THỰC TRẠNG HÀNH VI VI PHẠM AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ THAM GIA GIAO THÔNG
Nguyễn Thị Bích Liên1, Nguyễn Thu Hà1, Trần Văn Đại1, Nguyễn Thị Thắm1, Trần Thanh Hương2
TÓM TẮT20
Nghiên cứu mô tả cắt ngang nhằm mô tả thực trạng hành hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ của nhân viên y tế tham gia giao thông được tiến hành trên 105 nhân viên y tế tham gia giao thông hàng ngày có tuổi trung bình 34,9±8,9 tuổi và số năm lái xe trung bình 13,5±6,9.
Kết quả nghiên cứu cho thấy: Trong 1 năm gần đây 65,7% các đối tượng nghiên cứu trả lời có hành vi vi phạm ATGT. Lỗi thường vi phạm cao nhất là vượt đèn đỏ 71,0%, sau đó đến đi sai làn là 36,2%; nghe và gọi điện thoại khi đang lái xe. Lỗi vi phạm ít nhất là chở vượt số người qui định (4,3%) và các lỗi khác (2,9%). Lí do vi phạm an toàn giao thông được nêu ra ở những người tham gia nghiên cứu: cao nhất là do đang vội (79,7%); tiếp đến là không chú ý (60,9%); do tắc đường (43,5%); thấp nhất do chất lượng xe (11,6%) và các yếu tố khác (1,4%). Những người đã từng bị tai nạn giao thông có hành vi vi phạm ATGT gấp 3,2 lần những người không có hành vi vi phạm ATGT (p<0,01; 95%CI: 1,4-7,4).
Từ khóa: Vi phạm an toàn giao thông, tham gia giao thông, nhân viên y tế
1Viện Sức khỏe nghề nghiệp và môi trường
2Bệnh viện trung ương quân đội 108
Chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Thị Bích Liên Email: [email protected]
Ngày nhận bài: 22/3/2022
Ngày phản biện khoa học: 08/4/2022 Ngày duyệt bài: 15/4/2022
SUMMARY
ACTUAL SITUATION OF VIOLATIONS OF ROAD TRAFFIC
SAFETY OF MEDICAL STAFF PARTICIPATING IN TRAFFIC A cross-sectional descriptive study to describe the current status of road traffic safety violations of medical staff participating in traffic was conducted on 105 medical staff participating in traffic daily with average age. 34.9±8.9 years old and average driving years 13.5±6.9 years.
Research results show that: In the last 1 year, 65.7% of research subjects responded that they had committed traffic safety violations. The most common violation is running a red light at 71.0%, then going in the wrong lane is 36.2%;
make and receive phone calls while driving. The least violation is carrying over the specified number of people (4.3%) and other errors (2.9%).
The reason for traffic safety violations was stated in the study participants: the highest was due to being in a hurry (79.7%); followed by not paying attention (60.9%); due to traffic jam (43.5%);
lowest due to vehicle quality (11.6%) and other factors (1.4%). Those who have experienced traffic accidents have traffic safety violations 3.2 times more than those who have no traffic safety violations (p<0.01; 95%CI: 1.4-7.4).
Key words: traffic safety violations, traffic participants, medical staff
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong nhiều năm qua, tai nạn giao thông (TNGT) vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong do tai nạn thương tích (TNTT) tại Việt Nam. Nghiên cứu của Trần Thị Bích Thủy cho thấy giai đoạn 2015-2017 trung bình mỗi năm cả nước có 15.403 trường hợp tử vong do TNGT chiếm 34,28% tổng số trường hợp tử vong do TNTT. Nhóm tuổi 20-59 là nhóm tuổi có số trường hợp tử vong do TNGT cao nhất với 11.180 trường hợp (tỉ suất 21 người/100.000 dân) [5]. Mỗi năm bệnh viện cấp cứu trên 30,000 trường hợp tai nạn thương tích, tai nạn giao thông chiếm đa số (60%). Năm 2015 bệnh viện đã khám và cấp cứu 15.468 trường hợp tai nạn giao thông, chiếm 51,7% tổng số trường hợp tai nạn thương tích. Các trường hợp tử vong và nặng xin về có 1.360 trường hợp, tử vong tại viện là 145 trường hợp, chiếm 11,9% [2].
