Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
Tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh dân tộc thiểu số rất ít ngưòi ờ Lai Châu: Một số vấn đề và hàm ý chính sách
Nguyễn Văn Chiều * , Hoàng Thanh Lịch **
Tóm tắt: Tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh dân tộc thiểu số rất ít người như Màng, Cống, La Hủ, Si La và Lự là một nội dung quan trọng trong chính sách dân tộc của tinh Lai Châu. Học sinh dân tộc rất ít người đang phải đối mặt với những rào cản trong tiếp cận giáo dục phổ thòng bao gồm những hạn chế về cơ sở hạ tầng giáo dục, sự sằn có của trường/ điểm trường, số lượng và chất lượng đội ngũ giáo viên, nghèo đói, tệ nạn xã hội, V.V.. Đe mở rộng cơ hội tiếp cận giáo dục phổ thông cùa học sinh dân tộc thiêu so rât ít người, hàm ý chính sách đưa ra là tinh Lai Châu cần thực hiện các giải pháp nhàm thay đôi nhận thức của đồng bào dân tộc thiêu số rất ít người về giáo dục, phát triển hạ tầng và đội ngũ giáo viên, tăng cường hỗ trợ học sinh, V.V..
Từ khóa: tiếp cận giáo dục; giáo dục phổ thông; dân tộc thiểu số rất ít người.
Ngày nhận 26/9/2021: ngày chinh sữa 09/11/2021: ngày chấp nhận đăng 22/6/2022
DOI: https://doi.Org/10.33100/tckhxhnv8.3.NguyenVanChieu-HoangThanhLich 1. Đặt vấn đề
Việt Nam làmột quốc gia đa dân tộc với 53 dân tộc thiểu số (DTTS), chiếm 14,7%
dân số cà nước, cư trú trên địa bàn 51 tinh, thành phố(Tổng cục Thống kê 2020). Đáng chú ý, ở Việt Nam hiện có 16 dàn tộc thiểu số rất ít người (DTTSRTN) tập trung sinh sống tại 12 tỉnh trong đó có tinh Lai Châu.
Lai Châu là tỉnh miền núi biên giới, với 20 DTTS cùng sinh sống và là địa bàn cư trú chủ yếu của 5DTTSRIN gồm Mảng, La Hủ, Cống, Si La, Lự. Cụ thể, người Mảng ở tinh Lai Châu chiếm 96,8% dân số người Mảng trên cả nước, tỷ lệ này của người La Hù, người Cống, người Si La, và người Lự ờLai Châu lần lượt là 99,1%, 55,5%, 65,i%, và 98,9% (ủy banDântộc 2019).
■Trường Đại học Khoahọc Xã hộivàNhânvăn,ĐHQG Hà Nội;email: [email protected]
’’ Trường Đại học Waseda, Nhật Bản
Trong những nămgần đây, tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh nói chung, DTTSRIN nói riêng đã nhận được sự quan tâm và luận giải ở nhiều phương diện khác nhau. Chẳng hạn, Triệu Quang Thanh (2018) đã sử dụng dừ liệu từ Điều tra mức sốnghộ giađình Việt Nam (1992 đen 2014) để xem xét các yếu tố góp phần làm tăng bất binh đẳng giáo dục dân tộc ở cấp trung học phồ thông.Nghiên cứu cho thấy sựkhác biệt về nền tảng gia đình (bao gồmtrình độ học vấn củachamẹ và sự giatăng bấtbình đẳng thu nhập dựa trên dân tộc ở cấp hộ gia đình) đã giải thích cho những bất bình đẳng giáo dục dân tộc này. Nguyền Thị Hằng (2018) cũng chỉ ra sự bất binh đẳng về giáo dục giữacác vùng DTTSvà các nhómthunhập thấp. Nghiên cứu cũng đưa ra các khuyến nghị về chính sáchnhưxóa đói, giảm nghèo, đầu tưvào nguồn lực cho giáo dục, nângcao nhận thức của người dân về giátrị của giáo dục. Nguyễn Đình Tuấn (2020) đã tập trung 290
291 Nguyền Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
phân tích các cơhội tiếp cận giáo dục phổ thông của những trẻ em nghèo trong vùng DTTS ở Việt Nam hiện nay. Nghiên cứu cũng đề xuất rằng Việt Nam cần thực hiện mục tiêu giáo dục lấy học sinh làm trung tâm, mở rộng cơ hội cho tất cả mọi người, kể cả người nghèo ở các vùng DTTS, được tiếp cận với giáo dục phổ thông. Tuy đã có những nghiên cứu về tiếp cận giáo dục của học sinh DTTS nhưng còn thiếu những nghiên cứu về tiếp cận giáo dục phổ thông đối với học sinh DTTSRIN ở Lai Châu. Do đó, nghiên cứunày sẽ tập trung vàotiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN ở tinh Lai Châu, từ đó đưa ra hàm ý chính sách cho việc tăng cường khảnăng tiếp cận giáo dục có chất lượng cho đồng bào DTTSRIN trong thời gian tới.
2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý thuyết
Tiếp cận giáo dục làviệc học sinh có cơ hội bình đẳng và công bằng được đi học, được giáo dục. Việc tăng cường tiếp cận giáo dục thường đòi hỏi các cơ sở giáo dục phải cung cấpthêmcácdịch vụhoặc xóa bỏ mọi rào cản thực tế hoặc tiềm ẩn khiến học sinh không thể tham gia vào các khóa học hoặc chương trình học nhất định. Có rất nhiều yếu tố có thể làm giảm đi khả năng tiếp cận giáo dục như chủng tộc, tôn giáo, giới tính, khuynh hướng tình dục, khuyếttật, khả năng trí tuệ, kết quả học tập trong quá khứ, tình trạng giáo dục đặc biệt, khả năng ngoại ngữ và thu nhập giađình hoặctrìnhđộ họcvấn, vị trí địa lý hoặc cơ sởvậtchấtcủa trường học. Đặc biệt, đối với cộng đồng các DTTS, họ thườngphải đối mặt vớinhiều rào càn hơn sovới những người mà tiếng mẹđẻ củahọ là ngôn ngữ phổ thông. NgườiDTTS phải học quốc ngữ để hòa nhập vào xã hội.
Đồng thời, họ không thể bỏ qua tiếng Anh, ngôn ngữ toàn cầu, ngày càng trở nên phổ biến và có mặt trong nhiều chương trình giảng dạy (Dekker và cộng sự2005).
Từ gócđộ quyền giáo dục, Tomaẫevski - cựu Báo cáo viên của Liên hợp quốc về Quyền giáo dục đã phát triểnkhung cấu trúc 4-A (Tomasevski2001)nhưsau:
i. Sự sẵn có (Availability): sẵn có về số lượng và có cơ sở hạ tầng,tài liệu giảng dạy phù hợp và có đội ngũ giáo viên được đào tạo.
ii. Khả năng tiếp cận (Accessibility): Tất cả mọi người đều phải được tiếp cậnvới các cơ sở giáo dục và các chương trình mà không bịphânbiệtđối xử, đặc biệt là những nhóm dễ bị tổn thương nhất, theo luật quy định và thực tế. Các cơ sở giáo dục phải nằm trong phạm vi địa lý thuận tiện có thể tiếp cận được hoặc thông qua công nghệ hiện đại. Học phí cần phải hợp với túi tiền củatất cả mọi người.
iii. Khả năng chấp nhận (Acceptability):
Nội dung và hình thức, phương pháp giáo dục phù họp và có chất lượng tốt; nội dung giáo dục phải phù hợp về văn hóa, có chất lượng tốt vàkhông cósựphân biệt.
iv. Khả năng thích ứng (Adaptability):
Có thể đáp ứng nhu cầu của mỗi học sinh.
