Văn hóa & nguồn lực
ỏố 1 (29)/2022TPẤCH NHIỆM ẤÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP VÀ VĂN HÓA: NGHIÊN cứu TổNG QUÁT TÙ CHÂU Á
ThS. Dương Minh Thọ
Tóm tắt:
Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (TNXHDN) là khái niệm ngày càng quen thuộc với các doanh nghiệp ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên quả trình du nhập và triển khai các tiêu chuẩn TNXHDN đã gặp những thách thức nhất định ớ các quốc gia châu A, do bởi những khác biệt văn hỏa, vì TNXHDN vỏn có nguôn góc từ các quốc gia phương Táy. Bài viết này là một nỗ lực trình bày vai trò của văn hóa đối với TNXHDN trong bối cảnh các quốc gia châu A. Trên cơ sở tông quan các công trình nghiên cứu tại một số quốc gia châu A, bài viết khái quát vai trò của văn hóa đoi với TNXHDN nói chung, cụ thể là Nho giáo và Phậ giáo nói riêng đối với một sổ quốc gia cụ thể. Một sổ đề xuất cũng được đưa ra đế góp phần xây dựng lý luận và thực hành TNXHDN trong bối cành văn hóa Việt Nam.
Từ khóa: Châu A, Nho giáo, Phật giáo, trách nhiệm xã hội doanh nghiệp, văn hóa
trường và xã hội, đàm bão tuân thủ các chuẩn tắc đạo đức kinh doanh và xă hội v.v...2
Tuy nhiên, so với các quốc gia phương Tây, các tiêu chuẩn TNXHDN dường như vẫn gặp những thách thức trong công tác triến khai ở những quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam do những yếu tố khác biệt về thê chế, xã hội cũng như cách thức mà các doanh nghiệp vận hành 3.
Những khác biệt này đến từ thực tế rằng, các lý luận và thực hành TNXHDN vốn có nguồn gốc từ các quốc gia Âu-Mỹ và được triển khai ngay từ những thập kỷ đầu cùa thế kỷ trước, trong khi đó, các doanh nghiệp ở châu Á chỉ mới bắt đầu quan tâm đến vấn đề này từ những năm đầu thế kỷ 214. Mặt khác, dù các quốc gia châu Á ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới thông qua quá trình toàn cầu hóa, nhưng hệ thống các quy định
TẠP CHÍ CỦA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỒ CHÍ MINH 73
1. Đặt vấn đề
Khái niệm trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (corporate social responsibility, CSR hoặc TNXHDN) đã dần trở nên quen thuộc với các doanh nghiệp châu Á nói chung và ở Việt Nam nói riêng1. Dù có nhiều định nghĩa TNXHDN và chưa có định nghĩa nào được công nhận rộng rãi trên phạm vi toàn cầu như phần tiếp theo của bài viết này sẽ trình bày, nhìn chung TNXHDN có thể hiểu là việc doanh nghiệp cam kết thực hiện các hoạt động kinh tế và phi kinh tế của mình với sự cân nhấc cao nhất đến các tác động và lợi ích đối với môi trường, cộng đồng và xã hội mà doanh nghiệp đang hoạt động. Các cam kết này có thể thể hiện qua các hoạt động từ thiện xã hội, phúc lợi nhân viên và cộng đồng, phát triển bền vững cho môi
ồố 1 (29)/2O22
pháp luật vẫn còn mang nhiều đặc thù của từng quốc gia cụ thể. Quan trọng hơn nữa, đó là các tổ chức và chính phủ của các quốc gia này vẫn ngần ngại không muốn phải tuân thủ những chuẩn mực không phù họp với các giá trị và nguyên tắc đạo đức của mình5.
