợp này trên thực tế được rõ ràng và chính xác hơn trong trường hợp điều luật quy định có nhiều khung hình phạt khác nhau.

Ngoài ra, người phạm tội để được quyết định hình phạt trong khung liền kề nhẹ hơn này phải là người có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ và hai tình tiết này phải là các tình tiết thuộc khoản 1 điều 51. Các tình tiết giảm nhẹ khác được Tòa án cân nhắc xem xét thêm để quyết định hình phạt theo khoản 2 điều 51 thì không được xem là căn cứ để quyết định hình phạt dưới ức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng trong trường hợp này.

b. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Đối tượng được áp dụng trong trường hợp này là người phạm tội phải là người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Đây là quy định hoàn toàn mới trong BLHS 2015, đem đến nhiều sự lựa chọn để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng của Tòa án. Quy định này cũng xuất phát từ những đòi hỏi về mặt lý luận cũng như yêu cầu của thực tiễn đời sống xã hội. Xét về phương diện lý luận, việc hạn chế giới hạn quyết định hình phạt dưới mức thấp

(11)

nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung liền kề nhẹ hơn gây ảnh hưởng không nhỏ đến nguyên tắc cá thể hóa hình phạt trong luật hình sự.

BLHS 1999 đã có một số tội danh mà không thể áp dụng khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khi quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung được10. Về nguyên tắc, loại và mức hình phạt do tòa án quyết định phải dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Xét về thực tiễn, có nhiều trường hợp đồng phạm, người giúp sức có vai trò thứ yếu trong vụ án nhưng khi khởi tố họ cũng vẫn bị khởi tố theo tội danh và theo khung hình phạt rất nặng cùng với những người đồng phạm khác cho nên dù được Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung nhưng vẫn bị giới hạn bởi khung hình phạt liền kề nhẹ hơn nên mức hình phạt cũng sẽ là quá nặng đối với mức độ tham gia của những người này trong vụ án. Chính vì vậy, trong trường hợp này, người phạm tội có thể sẽ được Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung được áp dụng mà không bị ràng buộc bởi điều kiện phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật. Điều này có nghĩa là người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể có thể sẽ được hưởng một hình phạt ở khung nhẹ hơn bất kỳ, thậm chí là khung nhẹ nhất với hình phạt nhẹ nhất của điều luật về tội danh cụ thể mà họ đã phạm nếu có đủ điều kiện để áp dụng. Tuy nhiên, quy định này còn có vấn đề cần được cân nhắc, xem xét bởi lẽ có những tội danh có nhiều khung hình phạt và khoảng cách giữa mức hình phạt thấp nhất của khung hình phạt mà người phạm tội phạm phải với mức thấp nhất của khung hình phạt thấp nhất của tội danh đó là rất rộng, điều đó tạo ra một giới hạn quá lớn trong hoạt động quyết định hình phạt của tòa án. Do vậy, vần đề này cần có một hướng dẫn bằng văn bản cụ thể để việc áp dụng hình phạt cụ thể được rõ ràng, tránh sự tùy tiện áp dụng khi mà Tòa án có quá nhiều sự lựa chọn khung hình phạt nhẹ hơn khung mà người phạm tội thực hiện để áp dụng và ấn định mức hình phạt.

c. Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn nếu điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất. Đối tượng được áp dụng trong trường hợp này bao gồm cả đối tượng được quy định ở khoản 1 và khoản 2 của điều luật này, đó là: người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 điều 51 và người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Như vậy, nếu người phạm tội phạm vào tội danh chỉ có một khung hình phạt duy nhất hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất của tội danh mà người đó phạm phải thì trong trường hợp này nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 3 điều 54, Tòa án sẽ có hai sự lựa chọn: một là quyết định một hình phạt cùng loại thấp hơn mức thấp nhất của khung đó, hai là quyết định một hình phạt khác loại nhẹ hơn.