Giáo dục phải cải tiến phù họp với những nhu cầu liên tục thay đối của xãhội và các thách thức về bất bình đẳng (người DTTS, người khuyết tật). Giáo dục phải đáp ứng nhu cầu của học sinh trong những môi trường xã hội vàvănhóa đa dạng.
Nghiên cứu này vận dụng khung 4-A để làm rõ thực trạng và những khókhăn trong tiếp cận giáo dục của học sinh DTTSRIN ở Lai Châu. Nghiên cứu sẽ làm rõ thực trạng tiếpcậngiáo dục phổthông, xácđịnh những khó khãn trong việc tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN và đề xuấtcác hàmý chínhsách phù hợp.
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, sổ 3 (2022) 290-304 292
2.2. Phương pháp nghiêncứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích tài liệu, so sánh trên dữ liệu thứ cấp đượckhai thác chủyếutừ Kết quả tổng điều tra dân so và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 01 thảng 04 năm 2019 (Tổng cục Thống kê 2020), Ket quả điều tra thu thập thông tin về thực trạng kinh tế- xã hội của 53 DTTS năm 2015 (ủy banDân tộc 2016), Kết quả điều trathu thập thông tin về thực trạng kinh tế - xã hội của 53 DTTS năm 2019 (ủybanDântộc 2019).
Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng phươngpháp phỏng vấn sâu người dân đang sinh sống và làm việc tại xã Vàng San, huyện Mường Tè vào tháng 5 năm 2021.
Các cuộc phỏng vấn tập trung vào một số phụ huynhhọc sinh làngười DTTSRIN,cán bộ, giáo viên và người làmcông tác xãhội từ một tổ chức phi chính phủ. Đẻ đảm bảo phòng chống dịch COVID-19, các cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện qua điện thoại. Những người được hỏi đã tham gia các cuộc phỏngvấn bán cấu trúcvới 9người dân đang sinh sống vàlàm việc tại xã Vàng
Sanhuyện MườngTè vàtháng 5 năm 2021.
Bên cạnh đó, một mẫu phiếu điều tra được sử dụng để thu thập thông tin từ 13 phụ huynh người Mảng ở bản Huồi Cuồng, xã Vàng San, huyện Mường Tè. Vì họ không thể giao tiếp tốt bằng tiếngViệt, nghiên cứu đã nhờ sự giúp đỡ của một giáo viên và trưởng bản để giải thích nội dung các câu hỏi. Trong những cuộc phỏng vấn này, câu trả lời chủ yếu cung cấp thông tin môtả và thểhiệnquan điểm.
3. Kết quả nghiên cứuvà thảoluận
3.1. Khái quátvề các dântộcthiểusố rat ít người ở Lai Châu
Hiện nay, trên địa bàn tỉnh Lai Châu có khoảng 77.660 hộ gia đình là người DTTS, trong đó có 5.462 hộ (7,03%) là người DTTSRIN và sinh sống chủyếu tại 4 huyện:
Mường Tè (4,29%), Nậm Nhùn (0,89%), Sìn Hồ (1,02%), Tam Đường (0,8%). Tỷ lệ hộ gia đình người DTTSRIN sinh sống tại thành phố Lai Châu chỉ chiếm0,03% (Tổng cục Thống kê2020).
Bảng 1: Số lượng hộ DTTSRIN ở Lai Châu (Đơn vị: hộ) Tổng số ngưòi DTTS
Toàn tỉnh La Hủ Lự Mảng Cống Si La
Toàn tỉnh 77.660 2.714 1.377 849 360 162
Mường Tè 8.997 2.712 0 222 251 149
Nậm Nhùn 5.129 0 0 595 101 1
Sìn Hồ 14.937 0 759 32 0 0
Tam Đường 9.859 0 618 0 0 0
Thành phố Lai Châu 2.805 2 0 0 8 12
(Nguồn: Tổng cục Thống kẽ 2020) Dân tộc Mảng: Người MảngởLai Châu
có 4.501 người, chiếm 96,8% dân số người Mảng của cả nước.Người Mảng cư trú chủ yếu tại 03 huyện Mường Tè (tại xã Bum
Nưa, Paủ, Pa Vệ Sử,Vàng San, vàthị trấn Mường Tè), Sìn Hồ (tại xã Pa Tần), và huyện Nậm Nhùn (tại xã Nậm Nhùn, Hua
293 Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhãn văn, Tập 8, sỏ 3 (2022) 290-304
Bun, Nậm Ban, Nậm Hàng, Nậm Pì, Trung Chải (Tổng cục Thống kê 2020).
Dântộc La Hủ: TỉnhLai Châucó 12.002 người, chiếm 99,1% người La Hủ của cả nước. Người La Hủ sinh sống tập trung tại huyện Mường Tè với 2.712 hộ và phân bố chủ yếu tại 10 xã (Bum Tở, Ka Lăng, Kan Hồ, Mù Cả, Nậm Khao, Paủ, Pa VệSử,Tá Bạ, Thu Lũm) và thị trấn Mường Tè (Tổng cục Thống kê 2020).
Dântộc Cống:Ở Lai Châu, dântộc cống có 1.513 người, chiếm tỉ lệ 55,5% người Cống trên cả nước. Người cống tập trung sinh sống tại huyện Mường Tè (xã Nậm Khao, và thị trấn Mường Tè), Nậm Nhùn (xã Nậm Chà, và thị trấn Nậm Nhùn) và thành phố Lai Châu (phường Đông Phong,
Quyết Tiến, Tân Phong) (Tổng cục Thống kê 2020).
Dântộc Si La: Tông dân sốcủa cư dân Si La ờ Lai Châu là 592 người, chiếm 65,1%
cùa cảnước.Người Si La sống tập trungchủ yếu ở huyện Mường Tè (tại xã Ka Hồ, thị trấn Mường Tè), thành phố Lai Châu (Phường Đoàn Ket, Quyết Tiến, và Đông Phong), và huyện Nậm Nhùn (tại xã Pú Đao) (Tổng cục Thống kê 2020).
Dân tộc Lự: Hiện tỉnh Lai Châu 6.693 người, chiếm 98,9% tổng số người Lự cả nước. Người Lự sinh sống chu yếu ở huyện Sìn Hồ (xã Lùng Thàng, Ma Quai, Nậm Tăm) và huyện Tam Đường (Bàn Bo, Bản Hon, BìnhLư)(Tổng cụcThốngkê 2020).