Nguyên nhân gây tai nạn giao thông chủ yếu là do ý thức chấp hành luật giao thông của phần lớn mọi người khi tham gia giao thông. Tình hình vi phạm pháp luật về an toàn giao thông, tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông ở Việt Nam, đặc biệt ở các đô thị lớn của Việt Nam mặc dù đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn còn nghiêm trọng và trở thành một vấn đề lớn của xã hội. Theo kết quả phân tích nguyên nhân gây TNGT của 13.713 vụ năm 2010 thì 70,3% là do người điều khiển phương tiện trong đó: đi sai phần đường chiếm 18,1%; tránh vượt sai quy định chiếm 16,4%; vi phạm tốc độ chiếm 19,1%; chuyển hướng không quan sát chiếm 16,8%.[1]
Nhân viên y tế là một trong những đối tượng có nguy cơ stress cao (do thời gian làm việc kéo dài, trực đêm, nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm cao,…) đặc biệt là ở các nhân viên y tế thuộc các bệnh viện tuyến
trung ương (do sự quá tải trong công việc, cường độ làm việc lớn, trách nhiệm cao trước tính mạng bệnh nhân, phải xử lý tình huống nhanh chóng,…) [3]. Vậy dưới áp lực công việc thì nhân viên y tế khi tham gia giao thông sẽ như thế nào? Do đó, mô tả thực trạng hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ của nhân viên y tế tham gia giao thông là cần thiết.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả thực trạng hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ của nhân viên y tế tham gia giao thông
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng
105 nhân viên y tế làm việc trong các đơn vị sự nghiệp tham gia giao thông hàng ngày.
- Địa điểm:
+ Bệnh viện Nhi trung ương: 18/879 đường La Thành, Láng Thượng, Đống Đa, Hà Nội
+ Trung tâm y tế dự phòng Bắc Ninh:
Nguyễn Quyền, Phường Võ Cường, thành phố Bắc Ninh, Bắc Ninh
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
2.2.2. Phương pháp thu thập số liệu - Nhân viên y tế tự trả lời vào bộ câu hỏi có sẵn
- Mô tả một số hành vi vi phạm an toàn giao thông: Sử dụng bộ câu hỏi báo cáo hành vi của người tham gia giao thông DBQ – Driver Behaviour Questionnair có chỉnh sửa.
Bộ câu hỏi gồm 27 câu, mỗi câu hỏi người trả lời được yêu cầu cho biết mức độ thường xuyên có hành vi vi phạm và sai sót khi lái xe.
2.2.3. Xử lý số liệu: bằng phần mềm SPSS16.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 3.1. Đặc điểm chung
Bảng 1: Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (n=105)
Các đặc điểm Hà Nội
(n=55)
Bắc Ninh
(n=50) Chung
Tuổi 34,6±8,6 35,3±9,2 34,9±8,9
Giới Nam 4 7,3 21 42,0 25 23,8
Nữ 51 92,7 29 58,0 80 76,2
Phương tiện Ô tô 2 3,6 9 18,0 11 10,5
Xe máy 53 96,4 41 82,0 94 89,5
Số năm lái xe 12,6±6,1 14,5±7,6 13,5±6,9
Kết quả bảng 1 cho thấy tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 34,9 tuổi. Trong đó ở Hà Nội tuổi trung bình là 34,6 và Bắc Ninh là 35,3. Giới chiếm phần lớn là Nữ (76,2%): ở Hà Nội là 92,7%; Bắc Ninh 58,0%. Phương tiện chủ yếu là xe máy 89,5%; ô tô chiếm tỷ lệ rất thấp 10,5%. Số năm lái xe trung bình là 13,5 năm. Chưa thấy sự khác biệt giữa Hà Nội và Bắc Ninh có ý nghĩa thống kê.
3.2. Thực trạng hành vi vi phạm an toàn giao thông đường bộ của nhân viên y tế tham gia giao thông
Bảng 2: Hành vi vi phạm ATGT trong 1 năm gần đây (n=105)
Vi phạm an toàn GTĐB 1 năm gần đây n %
Có hành vi vi phạm ATGT 69 65,7
Không có hành vi vi phạm ATGT 36 34,3
Tổng 105 100
Trong 1 năm gần đây 65,7% các đối tượng nghiên cứu trả lời có hành vi vi phạm ATGT và có 34,3% không có hành vi vi phạm ATGT.