Trước thực tiễn đó, các nhà nghiên cứu, cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp ở các quốc gia châu Á đã đưa ra những sáng kiến ở nhiều cấp độ đê từng bước xây dựng TNXHDN trong một bối cảnh mang tính chất bản địa, một mặt vẫn tương thích với các chuẩn mực quốc tế, mặt khác phù hợp với những yếu tố đặc trưng của văn hóa quốc gia cũng như những yếu tố tác động mang tính đặc thù của thực tiễn trong nền văn hóa đó. Các công trình nghiên cứu ở các quốc gia châu Á thảo luận nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn của TNXHDN trên nhiều khía cạnh như đặc điểm của TNXHDN ở các quốc gia châu Á 6’7-8’9, quá trình triển khai các hoạt động liên quan đến TNXHDN10, kỳ vọng của cá nhân và xã hội đối với các hoạt động TNXHDN11, tác động của TNXHDN12, nhận thức của doanh nghiệp về TNXHDN13, hoặc ứng dụng ở các quốc gia cụ thể 14'15'16.
Mặc dù thảo luận nhiều vấn đề khác nhau, nhưng các nghiên cứu này đều nhấn mạnh đến yếu tố đặc trưng văn hóa đã làm cho TNXHDN ở các quốc gia này có những đặc điểm vừa tương đồng vừa có những khác biệt so với nhận thức, lý luận và thực tiễn TNXHDN ở các nước phương Tây17.
Như vậy có thể nói, để TNXHDN thực sự được ủng hộ, tiếp thu và thực hiện một cách tự nguyện và hiệu quả trong hoạt động doanh nghiệp thì vấn đề này cần được xem xét từ góc độ giá trị văn hóa của quốc gia, cộng đồng và cá nhân của người lãnh đạo tổ chức. Từ đó những học giả nghiên cứu và người thực hành TNXHDN có thể vận
74
Văn hóa & nguồn lực
dụng những yếu tố hữu cơ có sẵn trong văn hóa quốc gia để mang các khái niệm và thực hành TNXHDN đến gần hơn với nhận thức của doanh nghiệp cũng như xây dựng những bộ khung phù họp, vừa đáp ứng các chuẩn mực quốc tế vừa thể hiện được những yếu tố đặc sắc của một nền văn hóa trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay.
Bài viết là một nghiên cứu tổng quan tập họp các công trình nghiên cứu về TNXHDN ở các quốc gia châu Á bao gồm Trung Quốc, Hàn Quốc, Sri Lanka và Thái Lan trong hơn mười năm trở lại đây. Trên cơ sở tổng họp, so sánh và phân tích những nghiên cứu về TNXHDN đã có, bài viết khái quát một số đặc điểm của TNXHDN trong bối cảnh cảnh châu Á, đặc biệt nhấn mạnh đến văn hóa như một yếu tố đặc trưng mà nếu các nhà thực hành TNXHDN có thể vận dụng thì sẽ tạo được những lợi thế rất lớn trong triển khai các hoạt động này trong bối cảnh các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
2. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là gì?
Cho đến nay, cùng với quá trình toàn cầu hóa dẫn đến TNXHDN trở thành một xu hướng toàn cầu, ngày càng có nhiều cách hiểu về TNXHDN. Carroll (2008) đã tổng kết một cách hệ thống quá trình hình thành và phát triến của các khái niệm TNXHDN. Theo đó, trong công trình mang tính khai phá của mình, Bowen (1953) đã đưa ra một trong những định nghĩa đầu tiên về TNXHDN, là:
“Trách nhiệm xã hội là những nghĩa vụ của doanh nhân để theo đuổi những chính sách, ra những quyết định, hoặc thực thi những hành động mong muốn phục vụ những mục tiêu và giá trị của xã hội,” 18
TẠP CHÍ CỦA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH
Văn hóa & nguồn lực
Bowen còn cho rằng, dù cho TNXHDN không cung cấp câu trả lời cho mọi vấn đề xã hội mà các doanh nghiệp gặp phải, thì việc có TNXHDN là một định hướng đúng đắn cho hoạt động doanh nghiệp. Với công trình mang tính khai phá cung cấp định nghĩa đầu tiên một cách có hệ thống của mình, Howard R. Bowen được xem là cha đẻ của khái niệm TNXHDN.