Biểu đồ 1: Tý lệ học sinh DTTSRIN trong độ tuồi đi học đúng cấp 2015 và 2019 tđơìi vị: %)
■ 2015 Tiếu học 2019 Tiếu học
■ 2015 Trung học CO' sò' B' 2015 Ti ung học phố thống
■ 2019 Trung học CO' sò' ■ 2019 Trung học phổ thòng
(Nguồn: Uy ban Dân tộc 2016 và Tông cục Thống kẽ 2020) Biểu đồ 1 cho thấy trong giai đoạn 2015
đến 2019 có một sự tăng lên đáng kể trong tỷ lệ đến trường đúng độ tuối của con em đồng bào DTTSRIN ờ Lai Châu. Tỷ lệ học sinh của 5 DTTSRINtrong độ tuổi đi học, đi học đúng cấp ở cấp tiểu học khá cao. Tuy nhiên,tỷ lệ này thấp hon ớ cấp trunghọc cơ sởđối với dân tộc Mảng, cống, và La Hủ.
Mặc dù giai đoạn 2015-2019 chứngkiến sự gia tăngđáng kê trong tỷ lệ học sinh trong độ tuổi đi học đến trường, đi học đúng cấp trunghọc phổthông ở cả 5 DTTSRIN, tỷ lệ
nàyvẫn còn thấp đặcbiệt là đối với dân tộc La Hủ (17,9%), và dân tộc Mảng (36,6%).
Có the thấy rằng tỷ lệ học sinh trunghọc cơ sở tiếp tục học lên trung học phổ thông có chiều giâm xuống. Hầu hết đồng bào DTTSRIN chỉ họchết trung học cơ sở.
Tỷ lệ người DTTSRIN từ 15 tuổi trở lên biết đọc, biết viết1 ở tỉnh Lai Châu còn ở mức thấp. Năm 2015, tỷ lệ này ở người Màng, La Hủ, cống, Si La, và Lự lần lượt là 43,8%, 34,6%, 67,2%, 63,7%, và 57,5%
(ủy ban Dân tộc 2016). Năm 2019, tỷ lệ
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304 294
người DTTSRIN từ 15 tuổi trở lên biếtđọc, biết viết đãtăng lênở dân tộc Mảng (2,4%), La Hủ (12,3%), và Si La (4,6%). Trongkhi đótỷ lệ này giảmởdântộc cống (7,9%),và Lự (7,8%) (ủyban Dân tộc 2019).
3.2. Thực trạng giảo dục phổ thông cho học sinh DTTSRIN ởLai Châu
Thứ nhất: Hệ thống trường và điêm trường
Năm 2019, tinh Lai Châu có 370 trường học với tổng số 5.256 phòng học. Tỳ lệ trường học kiên cố là 89,5%, với 4.339 phòng học được xây dựng khang trang.
Đáng chú ý là tỷ lệ phòng học kiên cố còn chưa cao ở 3 huyện gồm Nậm Nhùn (65,3%), Sìn Hồ (61%) và Mường Tè
(61%). Những huyện này là địa bàn cư trú chủ yếu của các nhóm DTTSRIN gồm Mảng, Cống, La Hủ, Si La, Lự (ủy ban Dân tộc 2019). Toàn tinh có 1.300 điểm trường đang hoạt động với 2.892 phòng học. Tỷ lệ điểm trường kiên cố trên toàn tỉnh chỉ khoảng 50,4%. Đáng chú ý, tỷ lệ điểm trường tiểu học kiên cố chỉ ởmức 47% trên địa bàn 7 huyện và thành phố Lai Châu.
Hiện có 13 điểm trường trung học cơ sở với tỷ lệ trường học kiên cố là 61,5%. Tỉnh chi có 1 điểm trường trung họcphổ thông với 6 lớp học tại huyện Phong Thổ. Bảng 2 cho thấy tỷlệđiểm trường vàphòng học kiên cố ở khu vực DTTSRIN còn chưa cao. Nơi cư trú của dân tộc Mảng, La Hủ, cống, Si La, và Lựcótỷ lệ phòng họckiên cố lần lượt là 61,62%,67,74%, 60%, 52,17%,và 62,54%.
Bảng 2: Tỳ lệ điểm trường và lớp học kiên cố tại khu vực DTTSR1N ở Lai Châu (Đơn vị:%) Nhóm
DTTSRIN
Điểm trường Lớp học
Tổng Kiên cố (%) rr.x__
Tông Kiên cố (%)
Mảng 159 61,64 370 61,62
La Hú 118 72,03 279 67,74
Cống 34 58,82 90 60
Si La 11 54,55 46 52,17
Lự 65 67,69 130 61,54
(Nguồn: Tống hợp từ Kết quá toàn bộ Tổng điểu tra Dân số và Nhà ở năm 2019)
Có thể thấy rằng, trong khitỷ lệ trường học và lớp học kiên cố trên toàn tinh là khá cao thì tỷ lệ điểm trường và lớp học kiên cố tại khu vực mà 5 DTTSRIN đang cư trú lại thấp hơnnhiều.
Thứ hai: Đội ngũ giáo viên
Năm 2019,toàntỉnh có 9.677 giáo viên, trongđó có 3.872 giáo viên là người DTTS (40%)(ủy ban Dân tộc 2019). Chì trướcđó 4 năm, số lượng giáo viên người DTTS là
3753 người trên tổng số 10614 giáo viên ở tỉnh này (ủy ban Dân tộc 2016). Như vậy, sau4năm, tỷlệ giáo viên người DTTS ở Lai Châu đã tăng lên 4,65% so với số liệu ghi nhậnvào năm 2015.
1 Năm2019,tỷ lệ ngtrờiDTTSRIN từ 15 tuổi trớ lênbiết đọc, biết viếtđã tănglên ởdân tộc Màng (2,4%) , LaHù (12,3%), và Si La (4,6%). Tỷ lệ này giảm ớ dân tộccống (7,9%), và Lự (7,8%).
295 Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
Bảng 3: số giáo viên trên địa bàn tinh Lai Cháu 2019 (Đơn vị: người)
Giáo viên Giáo viên dân tộc
thiểu số Tỷ lệ giáo viên DTTS (%)
Toàn tỉnh 9.677 3.872 40,0
Huyện Mường Tè 1.214 663 54,6
Nậm Nhùn 680 442 65,0
Phong Thổ 1.651 726 44,0
Sin Hồ 1.627 742 45,6
Tam Đường 1.135 321 28,3
Tân Uyên 1.176 339 28,8
Than Uyên 1.417 527 37,2
Thành phố Lai Châu 777 112 14,4
(Tổng hợp từ Kết quả toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019)
Bảng 4 cho thấy có 3.679 giáo viên làm việc trong khu vực DTTSRIN. Hiện có 446 giáo viên có trinh độ trung cấp, 862 giáo viên có trình độ cao đẳng,2284 giáo viên có trinh độ đại họcvà 87 giáo viên có trìnhđộ thạc sĩ và tiến sĩ. Đáng chú ý, tỷlệ giáo viên DTTS tương đối nhỏ, chỉ xấp xỉ 44%.
Bảng 4: số lượng và trình độ giáo viên ờ khu vực DTTSR1N ở Lai Châu 2019 (Đơn vị: người) Nhóm
DTTSRIN
Trình độ học vấn
Trung cấp Cao đẳng Đại học Sau Đại học
Mảng 97 248 602 4
La Hủ 142 240 440 5
Cống 60 141 546 38
Si La 31 78 459 36
Lự 116 155 237 4
_____ Tồng_____ 446 862 2.284 87
(Tông họp từ Kết quả toàn bộ Tống điều tra Dán số và Nhà ở năm 2019)
CÓ thê thấy rằngsố lượnggiáo viênngày càng tăng đã đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển giáo dục của tĩnh. Tuy vậy, số lượng giáo viên là người DTTS vẫn chiếm một tỷ lệ khiêm tốn. Thực tế là tỷ lệ giáo viên người La Hủ, Mảng, cống chiếm một tỷ lệ quá thâp trong khi họ được xem như lực
lượng quan trọng tác động đến côngtác giáo dụcchocon emhọ.
