• Tidak ada hasil yang ditemukan

thực trang tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "thực trang tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện"

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

THỰC TRANG TUÂN THỦ QUY TRÌNH THÁO BỎ PHƯƠNG TIỆN PHÒNG HỘ CỦA NHÂN VIÊN Y TẾ TRONG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH

MẮC COVID- 19 TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA ĐỨC GIANG NĂM 2022

Lương Thị Thùy Dương*, Chu Thị Huyền*

TÓM TẮT7

Mục tiêu: Mô tả thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của nhân viên y tế trong chăm sóc người bệnh COVID- 19 và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang năm 2022. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, trên toàn bộ 176 nhân viên y tế với 521 lượt quan sát và thỏa mãn tiêu chí lựa chọn, tiến hành từ tháng 01 – 3/2022 tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang. Kết quả: Tỷ lệ nhân viên y tế tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân là 72%. Một số yếu tố như giới tính, chức danh và vị trí làm việc có mối liên quan đến tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân của nhân viên y tế chăm sóc người bệnh COVID- 19 (p<0,05). Kết luận: Tỷ lệ tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân của nhân viên y tế trong chăm sóc người bệnh COVID- 19 tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang ở mức khá cao. Bệnh viện tiếp tục duy trì việc giám sát, đánh giá nhằm nâng cao tỷ lệ tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân, qua đó góp phần ngăn chặn lây nhiễm dịch bệnh COVID- 19.

Từ khóa: Tuân thủ quy trình, tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân, COVID-19.

*Bệnh viện đa khoa Đức Giang

Chịu trách nhiệm chính: Lương Thị Thùy Dương Email: [email protected] Ngày nhận bài: 27.4.2022

Ngày phản biện khoa học: 30.4.2022 Ngày duyệt bài: 6.5.2022

SUMMARY

PRACTICAL COMPLIANCE WITH THE PROCEDURES FOR REMOVAL

OF PROTECTIVE MEDIA OF MEDICAL EMPLOYEES IN CARE OF

PERSONS WITH COVID- 19 AT DUC GIANG UNIVERSITY HOSPITAL IN 2022

Objectives: Describe the status of compliance with the process of removing protective equipment by medical staff in caring for Covid- 19 patients and some related factors at Duc Giang General Hospital in 2022. Subjects and methods: A cross-sectional description, on all 176 medical staff with 521 observations and satisfying the selection criteria, conducted from January to March 2022 at Duc Giang General Hospital. Results: The percentage of healthcare workers who followed the removal of personal protective equipment was 72%. Some factors such as gender, job title and working position are related to the compliance with the procedure of removing personal protective equipment of medical staff taking care of patients with COVID- 19 (p<0.05). Conclusion: The compliance rate of medical staff with the process of removing personal protective equipment in the care for COVID- 19 patients at Duc Giang General Hospital is quite high. The hospital continues to maintain monitoring and evaluation in order to improve the compliance rate with the removal of personal protective equipment, thereby contributing to preventing the spread of COVID- 19.

Key words: Follow the procedure, remove personal protective equipment, COVID- 19.

(2)

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân (PHCN) là biện pháp thiết yếu để bảo vệ nhân viên y tế (NVYT), người bệnh (NB) và người nhà (NB) trước nguy cơ lây nhiễm khi tiếp xúc với máu, dịch tiết và giọt hô hấp chứa các tác nhân gây bệnh truyền nhiễm khi tiếp xúc gần với người bệnh. Trong bối cảnh dịch COVID- 19 hiện nay, việc sử dụng phương tiện PHCN đúng theo hướng dẫn đặc biệt là việc tháo bỏ phương tiện PHCN sau khi tiếp xúc NB nhiễm COVID- 19 là một trong các biện pháp quan trọng để ngăn chặn nguồn lây trong phòng ngừa lây nhiễm SARS-COV-2 cho NVYT, NB và cộng đồng [1], [2]. Bệnh viện đa khoa Đức Giang là Bệnh viện tuyến cuối tiếp nhận, điều trị người bệnh COVID- 19 (có triệu chứng nặng và nguy kịch) của Thành phố Hà Nội [6].