Trong suốt những thập niên sau đó, cùng với quá trình đưa TNXHDN ngày càng sâu rộng vào thực tiễn quản lý và vận hành của doanh nghiệp ở Mỹ, định nghĩa TNXHDN cũng ngày càng đa dạng. Trong những năm 1960, Keith Davis cho rằng: “ [TNXHDN là] những quyết định và hành động của người doanh nhăn được thực hiện với những ỉỷ do ít nhất phản nào vượt ra ngoài những lợi ích kinh tế và kỹ thuật của doanh nghiệp'''] Trong khi đó, William c.
Frederick đã cụ thể hóa TNXHDN horn khi nhận xét:
“Trách nhiệm xã hội suy cho cùng hàm ý đến một biểu hiện công khai hướng đến những nguồn lực kinh tế lẫn con người của xã hội và sự sẵn sàng sử dụng những nguồn lực đó có những mục đích vì xã hội nói chung, thay vì chỉ gói gọn một cách hạn hẹp trong những lợi ích của cá nhân hay doanh nghiệp.”20
Một tác giả nổi tiếng khác là Clarence c.
Walton đã chỉ ra vai trò quan trọng của cá nhân các nhà quản lý trong thực hành TNXHDN khi định nghĩa:
“Nói ngắn gọn, khái niệm TNXH ...
ghi nhận mối quan hệ mật thiết giữa doanh nghiệp và xã hội và từ đó cho rằng mối quan hệ này phải luôn nằm trong sự quan tâm của các lạnh đạo cao nhất của doanh nghiệp xuyên suốt quá trình doanh nghiệp và các bên
ổố 1 (29)/2O22 liên quan của mình theo đuổi các mục tiêu đã đề ra.”21
Đen những năm 1970’s các định nghĩa đã mở rộng và cụ thể hóa các đối tượng liên quan đến bức tranh TNXHDN của các doanh nghiệp. Một trong những tác giả tiên phong trong giai đoạn này là Harold Johnson đã định nghĩa:
“Trong một doanh nghiệp có trách nhiệm với xã hội thì lãnh đạo doanh nghiệp cần phải cân bằng một lúc nhiều lợi ích. Thay vì chỉ nhắm đến lợi nhuận cao hơn cho các cổ đông của mình, thì một doanh nghiệp có trách nhiệm cần phải xem xét đến cả lợi ích của người lao động, nhà cung cấp, nhà phân phối, cộng đồng địa phương và trên hết là quốc gia.”22
Từ những năm 1970 cho đến cuối những năm 1990, hàng loạt định nghĩa về TNXHDN tiếp tục -ra đời tiếp tục mở rộng các phạm vi trách nhiệm xã hội mà doanh nghiệp cần bao quát cũng như cụ thể hóa hơn những nhóm đối tượng mà các doanh nghiệp cần xem xét đến trong quá trình hoạt động của mình, đặc biệt trong bối cảnh các công ty đa quốc gia hoạt động mạnh mẽ hơn ở các nước đang phát triển. Business for Social Responsibility (BSR), một tổ chức phi lợi nhuận hướng đến các sáng kiến và chương trình TNXHDN ra đời năm 1992, xem TNXHDN là một lĩnh vực bao quát cả các khía cạnh đạo đức kinh doanh, đầu tư cộng đồng, môi trường, quản trị, trách nhiệm giải trình của doanh nghiệp, quyền con người, thị trường và môi trường làm việc. Theo đó,
“TNXHDN được xem là một tống thế toàn diện bao gôm các chính sách, thực hành và chương trình triên khai được tích hợp vào trong các quá trình vận hành của doanh nghiệp, chuôi cung ứng, và các quá trình ra
TẠP CHÍ CỦA ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH 75
ổố 1 (29)/2O22
quyết định xuyên suót trong nội bộ doanh nghiệp."23
Bước vào thế kỷ 21, TNXHDN bước vào giai đoạn mang tính thực hành thay vì thiên về lý luận như giai đoạn trước24, vì vậy khái niệm này, một mặt được định nghĩa lại một cách cô đọng horn, mặt khác được thể chế hóa thành những quy định liên quan đến hoạt động doanh nghiệp. Trong “Chiến lược mới của Liên minh châu Âu về TNXHDN 2011-2014”, TNXHDN được định nghĩa là
“trách nhiệm của các doanh nghiệp đối với tác động của mình tạo ra với xã hội ”, đê thực hiện được điều này trước tiên các doanh nghiệp cần phải tôn trọng các quy định pháp luật, cũng như các thỏa thuận chung giữa doanh nghiệp và các đối tác trong xã hội.