Thứ ba: Khoảng cách từ nhàđến các cơ sở giáo dụcphò thông
Bàng 5 cho thấy hầu hết học sinh DTTSRIN phải đi một quãng đường dài từ nhà đen các cơ sở giáo dục phổ thông của tinh LaiChâu.
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304 296
Bảng 5: Khoảng cách từ nhà đến các cơ sở giáo dục phố thông năm 2015 và 2019 (Đơn vị: Km)
Loại hình
Nhóm DTTSRIN
La Hủ Lự Mảng Cống Si La
2015 2019 2015 2019 2015 2019 2015 2019 2015 2019 Trường/điểm
trường tiểu học 5 3,7 1,3 2,8 14,5 5,2 5,7 3,7 17,9 1,3
Trường/điểm trường trung học cơ sở
8,1 7,8 2,8 3,3 15,3 12,6 10,5 6,7 17,9 4,2
Trường trung học
phổ thông 33,2 27,8 10,1 13,9 33,9 30,2 36,8 29,5 23,5 22,5
(Nguồn: ủy ban Dân tộc 2016 và 2019) CÓ thể thấy, khoảng cách giữa nhà của
học sinh và các trường tiểu học đã giảm đáng kể từnăm 2015 đến năm 2019. Chẳng hạn, đối vớidân tộc Mảng,khoảngcách đến trường tiểu học xa nhất chỉ là 5 km, trong khi đối với dân tộc Si La, khoảng cách chỉ cònxấp xỉ 1,3 km. Khoảng cách từ nhàđến trường trung học cơ sở của học sinh DTTSRIN đãgiảm nhẹ trong giai đoạnbốn năm này. Tuy nhiên, khoảng cách này vẫn còn còn khá xa. Đặc biệt, khoảng cách đến trường trunghọcphổ thông là xa nhất so với khoảng cách đến các cơ sở giáo dục cấp khác. Cụ thể, khoảngcách giữa nhà của học sinh dân tộc Mảng vàcác trường trung học phổ thông là khoảng 33,9 km vào năm2015 và khoảngcách này chỉ giảm khoảng 3,7 km tínhđếnnăm 2019.
Thứtư: Chỉnh sách hôtrợ
Trong những năm qua, hệthống các chủ trương, đường lối, chính sáchcủa Đảng và Nhà nước Việt Nam đãhỗ trợ, đầu tư phát triển nhiều lĩnhvực nơi đây,đặc biệt làsự ra đời của Nghị quyếtsố 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI)về “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiệnđại hóatrong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủnghĩa và hội nhậpquốctế” thêmmột làn nữa khẳng định và nhấn mạnh việccầnthiết
phải quan tâm đầu tư, phát triển hơn nữa chấtlượng giáo dục vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi “Ưu tiên đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo đối với các vùng đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biêngiới, hải đảo, vùng sâu,vùng xa và các đối tượng chính sách...”. Chính phủ ban hành riêng Nghị định số 57/2017/NĐ-CP ngày 09/5/2017 quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập hằng tháng từ 30% đến 100% mức lương tối thiểu chung tùy từng cấp học. Tỉnh Lai Châu cũng có những biện pháp hỗ trợ trực tiếp và đặc thù cho học sinh DTTSRIN đến trường như: hỗ trợ kinh phí tổ chức nấu ăn tập trung cho học sinh phổ thông được ban hành theo Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 28/7/2016 của Hội đồng nhân dân tỉnh Lai Châu khóa XIV,hỗtrợ gạo, tiền ăn theo quy địnhtạiNghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày
18/7/2016 của Chính phủ,V.V..
3.3. Một số đánh giá
Thứ nhất, cơ sở hạ tầng xã hội là một rào cản khách quan đối với việc tiêp cận giáo dục phổ thông cùa học sinh DTTSRIN ở Lai Châu
Mặc dù còn nhiều khó khăn nhưng học sinh người Si La và dân tộc Lự có nhiều thuận lợi hơn vì cư trú gần trung tâmxã và huyện. Học sinh dântộc cống, Mảng, La Hủ
297 Nguyễn Văn Chiều. Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân vãn, Tập 8. số 3 (2022) 290-304
gặp nhiều khó khăn khi đến trường do địa hình bị chia cắt phức tạp, nhiều sông suối.
Thôngthường vào mùa khô, học sinh phải đi bộ đường mòn và lội suối để đến trường.
Vàothời điểmmùa mưathường xảy ra sạtlở đất, lũ quét khiến học sinh dân tộc cống, MảngvàLa Hủ gần như bị cô lập hoàntoàn vớikhuvực xung quanh. Trong khi đó,việc đầu tư để giải quyếtđồng thời vấn đề giao thông ởtất cả các thôn bản người DTTSRIN là một thách thức lớn đối vớichính phủ khi nguồn ngân sách nhà nước là hữu hạn. 100%
người tham gia khảo sát coi giao thôngđi lại khó khăn là yếu tố có tác động tiêu cực ở mức đáng kể, và rất nhiều đến quyết định cho con đi học. Thêm vào đó, điều kiện tự nhiên đã gây cản trở cho nhà nước trong việc xây dựng các điếm trường, và tạo nên khó khăn trongtiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN ở Lai Châu. Từng tham giaxâydựngđiểm trường tạixã Pa ủ, nơingườidântộc La Hủtập trung sinhsống, ông V (Điều phối viên, Sao Bien Room for Education) cho biết: “Đường đến điểm trường tiểu học thường xuyên bị sạt lở nên nhiều đơn vị thi công họ không chuyển vật liệu lênđế xây điếmtrường được”.
Kết quả phỏng vấn sâu cũng cho thấy việcthiếu điệntrong cáckhuvực DTTSRIN đã ảnh hưởng đến điều kiện học tập của học sinh DTTSRIN ởtỉnh LaiChâu. Trong năm
2019, người Mảng và người La Hủ sinh sống ở nhiều xã như xã PaTần, xã Pá Ư, xã Ta Bạ, xã Thu Lũm và xã Nậm Chà vẫn chưa được sử dụng điện lưới quốc gia (ủy ban Dân tộc 2019). 76,9% người được hỏi coi điều kiện học tập khó khăn do thiếuđiện là yếu tố có tác động tiêu cực ởmức trung bình đến quyết địnhcho conđi học. Kinhtế hộ gia đình người DTTSRIN quá khó khăn khiến cho việc cho con em đến trường không phải là một ưu tiên đối với họ. Thu nhập bình quân đầu người của các DTTSRIN ở Lai Châu rất thấp. Đặc biệt, người Mảng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất trong cácDTTSRIN ởvùng Tây Bắc ở mức 7,5 triệu/người/năm. Thu nhập của người La Hủ và người cống lần lượt là 8,6 triệu/ngưởi/năm, và 15 triệu/người/năm (Phạm Thị Phương Thái 2020). Bảng 6 cho thấy tỷ lệ hộ nghèo của các DTTSRIN như La Hủ, Mảng, cốngvẫn còn ởmức cao lầnlượt là 75,5%, 68,8%, và 59,72% (ủy ban Dân tộc 2019). Nhiều học sinh DTTSRIN thường nghỉ học trung học cơ sở, và trung học phổ thông để tham gia sản xuất cùng gia đình. Nhiều em học sinh phải nghỉ học ở nhà để trông em vì bố mẹ đi làm xa. 100% người tham gia khảo sát coi thu nhập thấp, các con sớm phải tham gia lao động là yếu tố tác động tiêu cực đến quyết địnhcho con đihọc.