Tính đến tháng 2/2022, Bệnh viện đã tiếp nhận điều trị cho hơn 3.300 người bệnh là các trường hợp nhiễm COVID- 19, người bệnh F1. NVYT trước khi nhận nhiệm vụ

vào khu vực điều trị được bệnh viện tập huấn đầy đủ các kiến thức ngăn ngừa lây nhiễm, cung cấp đầy đủ các trang thiết bị phục vụ

chăm sóc người bệnh và phải tuyệt đối tuân thủ phương tiện phòng hộ khi tiếp xúc với người bệnh. Bệnh viện đã xây dựng các quy trình kiểm tra, giám sát từ trực tiếp đến gián tiếp đặc biệt quan tâm tại khu vực tháo bỏ trang phục phòng hộ [4]. Nhằm đánh giá việc thực hiện quy trình tháo bỏ phòng hộ của NVYT đang ở mức độ nào và có sao sót ở đâu?. Qua đó, bệnh viện có những biện pháp can thiệp kịp thời, chúng tôi thực hiện đề tài:

“Thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của nhân viên y tế trong chăm sóc người bệnh COVID- 19 tại bệnh viện đa khoa Đức Giang năm 2022”.

Với 2 mục tiêu:

- Mô tả thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của nhân viên y tế trong chăm sóc người bệnh COVID- 19 tại bệnh viện đa khoa Đức Giang năm 2022.

- Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của nhân viên y tế trong chăm sóc người bệnh COVID- 19.

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Đối tượng nghiên cứu

Nhân viên y tế làm việc tại khu điều trị COVID- 19, bệnh viện đa khoa Đức Giang

2.2. Thời gian, địa điểm nghiên cứu Nghiên cứu được tiến hành: Từ tháng 01 đến tháng 03 năm 2022 tại khu điều trị COVID -19 bệnh viện đa khoa Đức Giang.

2.3. Thiết kế nghiên cứu Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu Với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, chúng tôi đưa vào 176 nhân viên y tế với 521 lượt quan sát đạt tiêu chuẩn nghiên cứu trên nhóm đối tượng.

2.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu

Bảng công cụ thu thập số liệu đo lường tuân thủ quy trình tháo bỏ trang phục phòng hộ của NVYT được xây dựng dựa trên Quyết định số 4159/QĐ-BYT [3], gồm 10 bước, mỗi bước chia làm hai mức độ “ tuân thủ” và

“không tuân thủ” đang được áp dụng thực hiện tại Bệnh viện đa khoa Đức Giang.

Thu thập số liệu được thực hiện thông qua camera đã được gắn cố định tại khu vực tháo bỏ trang phục bảo hộ của nhân viên y tế.

2.6. Xử lý và phân tích số liệu

- Số liệu định lượng sau khi thu thập được tổng hợp sẽ được nhập liệu bằng phần mềm:

Epidata 3.1 và phân tích bởi phần mềm SPSS 25.0.

(3)

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu Bảng 1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

TT Đặc điểm Đặc điểm Số lượng (n =521) Tỷ lệ (%)

1. Giới Nam 263 50,5

Nữ 258 49,5

2. Tuổi ≤ 30 230 44,1

> 30 291 55,9

3. Chức danh

Bác sỹ 100 19,2

Điều dưỡng 392 75,2

Đối tượng khác 29 5,6

4. Trình độ

Phổ thông trung học 28 5,4

Trung cấp, Cao đẳng 320 61,4

Đại học, trên đại học 173 33,3

5. Làm việc tại

C1 (Nhà F) 74 14,2

C2 131 25,1

C3 101 19,4

C4 58 11,1

C5 79 15,2

C6 78 15,0

Nhận xét: Khi quan sát trên 521 lượt nhân viên y tế thực hiện quy trình tháo phương tiện PHCN kết quả cho thấy: tỷ lệ nam giới thực hiện là 50,5%; tuổi ≤ 30 là 44,1%; 3/4 lượt điều dưỡng (75,2%) thực hiện quy trình tháo bảo phương tiện phòng hộ là điều dưỡng. Về trình độ học vấn có khoảng 2/3 là có trình độ trung học và cao đẳng chiếm 61,4%. Số lượt quan sát tại vị trí làm việc của C2 khoảng 1/4 chiếm 25,1% còn lại chia đều tại các khu vực khác.