Điều này có nghĩa là các doanh nghiệp cần tích họp các mối quan tâm về xã hội, môi trường, đạo đức, quyền con người, và khách hàng vào trong các hoạt động của mình cũng như là các chiến lược kinh doanh cốt lõi đi cùng với mối quan hệ mật thiết với các bên liên quan. Mục tiêu của thực hiện các hoạt động TNXHDN là nhằm để một mặt đạt được tối đa các giá trị chia sẻ giữa một bên là doanh nghiệp một bên là các thành phần liên quan trong xã hội; mặt khác là đê xác định, phòng ngừa và giảm thiểu các tác động không mong muốn có thể xảy ra25.
Như vậy có thể thấy TNXHDN mặc dù đã được định hình và phát triển ưong gần 70 năm qua nhưng đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất bao quát hết được tất cả những khía cạnh trách nhiệm đối với xã hội ưong quá trình hoạt động của doanh nghiệp26.
Tuy nhiên, từ những định nghĩa đã nêu, có thể thấy được, TNXHDN tựu trung lại nhấn mạnh đến lợi ích toàn diện của các bên liên quan cả trực tiếp lẫn gián tiếp đến doanh nghiệp và các hoạt động doanh nghiệp. Nói cách khác đó là
Văn hóa & nguồn lực
mục tiêu hướng đến sự phát triển chung của cả xã hội. Chính giá trị cốt lõi này khiến cho TNXHDN thực sự là một khái niệm phù họp với các nền văn hóa châu Á, dù cho trong thực hành có những sự chênh lệch giữa những tiêu chí TNXHDN vốn được xây dựng dựa trên các giá trị văn hóa phưorng Tây với những tư tưởng, tập quán và văn hóa kinh doanh đặc trưng châu Á 27.
3. Văn hóa và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp
Văn hóa là một trong những khái niệm có nhiều định nghĩa đa dạng tùy thuộc vào những lình vực cụ thể. Trong các công trình nghiên xứu về TNXHDN, văn hóa được định nghĩa là “...sự lập trình tập thê của quan niệm nhằm phân biệt những thành viên cùa một nhóm người này với một nhóm người khác ”28 hoặc “các giả trị, niềm tin, chuăn tắc xã hội và hành vi của các nhóm mang tính chất quốc gia - dán tộc’’29, mỗi quốc gia có một nền văn hóa đặc trưng được xác định bởi
“các véu tô tâm linh, niêm tin, hệ giá trị và các nghi lễ cùng được chia sẻ”3ữ. Như vậy trong bối cảnh các hoạt động doanh nghiệp thì văn hóa có thể được hiểu là văn hóa quốc gia, là những đặc điểm làm nên sự khác biệt giữa các nhóm thuộc quốc gia này với các cộng đồng thuộc các quốc gia khác.
Trong quá trình toàn cầu hóa, văn hóa vẫn có vai trò rất quan trọng trong các hoạt động doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là đối với các hoạt động TNXHDN. Sở dĩ nói như vậy là vì các thực hành TNXHDN du nhập vào các quốc gia đang phát triển trong đó Việt Nam trước tiên thông qua các công ty đa quốc gia triển khai các hoạt động sản xuất sang các quốc gia châu Á, sau đó là đến các đối tác địa phương của họ cũng được yêu cầu phải áp dụng các bộ tiêu chuẩn tương tự trong hoạt động sản xuất để có thể đáp ứng
7G TẠP CHÍ CỦA ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HỎ CHÍ MINH
Vàn hóa & nguồn lực
các yêu cầu xuất khẩu sang các nước phát triển31. Vì vậy trong môi trường sản xuất và kinh doanh mang tính chất quốc tế, sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia thể hiện rõ ràng hơn khi mà văn hóa doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi cả những yếu tố văn hóa của công ty mẹ từ các quốc gia phát triển lẫn các yếu tố văn hóa địa phương ở các quốc gia mà các công ty này hoạt động. Sự tồn tại song song hai nhóm yếu tố văn hóa này khiến cho các doanh nghiệp phải dung hòa những sự khác biệt để có thể vừa thỏa mãn các tiêu chuẩn quốc tế vừa phù hợp với những giá trị văn hóa của một quốc gia phản ánh qua niềm tin, tâm linh, hệ giá trị và những nghi lễ. Neu doanh nghiệp có thể kết hợp một cách hài hòa các thực hành quốc tế với các giá trị văn hóa truyền thống thì họ sẽ duy trì sự truyền thông tốt hơn với khách hàng của mình ở chính thị trường đó32.