Bảng 6: Tỳ lệ hộ nghèo theo nhóm DTTSR1N tại địa bàn tinh Lai Châu (Đem vị: %)
Các DTTS La Hủ Lự Mảng Cống Si La
Tỷ lệ hộ nghèo (%) 31,47 75,5 14,89 68,08 59,72 17,9
(Nguồn: Uy ban Dân tộc 2019) Sự thiếu hụt đội ngũ giáo viên: Đội ngũ
giáo viên DTTS chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số giáo viên của tinh Lai Châu, số lượng giáo viên người DTTSRIN như cống, Mảng, La Hủ là rất ít, mặc dù họđược coi là lực lượng quan trọng có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng giáo dục phổ thông tại khu
vực DTTSRIN trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
NÓI cách khác, thiếu giáo viên người DTTSRIN đồng nghĩa với việc thiếu đi nguồn nhân lực có khả năng tiếp cận và hỗ trợ chặt chẽ, sâu sát cho các học sinh DTTSRIN. Do đó, học sinh DTTSRIN vẫn sẽ tiếp tục gặp khókhăn đáng kể trong việc
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304 298
tiếp cậngiáo dục phổ thôngbằng tiếng Việt.
100% người được hỏi coi việc giáo viên không biếttiếng của học sinh DTTSRIN là yếu tố tácđộng tiêu cực đến quyết định cho con đi học. ở cấp tiểu học, học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình học tập vì giáo viên không biết tiếng DTTSRIN, và học sinhthì cóhạnchế trong khả năng tiếng Việt. Vì vậy, giao tiếp giữa giáo viênvàhọc sinh gặp rất nhiều khó khăn. Thực tế, các giáo viên tại Lai Châu cũng được hướng dẫn, đào tạo tiếng DTTSRIN ởmứcđộgiao tiếpcơ bản nhằmhỗ trợ cho công tác giảng dạy. Tuynhiên, hiệu quả của việcnày chưa cao, giáo viên không đủ khả năng sử dụng tiếng DTTSRIN trong hoạt động giảng dạy nhằm hỗ trợ, giải thích cho học sinh DTTSRIN. Thêm vào đó, khu vực DTTSRIN vẫn còn thiếu nguồn giáo viên chất lượng cao. Khoảng cách từ trung tâm đến các điểm trường ở thôn bản rấtra, nhiều giáo viên phải di chuyển một quãng đường dài để đến các điểm trường. Bên cạnh đó, chính sách thu hút giáo viên giỏi về giảng dạy tại các vùng sâu vùng xa chưa thực sự hấp dẫn. Ông A (cán bộ quản lý giáo dục, xã Vàng San,huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết: “Hàng năm đều tuyển giáo viên tiếng Anh nhưngkhông có nhân sự”.
Hạn chếvề cơ sở vật chấtdạy học: Dùđã có sự đầu tư của chính phủ về mạng lưới trường học, điểm trường và cơ sở vật chất, tại khu vực DTTSRIN của Lai Châu vẫn còn thiếu trang thiết bị dạy vàhọc. Tỷ lệ phòng học kiên cố ở các điểm trường nằm trong khu vựcDTTSRIN vẫncònkháthấp. Nhiều trường tiểu học thiếu cơ sở vật chất như phòng học, căng tin, bếp ăn, nhà bán trú, côngtrìnhvệ sinh,hệ thống nước sạch. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc học tập của học sinh DTTSRIN. 84,6% số người được hỏi chorằng cơ sở vật chấttrường học và lớp học không an toàn là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định cho con đi
học của họ. Một số trường phổ thông dân tộc bán trú không đủ phòng ở nội trú nên học sinh phải ở trongphòng quá đông. Ông A (cán bộ quản lý giáo dục, xã Vàng San, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết:
“Các điểm trường còn chật hẹp, thiếu sân chơi vì ở trên đỉnh đồi, thiếu mặt bằng.
Trường có 199 học sinh bán trú nhưng chỉ có9 phòngnghỉ,mỗiphòng có hơn 20 cháu, quá đông. Với điều kiện như vậy sẽ không đủ đảm bảo tiếp cận giáo dụctốt”.
Biểu đồ 2 cho thấy khoảng cách từ nhà đến trường rất xa thực sự là một khó khăn trong tiếp cận giáo dục phố thông của các em học sinh DTTSRIN, đặc biệt là đối với các em học sinh cấp trung học cơ sở và trung học phổ thông ở Lai Châu. 100%
người đượchỏi coi khoảng cách từ nhà đến trường xa là yếu tố tác động tiêu cực ở mức đáng kể,và rất nhiềuđến quyết định chocon đi học. Học sinh DTTSRIN đang theo học trung học cơsở và trung học phổthông chủ yếu tại các trường phổ thông dân tộc bántrú tại các xã, và tại cáctrường phổ dântộc nội trú cấp huyện. Thựctế là cho dù cho khoảng cách từ nhà đến trường rất xa, học sinh DTTSRIN chủ yếu đi bộ đi đến trường.
Khoảng cách từ nhà đến trường trung học phổ thông của học sinh người Mảng, cống, và La Hủ xấp xỉ gấp 3 lần so với khoảng khoảng cáchtrung bình trình của 53 dân tộc.
Khoảng cách trung bình từ nhà đến trường của dân tộc Si La là 22,5km, gấp 2 lần so với khoảng khoảng cách trung bình trình từ nhà tới trường của 53 DTTS. Đây cũng là một trong số lý do giải thích cho thực trạng học sinh bỏ học ở cấp này tăng lên. Có thể thấy, việc quy hoạch nhiều điểm trường, và trường học vẫn chưa hợp lý, chưa rút ngắn được đáng kể khoảng cách từ nhà đến trường của học sinh, đặc biệt là từ nhà đến trườngtrung học phổ thông. Việc sắp xếp, tổ chức lại các cơ sở giáo dục chưa tạo điều kiện thuận lợi cho việc đảm bảo tiếp cận
299 Nguyền Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhãn văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
giáo dục phổ thông cho con em DTTSRIN.
Ông A (cán bộ quản lý giáo dục, xã Vàng San, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết: “Đường đi học xa, khoảng cách đến 2
bản xa nhất là 17-19km. 80% các em dân tộc Mảng chỉ đi bộ về nhà. Nhiều em về thăm nhà từ thứ Sáu nhưng thứ Hai vẫn chưa đếntrường”.