10 Chẳng hạn các khung hình phạt tại khoản 3 và khoản 4 điều 112 của tội hiếp dâm trẻ em trong BLHS 1999

(12)

Ví dụ 1: A phạm tội cướp tài sản thuộc khoản 1 điều 168 BLHS với khung hình phạt từ 3 năm đến 10 năm. A có hai tình tiết giảm nhẹ thuộc khoản 1 điều 51 nên Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung tức là dưới 3 năm tù và không được thấp hơn mức thấp nhất của hình phạt tù là 3 tháng tù.

Ví dụ 2: B phạm tội giả mạo chức vụ, cấp bậc, vị trí công tác theo điều 339 BLHS với khung hình phạt duy nhất của tội này là phạt cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt tù từ 3 tháng đến 2 năm. A là người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nên Tòa án có thể quyết định một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn, cụ thể là hình phạt tiền.

Ngoài ra, theo nội dung của khoản 3 điều 54 có quy định: “Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án”. Với quy định này có thể hiểu là chỉ có trường hợp tại khoản 3 này mới ghi rõ lý do của việc giảm nhẹ trong bản án còn các trường hợp tại khoản 1 và khoản 2 điều 54 thì không nhất thiết phải ghi rõ trong bản án. Tuy nhiên, đây có thể là một hạn chế thuộc về kỹ thuật lập pháp. Đối chiếu quy định này tại điều 47 BLHS 1999 có thể thấy rằng, cụm từ “Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án” quy định ở cuối nội dung điều luật bao trùm cho tất cả các trường hợp giảm nhẹ, trong khi đó, điều 54 BLHS 2015 đã tách các trường hợp giảm nhẹ thành các khoản khác nhau và chỉ đưa cụm từ trên vào cuối khoản 3. Do vậy, nội dung của điều luật cần được hiểu theo hướng áp dụng cho cả ba trường hợp thuộc điều 54 BLHS 2015. Điều này cũng phù hợp với hướng dẫn tại điểm đ mục 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Quốc Hội11.

2. Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (điều 55)

Quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội là quyết định hình phạt trong trường hợp bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội thuộc nhiều loại tội phạm khác nhau mà các tội đó chưa được đưa ra xét xử, chưa hết thời hiệu truy cứu TNHS và bị đưa ra xét xử cùng một lần. Khi quyết định hình phạt đối với người phạm tội trong trường hợp này, Tòa án quyết định cho mỗi tội một hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung nếu có, sau đó Tòa án sẽ tổng hợp các hình phạt này theo quy định của BLHS. Khi quyết định hình phạt đối với từng tội, Tòa án phải tuân thủ các quy định đặc thù áp dụng riêng đối với trường hợp phạm nhiều tội.

Việc quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội phải tuân thủ theo nguyên tắc chung của quyết định hình phạt bao gồm: nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc nhân đạo, nguyên tắc cá thể hóa hình phạt, nguyên tắc công bằng và các nguyên tắc đặc thù bao gồm: nguyên tắc cộng toàn bộ, nguyên tắc cộng một phần, nguyên tắc thu hút và nguyên tắc cùng tồn tại.

Theo quy định tại điều 55 BLHS 2015, có hai trường hợp phạm nhiều tội:

11 “Lý do của việc quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của BLHS cần được ghi rõ trong bản án” (mục điểm đ mục 10 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 4/8/2000 của Quốc Hội)

(13)

- Thứ nhất, người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi cấu thành một tội phạm. Các hành vi này có thể liên quan đến nhau hoặc không liên quan với nhau.

- Thứ hai, người phạm tội chỉ có một hành vi phạm tội nhưng lại cấu thành nhiều tội phạm khác nhau.

Trên cơ sở bị cáo phạm nhiều tội thuộc hai trường hợp nói trên, Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với từng tội phạm cụ thể, sau đó tổng hợp các hình phạt của các tội thành hình phạt chung như sau:

a. Đối với hình phạt chính

- Các hình phạt cùng loại được cộng lại thành hình phạt chung theo nguyên tắc cộng toàn bộ bao gồm: phạt tiền, phạt cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn.