Đối với các hoạt động TNXHDN, đã có nhiều công trình nghiên cứu chỉ ra vãn hóa quốc gia là một trong những yếu tố quan trọng dần đến sự khác biệt trong nhìn nhận về động lực, ý nghĩa và hiệu quả của những hoạt động này giữa các doanh nghiệp và tổ chức phương Tây với các doanh nghiệp, cộng đồng và chính phủ các quốc gia đang phát triển nơi mà các tiêu chuẩn TNXHDN hiện đại chỉ mới được du nhập vào từ giữa những năm 199033. Hơn nữa sự khác biệt văn hóa giữa các quốc gia còn tác động đến nhận thức của người tiêu dùng về vai trò của doanh nghiệp cũng như mối quan hệ giữa xã hội, doanh nghiệp và chính quyền. Chính nhận thức này cùa người tiêu dùng về hoạt động doanh nghiệp tác động đến việc truyền thông và triển khai các hoạt động TNXHDN34.
Vì vậy có thể nói việc nhận thức các yếu tố văn hóa đặc trưng có vai trò rất quan trọng trong việc tiếp cận, áp dụng và triển khai các hoạt động TNXHDN trong bối cảnh
i TẠP CHÍ CŨA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH
ổố 1 (29)/2O22 toàn cầu hóa khi mà các doanh nghiệp không chỉ hoạt động trong nội bộ quốc gia mình mà còn ở các quốc gia khác, nơi mà sự khác biệt văn hóa sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của hoạt động doanh nghiệp cũng như các hoạt động TNXHDN. Bên cạnh đó, nếu xác định được các yếu tố TNXHDN từ ngay chính trong các giá trị văn hóa đặc trưng của mỗi quốc gia, thì khái niệm này sẽ được nhìn nhận và truyền thông một cách gần gũi hơn đến với các cộng đồng địa phương, từ đó tăng cường hiệu quà của các hoạt động TNXHDN vượt ra bên ngoài những thực hành hiện nay ở nước ta, vốn thường gói gọn trong các hoạt động mang tính chất từ thiện35.
4. Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp và các giá trị văn hóa châu Á
4.1. Nho giáo và TNXHDN châu A Sự trỗi dậy của các nền kinh tế châu Á và đi cùng với nó là quá trình gia tăng hoạt động của các tập đoàn đa quốc gia từ các quốc gia phương Tây lẫn sự vươn mình ra các hoạt động quốc tế của các doanh nghiệp châu Á đã thúc đẩy các hoạt động tăng cường TNXHDN ngày càng mở rộng về quy mô lẫn sự đa dạng nham đáp ứng các yêu cầu đặt trong hoạt động kinh tế của doanh nghiệp cùng các tác động đến các cộng đồng có liên quan. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp châu Á trong giai đoạn đầu thường áp dụng rập khuôn các tiêu chuẩn TNXHDN của phương Tây, cố gắng bắt kịp các thực hành chuẩn mực và diễn đạt những hoạt động TNXHDN của mình theo cách thức phù hợp với các bộ tiêu chuẩn do các tổ chức quốc tế đặt ra36. Mặc dù vậy, cách tiếp cận rập khuôn này không xem xét, hoặc xem xét rất ít đến những yếu tố văn hóa cũng như thực tiễn hoạt động doanh nghiệp ở các quốc gia châu Á dẫn đến việc thiếu hiệu quả trong các hoạt động TNXHDN trong thực tế37. Đối diện với
77
ỏố 1 (29)/2O22
thực tế này, một nhu cầu được đặt ra là phải nghiên cứu và phân tích các yếu tố đặc trưng văn hóa và mối liên hệ của nó đối với các hoạt động TNXHDN nhằm chi ra những khía cạnh phổ quát của TNXHDN tồn tại khách quan trong các nen văn hóa khác nhau, nhưng hiện đang bị che lấp đi bởi những khái niệm hay bộ tiêu chí vòn được các tô chức phương Tây khởi xướng.