Biểu đồ 2: Khoảng cách trung bình từ nhà đến trường trung học phổ thông gần nhất của 10 dân tộc có khoảng cách xa nhất năm 2015 và năm 2019 (Đơn vị tan)
(Nguồn: ủy ban Dân tộc 2019) Thứ hai, có mối liên hệ giữa hoàn cảnh
gia đình với khả năngtiếp cận giáo dục phổ thông của họcsinhDTTSRIN ởLai Cháu
Vấn đề xã hội đã và đang gây ra nhiều khó khăn cho học sinh DTTSRIN trên địa bàn tỉnh Lai Châu trong tiếp cận với giáo dụcphổ thông làtìnhtrạngnghiện matúyvà rượu phổ biến trong đồng bào DTTSRIN.
Toàn tỉnh Lai Châu có 2.937 người nghiện ma túy và 1.339 người nhiễm H1V/A1DS trong năm 2019. Đáng chú ý, 85,9% người nghiện ma túy là người DTTS (ủy ban Dân tộc 2019). Nam 2019, DTTS chiêm 97,9%
tổng sốngườinhiễm HIV/AIDStrên địa bàn tỉnh Lai Châu. Nhiềuhọc sinh DTTSRIN đã bị nhiễm HIV/AIDS ngay từ khi mới được sinh ra. Những emnày đã có nhữngnguy cơ nghiêm trọng về sức khỏe ngay từ rất sớm và có khả năng gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tiếp cận giáo dục phổ thông so với những học sinh có sức khỏe tốt khác.
Nhiềuhọcsinh người Mảng và người La Hủ không được đến trường vì cha mẹ hoặc người giám hộ của các em đã chết do sừ dụng ma túy quá liều hoặc nhiễm HIV/AIDS. Bà p (Huồi Cuổng, xã Vàng
San, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết: “Chỉ có bà cho cháu đi học, bà là bà ngoại, bà có 3 đứa cháuđang đihọc. Bố mẹ các cháu mất sớm do bệnh xã hội (HIV/AIDS) vi lúccòn sốngbố mẹ các cháu nghiện. Cả bản chỉ có 3 người không nghiện, bà mà nghe lời người ta thìbàcũng chết lâu rồi”. Thêm vào đó, nhiều người DTTSRIN ở Lai Châu đã và đang rơi vào tình trạng nghiện rượu. Họ đang trở thành cộng đồngsuy kiệt về thể trạng và trí tuệ vì rượu. Rấtkhó để thực hiện công các tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của những gia đình DTTSRIN này về tầm quan trọng của tiếp cận giáo dục phổ thông. Thậm chí nhiều phụ huynh nghiện rượu sử dụng tiền hồtrợ học tập mà nhà nước chi trả cho con vàomục đích khác như muarượu. Như vậy, mặc dù đã được nhà nước hồ trợ thêm chi phí học tập, nhiều học sinh vẫn phải đối mặt với những tình huốngthiếu đồ dùng học tập, quần áo,giàydép.
Thứba, một so chính sách hỗtrợ đối với họcsinh DTTSRTN còn bất cập
Các chính sách của chính phủ về giáo dục phổ thông đã tạo điều kiện thuận lợi
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhãn văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304 300
đáng kể cho việc tiếp cận giáo dục của học sinh các DTTSRIN. Tuy nhiên, còn một số hạn chế về chính sách chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển giáo dục của học sinh DTTSRIN ởLai Châu. Trước hết, kinh phí hỗ trợ tiền ăn ở các trường phổ thông dân tộc bán trú còn khá thấp. Hàng tháng, mỗi học sinh DTTSRIN tại cáctrường phổ thông dântộc bán trú nhậnđược một khoảnhỗ trợ bằng với 60% mức lương tối thiểu tương đương 894.000 đồng/tháng. Tuy nhiên, tiền ăn của mỗi học sinh bán trú được quy định là 596.000 đồng/tháng. Do đó, tiền ăn bình quân hàng ngày là 19.866 đồng (3 bữa), rõ ràng là không đảm bảo chất lượng bữa ăn cho học sinh. 100% người được hỏi cho rằng hỗ trợhọctập củachính phủcòn ở mức thấp là một yếu tố ảnh hưởng tiêu cực đến quyết định cho con đi học của họ. Ông H (cán bộ quản lý giáo dục, xã Vàng San, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết:
“Trong thực tế, mọi hoạt động của các em học sinh phổ thông dân tộc bán trú thì như trường phổ thông dân tộc nội trú nhưngmức hỗ trợ thìđang là mức thấphơn. Thêm vào đó, gia đình các em dân tộc Mảng không hỗ trợ được thêmgì cho con vì điều kiện kinh tế khókhăn, và chỉ trông chờ vào hỗ trợ của nhà nước đểnuôi ăncho các emhọcsinh”.
Hailà, phương thứchỗ trợhiệntại được cho là không hợp lý ở khu vực DTTSRIN.
Theo Nghị định số 57/2017/NĐ-CP, khoản hỗ trợhọc tập còn lạitrị giá298.000 đồng sẽ được phát trựctiếp cho cha mẹ hoặc người giám hộ của học sinh DTTSRIN. Trong nhiều trường họp, số tiền này sẽ được sử dụngcho các mục đích khác hơn là cung cấp đồ dùng học tập, giày dép và quần áo cho học sinh. Ví dụ, một số phụ huynh DTTSRIN thậm chí đãdùng tiền mua rượu hoặc ma túy thay vì đồ dùng học tập cho con. Do đó, nhiều học sinh DTTSRIN vẫn không có được đồ dùng học tập, quần áo hoặcgiày dép cần thiết.
Balà, chương trìnhtrong sách giáokhoa mới có thể tạo ra nhiều thách thức hơn cho các em học sinh-DTTSRIN. Ông H (Hiệu trưởng, xã VàngSan, huyện Mường Tè,tỉnh Lai Châu) cho biết: “Chương trình giáo dục phổ thông áp dụng trải nghiệm nhiều hơn, và đòihỏi phát huy phẩm chất năng lực của học sinh nhiều hơn. Khi áp dụng chương trinh mới thì sẽ có những mặt hạn chế đối với nhận thức của các em vì chương trình mới áp dụng dạy học tích họp vàliên môn, thì sẽkhóhơnvới các em”.
Bốnlà, rào cảnngôn ngữ cũng thực sự là mộttrong những khó khăn lớn trong tiếp cận giáo dục phổ thông của các em học sinh DTTSRIN ở địa bàn tỉnh Lai Châu. Tiếng Việt (Kinh) là ngôn ngữ giảng dạy chính thức đượcsửdụng trong giáodục phổthông ởViệt Nam. Đốivới học sinhDTTSRIN và DTTS thì Tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai.
92,3% người được hỏi muốn được dạy học bằng tiếng dân tộc của mình (Mảng). Tuy nhiên, việc dạy học hoàn toàn bằng tiếng của người DTTSRIN dường như là điều không khả thi. Thực tế là chất lượng song ngữ ở khu vực DTTS, vàDTTSRIN còn ở mức thấp. Giao tiếpgiữa thầycôgiáo và học sinh được thựchiện bằng tiếng Việt, dễ thấy rằng học sinh sẽ khó tiếp thu bài học, dễ cảm thấy khó khăn, chánnản, dẫn đến sợđi học. 100% người đượchỏi coi tiếng Việt là ngôn ngữ được sử dụng trong giảng dạy là yếu tố tácđộng tiêu cực đến quyết định cho con đi học. 100% ngườitham giáo khảo sát coi gia đình học sinh không thạo tiếng Việt là yếu tốtác động tiêu cực ở mức đáng kể và rất nhiều đến quyết định cho con đi học.