Nếu việc cộng toàn bộ vượt quá mức tối đa của hình phạt đó mà BLHS quy định, đó là hình phạt chung không được vượt quá 03 năm đối với hình phạt cải tạo không giam giữ, 30 năm đối với hình phạt tù có thời hạn, thì áp dụng nguyên tắc cộng một phần. Riêng hình phạt tiền không giới hạn mức tối đa nên luôn theo nguyên tắc cộng toàn bộ. Có thể thấy rằng, việc BLHS quy định giới hạn mức tối đa của việc tổng hợp các hình phạt cùng loại (bao gồm hình phạt tù có thời hạn, cải tạo không giam giữ) thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước, qua đó khuyến khích người phạm tội tích cực cải tạo tốt để có cơ hội hoàn lương. Đây cũng là một quy định cho thấy nét khác biệt về tổng hợp hình phạt của pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật một số nước trên thế giới khi chỉ theo nguyên tắc cộng toàn bộ mà không giới hạn mức tối đa.

- Các hình phạt khác loại được tổng hợp theo hai cách như sau:

+ Nếu có thể quy đổi được thì chuyển đổi sang hình phạt tù và tổng hợp hình phạt theo nguyên tắc cộng toàn bộ, cụ thể là: nếu các hình phạt đã tuyên là cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, thì hình phạt cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành hình phạt tù theo tỷ lệ cứ 03 ngày cải tạo không giam giữ được chuyển đổi thành 01 ngày tù và tổng hợp thành hình phạt chung theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 55.

+ Nếu không thể quy đổi được thì việc tổng hợp hình phạt dựa vào hình phạt nặng nhất trong số các hình phạt đã tuyên để quyết định hình phạt chung theo nguyên tắc thu hút vào hình phạt tù chung thân hoặc tử hình.

+ Nếu không thể quy đổi được và hình phạt đó không thu hút vào các hình phạt khác thì việc tổng hợp hình phạt sẽ theo nguyên tắc cùng tồn tại, đó là hình phạt tiền và hình phạt trục xuất.

b. Đối với hình phạt bổ sung

Tương tự như việc tổng hợp hình phạt chính, việc tổng hợp hình phạt bổ sung cũng theo các nguyên tắc nói trên và cũng phân chia thành trường hợp tổng hợp hình phạt cùng loại và trường hợp tổng hợp hình phạt khác loại. Đối với trường hợp tổng hợp hình phạt cùng loại, cách tổng hợp giống với hình phạt chính. Tuy

(14)

nhiên cần lưu ý là, đối với các hình phạt bổ sung, việc tổng hợp hình phạt không theo nguyên tắc thu hút bởi vì mỗi hình phạt bổ sung có thể được áp dụng đồng thời và áp dụng độc lập với các hình phạt khác loại. Do đó, đối với trường hợp tổng hợp hình phạt khác loại, nếu một bị cáo bị áp dụng đồng thời nhiều loại hình phạt bổ sung khác nhau, thì việc tổng hợp hình phạt bổ sung sẽ theo nguyên tắc cùng tồn tại, tức là người đó phải chấp hành tất cả các hình phạt bổ sung đã tuyên theo điểm b khoản 2 điều 55.

3. Tổng hợp hình phạt của nhiều bản án (điều 56)

Theo quy đinh tại Điều 56 BLHS năm 2015 về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án, có 03 trường hợp tổng hợp hình phạt của nhiều bản án sau:

- Trường hợp thứ nhất: “một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này”. Đối với trường hợp này cần xác định rằng người đang chấp hành một bản án là người đang có nghĩa vụ phải chấp hành một bản án đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm cả việc người đó đã bắt đầu việc chấp hành hình phạt của bản án đó nhưng chưa chấp hành xong và việc người đó chưa bắt đầu chấp hành hình phạt của bản án đã có hiệu lực pháp luật. Đồng thời, Tòa án ra quyết định hình phạt đối với tội đang xét xử sau đó tiến hành tổng hợp hình phạt của các bản án thành hình phạt chung. Thời hạn đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời gian chấp hành hình phạt chung. Đối với việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp hình phạt của bản án trước là cải tạo không giam giữ, của bản án sau là tù có thời hạn, Toà án sẽ quy đổi toàn bộ hình phạt cải tạo không giam giữ của bản án trước thành hình phạt tù theo tỉ lệ 3:1, sau đó trừ đi hình phạt tù đã được đổi từ cải tạo không giam giữ vào hình phạt tù chung. Việc quyết định hình phạt được tổng hợp do Hội đồng xét xử quyết định và được ghi trong bản án.