3.2. Thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của NVYT Bảng 2. Quá trình thực hành các bước trong quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ

TT Đặc điểm Tuân thủ Chưa tuân

thủ

n % n %

Bước 1 Tháo găng. Khi tháo cuộn mặt trong găng ra

ngoài, bở vào thùng đựng chất thải 502 96.4 19 3.6

Bước 2 Vệ sinh tay lần 1 509 97.7 12 2.3

Bước 3 Tháo kính bảo hộ (loại dây đeo ngoài mũ)

hoặc tấm che mặt. 515 98.8 6 1.2

Bước 4 Vệ sinh tay lần 2 498 95.6 23 4.4

Bước 5 Tháo bỏ mũ, áo, quần, tháo kính (loại gọng 479 91.9 42 8.1

(4)

cài trong mũ). Khi tháo để mặt trong của trang phục lộn ra ngoài và loại bỏ vào thùng

gom chất thải

Bước 6 Vệ sinh tay lần 3 491 94.2 30 5,8

Bước 7 Tháo bao giầy, lộn mặt trong ra ngoài và bỏ

vào thùng chất thải 516 99.0 5 1.0

Bước 8 Vệ sinh tay lần 4 508 97.5 13 2.5

Bước 9 Tháo khẩu trang (cầm vào phần dây đeo

phía sau đầu hoặc sau tai) 502 96.4 19 3.6

Bước 10 Vệ sinh tay lần 5 456 87.5 65 12.5

Nhận xét: Trong quá trình thực hành các bước trong quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ thì tỷ lệ nhân viên y tế tuân thủ tốt nhất là tại bước 3: Tháo kính bảo hộ (loại dây đeo ngoài mũ) hoặc tấm che mặt với tỷ lệ là 98,9% và bước 10: tuân thủ quy trình vệ sinh tay sau khi tháo bỏ toàn bộ phương tiện là thấp nhất 87,5%.

Biểu đồ 1. Tỷ lệ tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân Tỷ lệ nhân viên y tế tuân thu quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân là 72%.

Bảng 3. Một số lỗi khác thường gặp

TT Đặc điểm Tuân thủ Chưa tuân thủ

n % n %

1. Không thay khẩu trang mới 496 95,2 25 4,6

2. Không đội mũ kính khi điều trị 516 96,9 16 3,1

3. Không mang kính đi xử lý 504 96,7 17 3,3

4. Không đóng nắp thùng rác 494 95,2 27 5,2

5. Không cởi bộ bảo hộ khi đi

qua khu vực QĐ cởi 516 99,0 5 1,0

Nhận xét: Một số lỗi thường gặp khác trong quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân là NVYT không đóng nắp thùng rác 5,2%; Không thay khẩu trang mới là 4,6%; không cởi bộ bảo hộ khi đi qua khu vực cởi theo quy định là 1,0%.