Việc phụ huynh khôngthạo tiếng Việt cũng khiến gia đình gặp khó khăn trong trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em. Ngoài ra, các em học sinh DTTSRIN còn vừaphải học bằng tiếng Việt, học môn ngoại ngữ,lại vừaphải duy trì ngôn ngữ của dân tộc mình. Tuy nhiên, chỉ 7,7% người
301 Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhản văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
tham gia khảo sát coi môn tiếng Anh trong chương trình học làyếu tốtác động tiêu cực đến quyết định cho con đihọc. Khácvớidự đoán, tiếng Anh không được đa số người tham gia khảo sát coi như là một yếu tố cản trở quyết định cho con đi học.
Thứ tư, nhận thức vàphong tục tậpquán cũng là nhân tô ảnh hưởng đên quyêt định đi họccủahọcsinhDTTSRIN ở LaiChâu
Nhận thức của phụ huynh và học sinh người DTTSRINvề tầm quan trọngcủa giáo dục phổ thông còn hạn chế. 100% người tham gia khảo sát coi nhận thức về lợi ích của giáo dục còn chưa đầy đủ là yếu tố tác động tiêu cực đếnquyếtđịnhcho con đi học.
Chỉ có 7,7% người được hỏi thể hiện rằng họ muốn xóa mù chữ cho con em mình. Có thể thấy rõ đa số phụ huynh DTTSRIN chưa cónhậnthức đầy đủ về vai trò của giáodục.
Nhiều phụ huynh người Mảng quan niệm phải cho conở nhàgiúp bố mẹ trông em, và tham gia công việc làm nưcmg rẫy, đi rừng.
Trình độ dân trí của các DTTSRIN ở Lai Châu nói chung còn thấp, việc triển khai công tác giáo dục đốivới cácDTTSRIN còn gặp nhiều khó khăn. Ông c (Cán bộ xã Vàng San, huyện MườngTè, tỉnh LaiChâu) cho biết; “Nói thẳng thì nhận thức của phụ huynh dân tộc MảngvàLa Hủ về tầmquan trọng của giáo dục vẫn là quá thấp. Neu không có cáckhoản hỗ trợcủanhà nước thi họ sê không cho con đi học đâu”. Thêm vào đó, thái độ vàhànhvi của những người thân trong gia đình và của những người cùng
thôn bản cũng có thể là yếu tố tác động đến nhận thức của học sinh DTTSRIN. Nhiều học sinh DTTSRIN đã có hiểu biết hon nhưng chưa đầy đủ về tầm quan trọng của giáo dục, do vậy mà không coi trọng việc tiếp cận giáo dục phổthông. Tình trạng học sinh DTTSRIN nghỉ học trung học cơsở, và trung học phố thông đế đi làm, hay kết hôn vẫn diễn ra ở Lai Châu. Có thể thấy rằng phần lớn phụ huynh vàhọc sinh DTTSRIN còn chưa có nhận thức đầy đủ về tầm quan trọng củagiáodục phổ thông. Điều này trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ, quyết tâm, nỗ lực cần thiết, và chuyên cần của học sinh DTTSRIN trong tiếp cận giáo dục phổ thông. Hệ quả là, nhiều học sinh trung học cơ sở và trung học phổ thông nghỉ học để đi làm,hoặclập giađình.
Bên cạnh đó, một số tập quán của các dân tộc Cống, Mảng, La Hủ, Si La ở Lai Châu khiến con em họ khó tiếp cậngiáo dục phổ thông. Người La Hủ, cống, Mảng có lịchsử du canhdu cư lâu đời, cuộc sốngcủa họ gắn liền với rừng. 84,6% số người được hỏi cho rằngcha mẹ đi làmxanhà là yếutố ảnh hưởng tiêu cực đen quyết định chocon đi học của họ. Bêncạnh đó, 100% số người được hỏi cho rằng gia đình đông con làmột yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đếnquyếtđịnh cho con đi học của họ. Thay vì đến trường, các em nhỏ DTTSRINở nhà trôngem, hoặc theo người lớn lên rừng, lên rẫy. Thêm vào đó, do những hạn chế về nhận thức, tảo hôn vẫn làvấnđề nổi cộm đối với DTTSRIN.
Bảng 7: Tỷ lệ tảo hôn ở DTTSRIN ở Lai Châu nám 2018 (Đơn vị: %)
Giói tính La Hủ Lự Mảng Cống
Trung bình 24,5 34,1 47,2 11,6
Nam 33,8 22,9 43,6 19,7
Nữ 17,9 43,7 49,9 9,7
(Nguồn: ủy ban Dán tộc 2019)
Bảng 7 cho thấỵ tỷ lệ tảo hôn ở La Hủ, 34,1%, 46,2%, và 11,6%. Tỷ lệ tảo hôn ở Lự, Mảng, và Cống lần lượt là 24,5%, dân tộc Mảng chiếm tỷ lệ trung bình cao
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng nanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhàn văn, Tập 8, sổ 3 (2022) 290-304 302
nhất là 47,2%, trong đó nữ giới có tỷ lệ tảo hôn cao hơn nam ở mức 49,9% (ủy ban Dân tộc 2019). 100% người tham gia khảo sát coi phong tục kết hôn sớm là yếu tố tác độngtiêu cựcđến quyết địnhcho con đi học.
Bà H (Giáo viên, xã Vàng San, huyện Mường Tè, tỉnh Lai Châu) cho biết: “Tảo hôn vẫn cứ xảy ra, có trường họp đang học trung học cơ sở cũng bỏ đi lấy chồng, học hết trung học cơsở cũng đi lấy chồng. Hầu như các em học hết trung học cơ sở rồi đi làm thuê, làm công nhân để giúp tăng thu nhập gia đình. Đi học trung học phổ thông chắcđếmtrênđầu ngón tay”.
4. Hàm ý chính sách tàng cường tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRINử Lai Châu
Một là, xây dựng xã hội học tập bắt đầu từ chính các gia đình DTTSRIN. Có lẽ,thay đổi nhận thức của các bậc phụ huynh, gia đình DTTSRIN về vai trò của giáo dục là một trong nhữngviệc làm cần thiết đe từng bướcthay đối hành vi đầu tư cho giáo dục.
Trong đó, xóa mù chữ, giảm thiểu tệ nạnxã hội ở phụ huynh người DTTSRIN là nhiệm vụ cơ bản. Chính quyền địa phương nên triển khai các lớp xóa mù chữ cho phụ huynh là người DTTSRIN trên địa bàn.
Thực tiễn cho thấy, có mối liênhệ giữa việc phụ huynh học sinh DTTSRIN không thể giao tiếp tốt bằng tiếng Việt, có lối sống lành mạnh,không mắc tệnạn xã hộivới việc học tập của con cái. Việc phụ huynh học sinh DTTSRIN sử dụng tốt cả tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt trong giao tiếp hàng ngày, không nghiện ma túy, không nghiện rượu góp phần tạo ra môi trườngtích cực, khuyến khíchvà tạo động lực họctập cho chính con cái họtrong hiệntại và tương lai.