- Trường hợp thứ hai: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.” Trường hợp này, người phạm tội thể hiện tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp trước. Bởi vì, một người đang phải chấp hành một bản án, tức là đã được Nhà nước tỏ thái độ đối với hành vi phạm tội của họ nhưng họ đã không chịu cải tạo, giáo dục mà lại đi vào con đường phạm tội mới. Vì vậy, việc tổng hợp hình phạt trong trường hợp này phải thể hiện tính nghiêm khắc hơn đối với các trường hợp khác.

Việc tổng hợp sẽ được thực hiện như sau: Toà án quyết định hình phạt cho một hay các tội đang xét xử (trường hợp phạm nhiều tội mới), sau đó cộng hình phạt hay các hình phạt đã tuyên với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước. Hình

(15)

phạt chung không được vượt quá giới hạn được quy định tại Điều 55 BLHS 2015.

Tuy nhiên, có trường hợp nếu tính cả thời hạn hình phạt mà bị cáo đã chấp hành của bản án trước với hình phạt của bản án mới thì thời hạn hình phạt chung mà bị cáo thực tế phải chấp hành có thể trên 30 năm tù.

- Trường hợp thứ ba: “Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.” Quy định này có thể hiểu là: nếu một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp và các tội phạm được thực hiện khi chưa có bản án nào thì tổng hợp hình phạt theo khoản 1 điều 56, nếu một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của bản án chưa được tổng hợp và có tội phạm thực hiện sau khi có bản án về tội khác đã có hiệu lực pháp luật thì tổng hợp hình phạt theo khoản 2 điều 56.

Qua quy định tại Điều 56 BLHS về tổng hợp hình phạt của nhiều bản án có thể nhận thấy, quy định này có điểm giống với trường hợp phạm nhiều tội, đó là bị cáo đều phạm tội từ hai tội trở lên. Điểm khác biệt giữa hai trường hợp này ở chỗ:

trong trường hợp tổng hợp hình phạt theo quy định tại Điều 55, tất cả các tội đều bị đem ra xét xử một lần, Tòa án tuyên hình phạt đối với từng tội sau đó tổng hợp thành hình phạt chung; còn trong trường hợp tổng hợp của nhiều bản án quy định tại Điều 56, các tội đó được đưa ra xét xử ở các lần khác nhau, Tòa án sẽ phải tổng hợp hình phạt của các tội này dựa trên cơ sở các bản án khác nhau.

4. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (điều 57)

Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt chỉ đặt ra trong vụ án hình sự có hành vi phạm tội chưa hoàn thành vì lý do khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội. Việc quyết định hình phạt trong trường hợp này thường khó khăn hơn trường hợp tội phạm hoàn thành cho nên ngoài việc dựa trên các căn cứ quyết định hình phạt chung, cần phải dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt đặc thù của trường hợp này. Ngoài ra, quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt phải được tiến hành theo hướng giảm nhẹ so với trường hợp tội phạm hoàn thành. Theo khoản 1 điều 57, ngoài việc dựa vào các căn cứ quyết định hình phạt chung tại điều 50, hình phạt được quyết định đối với hành vi chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt đều phải dựa vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng. Cũng theo quy định tại điều 57 BLHS 2015, có hai trường hợp quyết định hình phạt như sau:

a. Quyết định hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội

(16)

BLHS 2015 đã có sự thu hẹp phạm vi chịu TNHS đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và quy định bổ sung một khung hình phạt riêng đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội vào một số tội danh cụ thể mà người chuẩn bị phạm các tội đó phải chịu TNHS về hành vi của mình. Cụ thể là đối với người chuẩn bị phạm tội là người từ đủ 16 tuổi trở lên thì họ chỉ phải chịu TNHS đối với 25 tội danh được quy định tại khoản 2 điều 14 BLHS 201512 và mức hình phạt cao nhất không quá 1/2

13mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng. Đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi thì họ chỉ phải chịu TNHS khi họ chuẩn bị phạm tội giết người (điều 123) và tội cướp tài sản (điều 168) theo quy định tại khoản 3 điều 14 BLHS 201514. Mức hình phạt cao nhất không quá 1/315 mức hình phạt được quy định trong khung hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội trong điều luật được áp dụng.

Về mức độ TNHS đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội: Mức hình phạt cụ thể đối với hành vi chuẩn bị phạm tội được ấn định ngay trong 25 tội danh ở khung hình phạt riêng đối với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và tất nhiên thấp hơn so với các khung hình phạt còn lại của chính tội danh đó và thấp hơn nhiều so với mức hình phạt áp dụng được quy định trong BLHS 1999. Điều này cho thấy sự phân hóa rõ nét mức độ TNHS giữa các giai đoạn thực hiện tội phạm thông qua các quy đinh trong BLHS 2015. Bên cạnh đó, qua nghiên cứu các điều luật có quy định khung hình phạt đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, có thể thấy được rằng, người chuẩn bị phạm tội chỉ bị áp dụng một trong hai loại hình phạt: cải tạo không giam giữ với thời hạn tối thiểu là 6 tháng và tối đa là 3 năm, hình phạt tù với thời hạn tối thiểu là 3 tháng và tối đa là 5 năm.

b. Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt

Phạm tội chưa đạt là giai đoạn của quá trình phạm tội gây ra mức độ nguy hiểm cho xã hội cao hơn giai đoạn chuẩn bị phạm tội và thấp hơn giai đoạn tội phạm hoàn thành, người phạm tội đã cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Việc quy định mức độ chịu TNHS ở giai đoạn phạm tội chưa đạt dựa theo mức phạt cao nhất của tội phạm. Theo đó, mức phạt được áp dụng bị giới hạn thấp hơn một tỷ lệ nhất định so với hình phạt nặng nhất hoặc so với mức cao nhất của khung hình phạt nặng nhất.

Cụ thể là, theo khoản 3 điều 57 có hai trường hợp:

Trường hợp thứ nhất, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng mức hình phạt tù không quá 20 năm.

Thể hiện xu hướng nhân đạo hóa hơn nữa, pháp luật hình sự Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết 49 của Đảng “Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, nhà

12 Xem khoản 2 điều 14 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 13 Xem thêm khoản 2 điều 102

14 Xem khoản 3 điều 14 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 15 Xem thêm khoản 3 điều 102

(17)

làm luật đã thay đổi cụm từ “chỉ có thể áp dụng hình phạt này” mang tính chất tùy nghi như quy định tại khoản 3 điều 52 BLHS 1999 trước đây thành cụm từ “thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm” mang tính cụ thể, rõ ràng hơn quy định tại khoản 3 điều 57 BLHS 201516. Như vậy là đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, không còn quy định mức hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình là hình phạt cao nhất nữa mà thay vào đó là mức hình phạt 20 năm tù. Với sự thay đổi này, BLHS 2015 đã cho thấy sự phân hóa TNHS giữa giai đoạn phạm tội chưa đạt với giai đoạn tội phạm hoàn thành thay vì BLHS 1999 trước đây quy định chưa có sự khác biệt về mức độ TNHS đối với giai đoạn phạm tội chưa đạt với giai đoạn tội phạm hoàn thành.

Trường hợp thứ hai, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định. So với giai đoạn chuẩn bị phạm tội, người thực hiện hành vi ở giai đoạn phạm tội chưa đạt có mức độ nguy hiểm và khả năng gây hậu quả thiệt hại cao hơn và gần với mức độ nguy hiểm và khả năng gây hậu quả thiệt hại của giai đoạn tội phạm hoàn thành. Chính vì vậy mức độ chịu TNHS cũng cao hơn so với giai đoạn chuẩn bị phạm tội và gần sát hơn với mức độ chịu TNHS của giai đoạn tội phạm hoàn thành được quy định ngay trong từng khung hình phạt của tội danh cụ thể.

Quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt tại điều 57 đã kế thừa quy định của BLHS 1999 và có những điểm mới bổ sung mang tính rõ ràng, cụ thể, qua đó thể hiện được đường lối xử lý nghiêm minh của pháp luật hình sự, chính sách phân hóa trách nhiệm hình sự và chính sách nhân đạo của pháp luật. Tuy vậy, quy định “không quá ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định” theo khoản 3 điều 57 còn cần phải được xem xét và làm rõ thêm. BLHS 2015 lại chưa quy định rõ: không quá ba phần tư (3/4) mức phạt tù là của mức phạt tù cao nhất hay mức phạt tù thấp nhất hay chia trung bình chung. Trong khi đó, cơ sở của việc xác định ¾ mức phạt tù mà điều luật quy định ở đây rõ ràng là dựa trên mức hình phạt tù đã được ấn định trong khung hình phạt có giới hạn từ mức thấp nhất đến mức cao nhất dành cho tội phạm hoàn thành. Do đó, việc xác định cụ thể mức phạt tù mà điều luật quy định là điều cần thiết, giúp bảo đảm các nguyên tắc công bằng và phân hóa trách nhiệm hình sự trong luật hình sự Việt Nam, giúp cho các quy định pháp luật có tính khả thi trong thực tiễn áp dụng.

5. Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (điều 58)

Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm là hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật của tòa án, trên cơ sở xác định tội danh, căn cứ vào tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với từng người đồng phạm, từ đó lựa chọn loại hình phạt, mức hình phạt phù hợp. Như vậy, ngoài việc dựa vào các căn cứ

16 Xem Lê Văn Cảm (2018), Nhận thức khoa học về phần chung pháp luật hình sự Việt Nam sau pháp điển hóa lần thứ ba, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, tr. 49

(18)

quyết định hình phạt ở điều 50 và tuân thủ các nguyên tắc xác định TNHS trong đồng phạm, Tòa án còn phải dựa vào các căn cứ khác được nêu tại điều 58 BLHS, đó là:

- Dựa vào tính chất của đồng phạm: giữa các trường hợp đồng phạm cũng có sự khác nhau về số lượng người tham gia thực hiện tội phạm, về hình thức đồng phạm hay về các dấu hiệu thuộc mặt chủ quan của tội phạm. Sự khác nhau đó cho thấy khả năng thực hiện tội phạm cao hơn, thuận lợi hơn so của trường hợp này so với trường hợp khác, qua đó việc xác định TNHS và quyết định hình phạt của những người đồng phạm chính xác hơn.

- Dựa vào tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm: tính chất hành vi của những người tham gia thực hiện tội phạm có thể khác nhau, mức độ đóng góp của họ đối với việc thực hiện tội phạm chung có thể khác nhau, các trường hợp đồng phạm khác nhau có thể khác nhau về tính chất nguy hiểm cho xã hội. Rõ ràng là nếu chỉ phân hóa TNHS của những người đồng phạm theo tính chất hành vi của họ thì vẫn chưa thể đánh giá đúng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực hiện vì có thể tham gia thực hiện tội phạm với cùng một vai trò nhất định nhưng mức độ đóng góp của mỗi người lại khác nhau. Vì vậy, việc xác định TNHS và quyết định hình phạt còn phải thông qua mức độ tham gia thực hiện tội phạm chung, tuân theo nguyên tắc xử lý TNHS của mỗi người trong đồng phạm, đó là phải tương xứng với mức độ đóng góp, mức độ tham gia thực hiện tội phạm chung của họ.