Phoon-Lee (2006) đã chi ra sự tương đồng cùa khái niệm “nhân” ((“) và “hòa” (íũ ) trong văn hóa cổ truyền Trung Quốc với các giá trị văn hóa phưcmg Tây nói chung và các khía cạnh của TNXHDN nói riêng38. Theo đó, “nhàn” hay “ái nhân” (iSA), được xem quan niệm tổng hòa cả tam giáo (Nho, Phật, Lão) lấy quan niệm Nho giáo làm trung tâm nhấn mạnh đến mối quan hệ giữa người với người trên cơ sở sự yêu thương và tôn trọng, điều này khá tương đồng với quan niệm “yêu người” trong truyền thống Cơ đốc giáo. Đức nhân phải qua quá trình tu dưỡng mới đạt được, là đức tính đứng đầu bao hàm các phẩm chất như lễ (ĩpl), nghĩa (H), trí (W) và tín ({§■). Người có đức nhân sẽ yêu thương mọi người như chính bản thân mình và điều này là vô cùng quan trọng trong hoạt động doanh nghiệp, bởi lè người dửng đàu doanh nghiệp nếu được trang bị những giá trị
“nhân” theo tinh thần Nho giáo nhìn nhận các hoạt động TNXHDN với những hiểu biết sâu sắc và mang tính thực chất hơn thay vì chì là những khẩu hiệu sáo rồng. Thêm vào đó, “tu, tề, trị, bình” còn hàm ý sự tu dưỡng của cá nhân là nền tảng cho sự tốt đẹp của xã hội.
Khi một người tôn trọng chính mình và người khác thi người ấy sẽ không làm tổn hại người khác và môi trường xung quanh và đi xa hơn nữa là cổ vũ cho sự công bằng xã hội.
Những giá trị này phù hợp với các tiêu chí TNXHDN trong lao động cũng như trong mối quan hệ giữa sản xuất với môi trường.
Văn hóa & nguồn lực
“Hòa” cũng có mối quan hệ với
“nhân”, bởi lẽ khi đã thương yêu con người, hoặc nói theo ngôn ngừ cùa TNXHDN là
“đặt con người làm ưu tiên hàng đầu”
(putting people first) thì doanh nghiệp phải quan tâm đến sự hài hòa giữa những lợi ích kinh tế chính đáng của mình với những mối quan tâm chung cùa xã hội hướng đen một sự cân bằng trật tự xã hội trên nền tảng của chân lý, công lý, tình yêu thương và tinh thần tự do. Việc đạt được sự hài hòa này rất quan trọng. Vì trong quan niệm cổ truyên Trung Hoa, khi mất đi sự cân bằng trong thân thể thì con người sẽ gặp phải bệnh tật, tương tự như vậy một doanh nghiệp nếu không đạt được sự cân bằng này thì cũng sẽ dẫn đến những hệ lụy lâu dài về sau39.