(5)

3.3. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ quy trình tháo bảo phương tiện PHCN Bảng 4. Mối liên quan giữa Đặc điểm chung với Tuân thủ quy trình

Các đặc điểm

Tuân thủ quy trình n

(%) OR 95% độ tin

cậy Cl p*

Không

Giới

Nam 162

31,1

101

19,4 1

Nữ 213

40,9

45

8,6 2,95 1,97 – 4,43 <0,001

Tuổi ≤ 30 162

31,1

68

13,1 1

> 30 213 40,9

78

15,0 0,87 0,59 – 1,28 0,49

Chức danh

Bác sỹ 40

7,7

60

11,5 1

Điều dưỡng 317 60,8

75

14,4 2,46 1,05 – 5,74 0,04 Đối tượng

khác

18 3,5

11

2,1 0,39 0,18 – 0,85 0,02

Trình độ

Đại học, trên đại học

96 18,4

77

14,8 1

Trung cấp, Cao đẳng

258 49,5

62

11,9 2,41 0,97 – 5,96 0,06 Phổ thông

trung học

21 4,9

7

1,3 0,72 0,29 – 1,77 0,48

Làm việc tại

C1 (Nhà F) 51 9,8

23

4,4 1

C2 73

14,0

58

11,1 2,26 1,04 – 4,88 0,04

C3 76

14,6

25

4,8 3.97 1,20 – 7,91 <0,001

C4 46

8,8

12

2,3 1,56 0,78 – 3,47 0,19

C5 64

12,3

15

2,9 1,30 0,55 – 3,12 0,55

C6 65

12,5

13

2,5 1,17 0,52 – 2,66 0,70 Nhận xét: Phân tích hồi quy đơn biến cho

thấy: NVYT nữ tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN cao hơn 2,95 lần so với

NVYT nam (OR = 2,95; 95% CI: 1,97 – 4,43; p < 0,001); Đối tượng điều dưỡng tuân có tỷ lệ tuân thủ cao hơn 2,46 lần so với Bác

(6)

sỹ (OR = 2,46; 95% CI: 1,05 – 5,74; p = 0,04); đối tượng khác (Hộ lý, CNTT, NV hành chính..) tuân thủ thấp hơn đối tượng Bác sỹ là 0,39 lần (OR = 0.39; 95% CI: 0,18 – 0,85; p = 0,02); Tỷ lệ tuân thủ C2 tuân thủ

cao hơn C1 (nhà F) gấp 2,26 lần (OR = 2,26; 95% CI: 1,04 – 4,88; p = 0,04); Tỷ lệ tuân thủ quy trình tại khu C3 cao hơn C1 (nhà F) gấp 3,97 lần (OR = 3,97; 95% CI:

1,20 – 7,91; p < 0,001).

IV. BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ của NVYT

Khi tiến hành nghiên cứu trên toàn bộ nhóm NVYT trực tiếp chăm sóc người bệnh COVID- 19 tại BVĐK Đức Giang trong 521 lượt quan sát cho kết quả như sau: tỷ lệ nhân viên y tế tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân là 72%. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của tác giả Mitchell và cộng sự (2013) [7] là 54,1% và tác giả Zellmer và cộng sự (2015) là 43% [8]. Tại BVĐK Đức Giang từ khi bắt đầu triển khai điều trị và chăm sóc người bệnh COVID- 19 tất cả NVYT đều được tập huấn về quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN qua đào tạo trực tiếp, qua các đường link được chia sẻ đến từng NVYT.

Trước khi vào khu điều trị cho người bệnh nhiễm COVID- 19 các NVYT đều được tập huấn lại quy trình. Từ kết quả này cho thấy tầm quan trọng của việc tập huấn, trang bị kiến thức cho NVYT và cũng khẳng định thành công bước đầu của bệnh viện.

Tại quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN, nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ NVYT tuân thủ tốt nhất là tại bước 3: Tháo kính bảo hộ (loại dây đeo ngoài mũ) hoặc

tấm che mặt là 98,8%. Trong các bước vệ sinh tay của quy trình tỷ lệ tuân thủ quy trình vệ sinh tay cuối cùng (bước 10) chiếm tỷ lệ thấp nhất 87,5%. Ngoài ra, qua camera giám sát chúng tôi còn phát hiện thêm một số lỗi khác như: NVYT không đóng nắp thùng rác 5,2%; không thay khẩu trang mới là 4,6%;

không cởi bộ bảo hộ khi đi qua khu vực cởi theo quy định là 1,0%. Kết quả cho thấy nhân viên tại bệnh viện tuân thủ cao hơn tại nghiên cứu của tác giả Mitchell và cộng sự (2013) là 54,1% [7] nhưng tương đồng với các báo cáo của khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn tại bệnh viện trong thời gian gần tỷ lệ tuân thủ vệ sinh tay tăng lên đáng kể khi đại dịch COVID- 19 bùng phát từ năm 2019 là 59,7% đến năm 2021 tỷ lệ tăng lên 83,8%.