Hai là, về chính sách phát trien đội ngũ nhà giáo. Phát triển và nâng cao chất lượng độingũ giáo viênvà cán bộ quản lý giáo dục
vùng DTTSRIN là chính sách quan trọng đối với giáo dục DTTS. Đe đảm bảo đủ số lượngvà chất lượng giáo viên cho từng cấp học, môn học, tỉnh Lai Châu nghiên cứu có những chính sách đặc thù trong tuyển dụng, sử dụng giáo viên. Tiêu chuẩn, tiêu chí tuyển dụng ngoài đáp ứng các quy định chungcần nhấnmạnh đếnnhững tiêu chuẩn, tiêu chí về amhiểuđịaphương, am hiểu văn hóa, phong tục, lối sống của học sinh DTTSRIN trong tỉnh. Tỉnh Lai Châu cần đấymạnh công tác tạo nguồncánbộ quản lý giáo dục, giáo viên là người DTTSRIN. Họ sẽ là nguồn nhân lực cốt lõi đóng vai trò không thế thiếu trong sự phát triển lâu dài của giáo dục DTTS tỉnhLai Châu nói chung và các DTTSRIN nóiriêng.
Ba là, về chính sách phát triển hạ tầng giáo dục phổ thông. Trước mắt, tỉnh cần rà soát, đánh giá lại quy hoạchmạng lưới, quy mô các trường/điểm trường phổ thông, phổ thông dân tộcbán trú,phổ thông dân tộc nội trú phù hợpvới điều kiện, trìnhđộphát triển kinh tế - xã hội, phong tục, tập quán của đồng bào DTTSRIN. Ngoài ra, tỉnh cần đầu tư để kiên cố hóa,đảmbảo trangthiết bị dạy và học tối thiểu tại các điểmtrường ở các bản vùng sâu, vùng xa. về lâu dài, để khắc phục tình trạng chồng chéo, phân tán, ban hànhnhiều vănbản chính sách, nhiều hướng dẫn, khó khăn khi tổ chức thực hiện, tỉnh cần nghiên cứu và có giải pháp cụ thể để tích họp chính sáchphát triển giáo dục phổ thông DTTSRIN với các chính sách phát triển kinhtế - xã hộiđối với vùng DTTS và miềnnúitrênđịa bàn tinh.
Bốnlà, về chính sách hỗ trợ học sinhđến trường. Thực tế cho thấy, khoảng cách từ nhàđến các trường trung họccơ sở và trung họcphổ thông rất xa là một rào cản đáng kể trong việc tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN. Do vậy, tinh cần nghiên cứu cung ứng các dịch vụ giao thông công cộng phù họp với địa hình, nhu cầu để giúp
303 Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304
học sinh các DTTSRIN có điều kiện đến trường tốt hơn.
Mặc dù đa số giáo viên ở Lai Châu đã được bồidưỡng về ngônngữ củaDTTSRIN ở mức độ giao tiếp cơ bản, nhưng việc sử dụng ngôn ngữ của người DTTSRIN trong các hoạt động trên lớp để hỗtrợ và giải thích bài học cho học sinh còn khó khăn. Vì vậy, một mặt tinh cần có chính sách cụ thể để khuyến khích những giáo viên có kinh nghiệmtrong giảngdạy học sinh DTTSRIN đến các địa bàncó đồng bào DTTSRIN sinh sống. Mặt khác, tỉnh cũng cần có giải pháp cho việc đào tạo, bồi dưỡngnhằmnâng cao khảnănggiaotiếp, sử dụng tiếng DTTSRIN của đội ngũ giáoviên phổ thông với sự hỗ trợ trực tiếp của chính quyền địa phương, ngườicó uy tín trongcộng đồng.
5. Kết luận
Nghiên cứu về tiếp cận giáo dục phổ thôngcủa học sinh DTTSRIN ở Lai Châuvà một số hàm ý chỉnh sách dựa trên cơ sở lý luận về quyền tiếp cận giáo dục của mọi người để chỉ ra thực trạngtiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN trên địa bàn tỉnh Lai Châu. Trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến những rào cản về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội, hạn chế trong chính sách giáo dục phổ thông, khoảng cách đến trường, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, nhận thức về giá trị của giáo dục phổ thông, ngôn ngữ, các tập quán và vấn đề tảo hôn,v.v. đối với việctiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN ở Lai Châu. Cáchàm ý chínhsách nhàm cải thiện tiếp cận giáo dục phổ thông của học sinh DTTSRIN ở tỉnh Lai Châu, Việt Nam trước hết, cần tập trung tăng cường nhận thức vềtầm quan trọng của giáo dụccho các VSEM; chính phủ cũng cần hoàn thiện
chính sách hỗ trợ giáo dục phổ thông cho học sinh DTTSRIN; và tỉnh Lai Châu cặn xây dựng các chính sách đặc thù về nguồn nhân lực giáo dục phổ thông cho khu vực DTTSRIN.
Tài liệutrích dẫn
Ban Chấp hành Trung ương. 2013. Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 04 tháng 11 năm 2013 về
“Đôi mới căn bàn, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điểu kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế HàNọi.
Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. 2017. Nghị định số 57/2017/ND-CP ngày 09/5/2017 quy định chính sách ưu tiên tuyển sinh và hỗ trợ học tập đối với trẻ mẫu giáo, học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số rất ít người.
Dekker, D., và Young, c. 2005. Bridging the gap:
The development of appropriate educational strategies for minority language communities in the Philippines. Current Issues in Language Planning, 6 (2), 182-199.
Hội đồng Nhân dân tỉnh Lai Châu. 2016. Nghị quyết số 35/2016/NQ-HĐND ngày 28/7/2016 quy định chính sách hỗ ượ kinh phí tổ chức nấu ăn tập trung cho ưẻ em mầm non, học sinh phổ thông ở bán trú tại các cơ sở giáo dục công lập trên địa bàn tỉnh Lai Châu.
Nguyễn Đình Tuấn. 2020. Opportunities to Access to General Education of Children Living in Poverty Families in Ethnic Minority in Vietnam Nowadays. Asian Social Science, 16(6), 43.
Nguyễn Thị Hang. 2018. Thực trạng, nguyên nhân, và giải pháp của vấn đề binh đẳng giáo dục ở Việt Nam qua một số nghiên cứu. Tạp chí Giáo dục, 6, 302-305.
Phạm Thị Phương Thái. 2020. Những giải pháp cơ bản cấp bách nham nâng cao chinh sách dân tộc giai đoạn 2011-2015. Hà Nội: ủy ban Dân tộc.
Nguyễn Văn Chiều, Hoàng Thanh Lịch / Tạp chi Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tập 8, số 3 (2022) 290-304 304
Tomasevski, K. 20ũ\. Human rights obligations:
making education available, accessible, acceptable and adaptable. Right to education primers 3: 19-42.
Tổng cục Thống kê. 2020. Kết quà toàn bộ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở năm 2019. Hà Nội:
Nhà xuất bản Thống kê.
Triệu Quang Thanh. 2018. Ethnic Disparities in Education in Vietnam (Doctoral dissertation, the Pennsylvania State University).
ùy ban Dân tộc. 2016. Ket quả điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dần tộc thiêu số năm 2015.
Hà Nội: Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc.
ủy ban Dân tộc. 2019. Ket quá điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiêu số năm 2019.
Hà Nội: Nhà xuất bàn Văn hóa dân tộc.