Bảng 3: Các lỗi thường vi phạm
Các lỗi thường vi phạm n %
Vượt quá tốc độ 7 10,1
Vượt đèn đỏ 49 71,0
Đi sai làn 25 36,2
Đè vạch 13 18,8
Dừng xe sai quy định 8 11,6
Chở vượt số người quy định 3 4,3
Nghe và gọi điện thoại khi đang lái xe 14 20,3
Không đội mũ bảo hiểm 8 11,6
Khác: 2 2,9
Trong số những người từng vi phạm luật GTĐB thì lỗi thường vi phạm cao nhất là vượt đèn đỏ 71,0%, sau đó đến đi sai làn là 36,2% và nghe và gọi điện thoại khi đang lái xe. Lỗi vi phạm ít nhất là chở vượt số người qui định (4,3%) và các lỗi khác (2,9%).
Bảng 4: Lí do vi phạm an toàn giao thông
Lý do vi phạm n %
Do không biết luật 21 30,4
Sử dụng rượu, bia, chất kích thích trước khi lái xe 9 13,0
Đang vội 55 79,7
Căng thẳng, mệt mỏi 22 31,9
Tắc đường 30 43,5
Chất lượng xe 8 11,6
Chất lượng đường 14 20,3
Thói quen 27 39,1
Không chú ý 42 60,9
Các yếu tố khác 1 1,4
Lí do vi phạm an toàn giao thông được nêu ra ở những người tham gia nghiên cứu: cao nhất là do đang vội (79,7%); tiếp đến là không chú ý (60,9%) và do tắc đường (43,5%) và thấp nhất do chất lượng xe (11,6%) và các yếu tố khác (1,4%).
Bảng 5: Tình hình tai nạn giao thông của đối tượng nghiên cứu (n=105) Tình hình tai
nạn
Có hành vi vi phạm ATGT
Không hành vi vi
phạm ATGT X 2 p OR 95%CI
Có 51 73,9 17 47,2
7,4 <0,01 3,2 1,4-7,4
Không 18 26,1 19 52,8
Có thể thấy trong số những người tham gia nghiên cứu thì có 73,9% người có hành vi vi phạm ATGT đã từng gặp tai nạn giao thông (không kể tai nạn lớn hay nhỏ) và 26,1% người có hành vi vi phạm ATGT chưa gặp tai nạn giao thông. Những người từng bị tai nạn giao thông có hành vi vi phạm ATGT gấp 3,2 lần những người khác (p<0,01;
95%CI: 1,4-7,4). Những người có hành vi vi phạm ATGT đã bị tai nạn giao thông gấp 3,2 lần những người không có hành vi vi phạm ATGT (p<0,01; 95%CI: 1,4-7,4).
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu cho thấy về hành vi vi phạm giao thông có hơn 65% vi phạm, kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Dandona R 59,9% lái xe báo cáo có hành vi phạm luật giao thông ít nhất một lần trong vòng 3 tháng qua [6]. Kết quả này cũng cao hơn trog nghiên cứu của Phan Thị Thúy Chinh 50,9%
đối tượng đã từng bị cảnh sát giao thông nhắc nhở/xử phạt do vi phạm luật giao thông đường bộ [4]. Trong số những người từng vi phạm luật GTĐB thì lỗi thường vi phạm cao nhất là vượt đèn đỏ 71,0%, dựa trên những
thống kê về xử lý vi phạm ở Sở Công an Hà Nội, các vi phạm chủ yếu ở Hà Nội như sau:
Chạy quá tốc độ, đi sai làn, vượt ẩu, quá tải (Chở hàng), quá số người quy định (Chở khách), uống rượu bia khi lái xe, không có GPLX, phương tiện chất lượng kém, phương tiện không đăng ký [6]. Trong nghiên cứu của Phan Thị Thúy Chinh: Lỗi vi phạm chính là lỗi đi sai làn đường chiếm 46,8%; sau đó là lỗi không đội mũ bảo hiểm (18,9%) [4]. Lí do vi phạm an toàn giao thông được nêu ra ở những người tham gia nghiên cứu: cao nhất là do đang vội (79,7%), thấp nhất do chất lượng xe (11,6). Theo nghiên cứu Iversen H một số nguyên nhân dẫn đến vi phạm pháp luật về giao thông đường bộ điển hình như:
không hiểu rõ luật; ý thức tự giác chưa cao;
việc thực hiện luật giao thông về ATGT chưa đầy đủ, kịp thời, đúng đối tượng; tiết kiệm thời gian do việc gấp; thói quen; cố tình vi phạm pháp luật về ATGT (coi thường, nhờn luật); hệ thống giao thông chưa hợp lý; chế tài xử phạt chưa đủ sức răn đe, giáo dục, việc thực thi pháp luật chưa nghiêm (cưỡng chế, xử phạt vi phạm),…[7]. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy những hành vi không tuân thủ Luật giao thông đường bộ của người điều khiển phương tiện giao thông là nguyên nhân đầu tiên được nhắc đến trong các nguyên nhân gây tai nạn GTĐB và kết quả này cũng thống nhất với các nghiên cứu trước đó [1].