- Dựa vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS hoặc loại trừ TNHS thuộc loại người đồng phạm. Đây cũng là một trong các căn cứ để quyết định hình phạt nói chung áp dụng cho tất cả những người trong đồng phạm nếu họ có chung tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ, nhưng cũng là căn cứ áp dụng riêng cho từng người đồng phạm nếu chỉ người đó có. Các tình tiết đó thuộc về nhân thân người phạm tội hoặc có liên quan đến cá nhân từng người đồng phạm như: chưa đủ 18 tuổi, phạm tội lần đầu, phạm tội vì động cơ đê hèn, phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra, phạm tội khi đang có thai…

So với BLHS 1999, quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm trong BLHS 2015 không có sự thay đổi nào. Tuy vậy vấn đề quyết định hình phạt đối với đồng phạm không phải chỉ dựa vào điều 50 và điều 58 của BLHS mà còn dựa vào các quy định khác thuộc phần chung và phần các tội phạm cụ thể mà nội dung của một số các quy định này cũng có sự thay đổi đáng kể. Chẳng hạn như khẳng định đường lối nghiêm trị đối với những người tổ chức ở điều 3 về nguyên tắc xử lý tội phạm; quy định các khung hình phạt cụ thể ở một số tội danh dựa vào vai trò và mức độ thực hiện hành vi phạm tội trong đồng phạm của chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy hay những người đồng phạm khác ở các điều 109, 111, 112, 118; tách riêng hành vi tổ chức để xử lý theo một tội danh riêng ở các điều 120, 255, 265, 322…

(19)

III. Miễn hình phạt (điều 59)

Miễn hình phạt là một chế định mang tính chất nhân đạo đã được quy định trong các BLHS trước đây. Cũng giống như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt chỉ đặt ra cho những trường hợp nếu như việc truy cứu TNHS hay áp dụng hình phạt đối với họ là không cần thiết, không đạt được mục đích của hình phạt hoặc trái với nguyên tắc nhân đạo của luật hình sự Việt Nam.

Bình luận

Miễn hình phạt là việc Tòa án không buộc người phạm tội phải chịu biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Về lý luận thì hình phạt là hậu quả pháp lý của tội phạm, luôn gắn liền với tội phạm. Do đó, với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm thì việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước là điều không tránh khỏi.

Nhưng trong thực tế, có những trường hợp phạm tội, nếu Tòa án áp dụng hình phạt đối với họ sẽ không đạt mục đích của hình phạt và như vậy việc áp dụng hình phạt đối với những trường hợp này là không cần thiết. Điều 59 BLHS 2015 quy định người phạm tội có thể được Tòa án miễn hình phạt nếu người này thỏa mãn 03 điều kiện sau:

- Thứ nhất, người phạm tội phải thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS 2015. Theo quy định này, người phạm tội phải vừa thuộc khoản 1 vừa thuộc khoản 2 Điều 54 BLHS 2015, tức là người phạm tội phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ ở khoản 1 điều 51 và là người phạm tội lần đầu với tư cách là người giúp sức trong đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

- Thứ hai, người phạm tội đáng được khoan hồng đặc biệt. Quy định này có thể được hiểu là trước khi Toà án quyết định hình phạt đối với người phạm tội thì phải xem xét đến tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm; các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; mức độ hậu quả xảy ra; nhân thân người phạm tội,…để xem xét người phạm tội có đáng được khoan hồng đặc biệt hay không. Toà án chỉ miễn hình phạt cho người phạm tội trong trường hợp họ phạm tội ít nghiêm trọng, chưa gây hậu quả hoặc gây hậu quả không đáng kể hay hậu quả đã được khắc phục hoàn toàn; trong vụ án đồng phạm thì bị cáo là người tham gia không đáng kể vào việc thực hiện tội phạm; bị cáo có nhân thân tốt, có khả năng tự cải tạo, giáo dục mà không cần áp dụng hình phạt.

- Thứ ba, người phạm tội có thể được miễn hình phạt nhưng chưa đến mức miễn TNHS. Điều này có nghĩa là bị cáo có đầy đủ các điều kiện để miễn hình

Referensi

Dokumen terkait

ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU Vlog là một hiện tượng còn khá mới mẻ và sự tác động của Vlog tới giới trẻ rất khó để xác định cụ thể nên trong việc thực hiện đề tài này, tôi không có