Kết quả này cho thấy tỷ lệ NVYT tuân thủ

quy trình trong phòng ngừa lây nhiễm đã tốt lên. Tuy nhiên, vẫn còn một số lỗi cần phải khắc phục. NVYT sau khi đã vệ sinh tay nhiều lần tại các bước trước dẫn đến bước vệ sinh tay cuối thường chủ quan và bỏ bước, hay ra khỏi khu điều trị quên không đeo khẩu trang mới, hay như do thùng đựng rác không dùng chân dậm mà phải mở bằng tay, dẫn đến nhiều nhân viên quên đóng nắp thùng rác. Bệnh viện cần cải tạo thùng rác có chân dậm, đồng thời cần nhắc nhở, trao đổi lại với NVYT, có thưởng phạt kip thời đối với các NVYT tuân thủ tốt hay chưa tốt. Chính vì vậy mà việc tăng cường giám sát, nhắc nhở trực tiếp thường xuyên tích cực là vô cùng quan trọng để tăng tỷ lệ tuân thủ đúng tháo phương tiện PHCN.

4.2. Một số yếu tố liên quan đến tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN

Khi tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến

(7)

tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN của NVYT bằng phân tích hồi quy đơn biến cho thấy: Tỷ lệ nữ giới tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN cao hơn 2,95 lần so với nam giới. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với tác giả Bùi Thị Xuyến và cộng sự (2019) khi chỉ ra rằng NVYT là nữ giới tuân thủ phòng ngừa chuẩn tốt hơn so với nam giới [5]. Có thể lý giải một phần rằng quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN là quy trình đòi hỏi sự tỉ mỉ và chi tiết.

Đối tượng điều dưỡng có tỷ lệ tuân thủ

quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN cao hơn so với Bác sỹ và các đối tượng khác (Hộ lý, CNTT..) tuân thủ thấp hơn đối tượng Bác sỹ là 0,39 lần. Nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của tác giả Mitchell và cộng sự (2013) [7] và tác giả Bùi Thị Xuyến và cộng sự (2019) [5] về sự tuân thủ tốt hơn của điều dưỡng so với các nhóm nhân viên y tế khác. Có thể nhận thấy đội ngũ điều dưỡng tại bệnh viện được tập huấn, giám sát nhắc nhở từ khá nhiều kênh khác nhau từ khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn, phòng điều dưỡng… Ngoài ra, do tính chất công việc của điều dưỡng tiếp xúc người bệnh nhiều hơn đối tượng khác dẫn đến các quy trình được thực hiện nhiều lần và thành thạo hơn. Vì vậy, có thể lý giải vì sao nhóm điều dưỡng trong các nghiên cứu thường có tỷ lệ tuân thủ cao hơn các nhóm khác.

Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng tỷ lệ NVYT tuân thủ quy trình tại C2 cao hơn khu vực C1 (nhà F) gấp 2,26 lần; Tỷ lệ tuân thủ

quy trình tại khu C3 cao hơn C1 (nhà F) gấp 3,97 lần. Điều này có thể một phân lý giải do C1 (nhà F) số lượng nhân viên y tế khá đa

dạng bao gồm điều dưỡng, bác sỹ, kế toán,…nhân lực đôi khi thay đổi, mặt khác khu C1 (nhà F) là khu tiếp nhận ban đầu, xử

trí cấp cứu đòi hỏi các thao tác nhanh dẫn đến một số các bước trong quy trình bị bỏ qua hoặc chưa hoàn chỉnh, trong khi đó khu vực C2, C3 là khu vực điều trị cho nhóm người bệnh nặng đòi hỏi trình độ chuyên môn sâu hơn. Đây cũng là vấn đề cần lưu ý cho các nhà quản lý để có được sự tuân thủ

đồng đều tại các khu vực.

V. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

Kết quả nghiên cứu tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN của NVYT chăm sóc người bệnh COVID- 19 tại BVĐK Đức Giang năm 2022 như sau:

Tỷ lệ nhân viên y tế tuân thu quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân là 72%. Tháo kính bảo hộ (loại dây đeo ngoài mũ) hoặc tấm che mặt là 98,8%. Tỷ lệ tuân thủ quy trình tại bước 10 (vệ sinh tay lần cuối cùng) là thấp nhất 87,5%. Một số lỗi thường gặp khác là NVYT không đóng nắp thùng rác 5,2%; Không thay khẩu trang mới là 4,6%; không cởi bộ bảo hộ khi đi qua khu vực cởi theo quy định là 1,0%. Một số yếu tố như giới tính, chức danh và vị trí làm việc có mối liên quan đến tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện PHCN của NVYT chăm sóc người bệnh COVID-19 (p<0,05).

Từ kết quả nghiên cứu, bệnh viện cần tiếp tục duy trì việc giám sát, đánh giá thực trạng tuân thủ quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ một cách thường xuyên và phù hợp với tình hình diễn biến mới của dịch bệnh.

Thường xuyên cập nhật kiến thức mới để đào tạo tập huấn cho NVYT khi tham gia điều trị cho người bệnh COVID- 19. Mỗi nhân viên

(8)

y tế cần tăng cường hiểu tầm quan trọng và thực hiện đúng, đủ các bước của quy trình tháo bỏ phương tiện phòng hộ cá nhân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Ban chỉ đạo Quốc Gia phòng chống dịch Covid - 19 (2020). Quyết định số: 3455/QĐ- BCĐQG về việc Hướng dẫn quản lý chất thải và vệ sinh trong phòng, chống Covid - 19, ban hành ngày 05/8/2020.

2. Bộ Y tế (2020). Hướng dẫn phòng và kiểm soát lây nhiễm SARS-CoV-2 trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội, 37-47.

3. Bộ Y tế (2021). Quyết định số 4159/QĐ-BYT về việc Hướng dẫn lựa chọn và sử dụng phương tiện phòng hộ cá nhân trong phòng, chống bệnh dịch COVID-19, ban hành ngày 28/08/2021.

4. Bệnh viện đa khoa Đức Giang (2021). Công văn số 824/BVĐKĐG về việc triển khai quy trình - quy định Hướng dẫn phòng và kiểm soát lây nhiễm SARS - CoV- 2, ban hành

ngày 20/5/2021.

5. Bùi Thị Xuyến, Nguyễn Xuân Bái, Hoàng Thị Hòa (2019). Một số yếu tố liên quan tới kiến thức, thái độ và thực hành của nhân viên y tế trong thực hiện phòng ngừa chuẩn, Tạp chí y tế Cộng Đồng Số 4 (51) - Tr: 63-69.

6. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội (2021).

Quyết định số 4032/QĐ-UBND về việc giao chỉ tiêu giường bệnh điều trị người bệnh Covid - 19 có triệu chứng trung bình, nặng và nguy kịch cho các bệnh viện trực thuộc Thành phố Hà Nội, ban hành ngày 26/8/2021.

7. Mitchell et al (2013). Are health care workers protected? An observational study of selection and removal of personal protective equipment in Canadian acute care hospitals, American journal of infection control, 41(3), 240-244.

8. Zellmer, Caroline, Van Hoof, Sarah và Safdar, Nasia (2015). Variation in health care worker removal of personal protective equipment, American journal of infection control, 43(7), 750-751.

Referensi

Dokumen terkait