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu trên 105 nhân viên y tế tham gia giao thông hàng ngày.
- Trong 1 năm gần đây 65,7% các đối tượng nghiên cứu trả lời có hành vi vi phạm ATGT.
- Lỗi thường vi phạm cao nhất là vượt đèn đỏ 71,0%, sau đó đến đi sai làn là 36,2% và nghe và gọi điện thoại khi đang lái xe. Lỗi vi phạm ít nhất là chở vượt số người qui định (4,3%) và các lỗi khác (2,9%).
- Lí do vi phạm an toàn giao thông được nêu ra ở những người tham gia nghiên cứu:
cao nhất là do đang vội (79,7%); tiếp đến là không chú ý (60,9%) và do tắc đường (43,5%) và thấp nhất do chất lượng xe (11,6%) và các yếu tố khác (1,4%).
- Những người đã từng bị tai nạn giao thông có hành vi vi phạm ATGT gấp 3,2 lần những người không có hành vi vi phạm ATGT (p<0,01; 95%CI: 1,4-7,4).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giao thông vận tải (2011), Tình hình trật tự ATGT đường bộ năm 2010, những nguyên nhân và một số kiến nghị.
http://mt.gov.vn/matgt/tin-tuc/988/29744/tinh- hinh-trat-tu-atgt-duong-bo-nam-2010—
nhung-nguyen-nhan-va-mot-so-kien- nghi.aspx
2. Nguyễn Đức Chính, Trịnh Hồng Sơn, Ngô Thị Huệ, Lương Mai Anh, Phạm Xuân Thành, Nguyễn Thị Thu Huyền (2016).
Nâng cao chất lượng báo cáo số liệu tai nạn giao thông từ bệnh viện. Tạp chí y học dự phòng Tập XXVI, số 11 (184) 2016.
http://www.tapchiyhocduphong.vn/tap-chi-y- hoc-du-phong/2016/11/nang-cao-chat-luong- bao-cao-so-lieu-tai-nan-giao-thong-tu-benh- vien-o81E204A4.html
3. Nguyễn Thu Hà, Tạ Tuyết Bình, Nguyễn Khắc Hải (2005). Điều tra stress nghề nghiệp ở nhân viên y tế. Báo cáo khoa học toàn văn – Hội nghị quốc tế Y học lao động và Vệ sinh môi trường lần thứ 2.
4. Phan Thị Thúy Chinh (2012), Kiến thức, thái độ, thực hành và một số yếu tố liên quan đến phòng tránh tai nạn giao thông đường bộ ở thanh niên thị trấn Chúc Sơn-Chương Mỹ-Hà Nội, năm 2011. Luận văn Thạc sĩ YTCC, Đại học y tế công cộng, Hà Nội.
5. Trần Thị Bích Thuỷ*, Nguyễn Thị Liên Hương, Lương Mai Anh, Đỗ Thị Điệp, Nguyễn Thị Thu Huyền (2019). Nghiên cứu thực trạng tử vong do tai nạn giao thông được ghi nhận tại trạm y tế của 63 tỉnh/thành phố giai đoạn 2015-2017. Tạp chí y học dự phòng
Tập 29, số 8 2019.
http://www.tapchiyhocduphong.vn/tap-chi-y- hoc-du-phong/2019/08/nghien-cuu-thuc-
trang-tu-vong-do-tai-nan-giao-thong-duoc- ghi-nhan-tai-tram-y-te—o81E20838.html 6. Dandona R, Kumar GA, Dandona L (2006).
Risky behavior of drivers of motorized two wheeled vehicles in India. J Safety Res. 2006;37(2):149-58. Epub 2006 May 2.
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/166477 20
7. Iversen H, Rundmo T (2004). Attitudes towards traffic safety, driving behaviour and accident involvement among the Norwegian public. Ergonomics. 2004 Apr 15;47(5):555- 72.
http://www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/152043 03.