Wang và Juslin (2009) còn đi xa hơn khi cho rằng những giá trị TNXHDN đã tồn tại từ lâu trong những hoạt động kinh doanh từ thời cổ đại ở Trung Quốc40 Tử cống, một trong những môn đệ đắc ý nhất của Khống Tử, có thể xem là thương nhân đầu tiên thể hiện đầy đủ các giá trị Nho giáo. Ông đã vận dụng các giá trị “tín” và “nghĩa” trong kinh doanh hướng đến phát triển mối quan hệ kinh doanh mang tính chất hài hòa và có trách nhiệm với xã hội. về sau đội ngũ thương nhân tiếp cận với Nho giáo vẫn tiếp tục phát huy những giá trị Khổng giáo trong hoạt động kinh doanh của mình làm nên danh tiếng của những thế hệ doanh nhân trong lịch sử Trung Quốc. Từ đó các tác giả cho rằng chính những giá trị Nho giáo là mảnh đât màu mỡ nuôi dưỡng các giá trị TNXHDN ở Trung Quốc hr xa xưa. Các nghiên cứu gần đây cũng cho thấy sự ảnh hưởng cùa các giá trị Nho giáo đến cách mà xã hội Trung Quốc nói riêng và các xã hội chịu ành hưởng của văn hóa Trung Hoa nói chung nhìn nhận về TNXHDN. Khi khảo sát thông điệp của các CEO trong 100 báo cáo TNXHDN cùa
78 TẠP CHÍ CỦA DẠI HỌC VĂN HỎA TP. Hồ CHÍ MINH
Văn hóa & nguồn lực
những doanh nghiệp hàng đầu ở châu Âu, Mỹ và châu Á, Gatti và Seele (2015) đã chỉ ra các doanh nghiệp ở Trung Quốc, Hong Kong, Singapore và Đài Loan đều nhấn mạnh đến yếu tố “hài hòa” (harmony), vốn xuất phát từ quan niệm “hòa” của Nho giáo như đã nói ở trên, như là một thành tố quan trọng làm nên TNXHDN, trong khi đó yếu tố này hoàn toàn thiếu vắng trong các báo cáo TNXHDN của các công ty ở phương Tây.
Điều này cho thấy một mặt TNXHDN có những giá trị phổ quát xuyên suốt trong nhiều nền văn hóa, nhưng ở mỗi quốc gia nhất định vẫn có những yếu tố đặc trưng nổi bật41.
Các giá trị Nho giáo còn có những ảnh hưởng trực tiếp đến nhận thức của các bên liên quan khác trong mối quan hệ với các hoạt động TNXHDN, đặc biệt là với người tiêu dùng, những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp. Nghiên cứu thực chứng của Ramasamy và cộng sự (2013) đã chỉ ra mối quan hệ các giá trị Nho giáo đối với nhận thức của người tiêu dùng ở các đô thị lớn của Trung Quốc về TNXHDN42. Theo đó người tiêu dùng ở Thượng Hải và Hong Kong cho thấy họ có mức độ ủng hộ khá cao đối với việc thực hiện TNXHDN. Các giá trị của Nho giáo tác động đến nhận thức của người tiêu dùng khiến họ trân trọng những nỗ lực thực hiện TNXHDN trong hiện tại lẫn tương lai, từ đó có thái độ tích cực đối với các hoạt động này. Trong các giá trị này,
“tín” được hiểu như sự nhất quán trong tư tưởng, lời nói và hành động của doanh nghiệp được đánh giá cao, vì vậy doanh nghiệp nào thực hiện được những cam kết TNXHDN của mình sẽ nhận được sự ủng hộ ngày càng lớn của công chúng.
Không chỉ ở Trung Quốc hay các quốc gia và vùng lãnh thổ có đa số cư dân là người gốc Hoa, các giá trị Nho giáo còn ảnh hưởng đến những quốc gia lân cận có mối
TẠP CHÍ CỦA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH
ổố 1 (29)/2O22 quan hệ lâu đời trong lịch sử và văn hóa với vàn minh Trung Hoa. Kim và cộng sự (2019) khi so sánh ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa đến những kỳ vọng về TNXHDN ở Hàn Quốc và Mỹ đã nhấn mạnh đến tác động của Nho giáo đến với văn hóa Hàn Quốc, đặc biệt là tinh thần vì tập thể, tạo nên sự khác biệt so với văn hóa Mỹ vốn đề cao tính cá nhân43.
Kim và cộng sự (2013) cũng đã khảo sát ảnh hưởng của các giá trị Nho giáo đến sự khác biệt trong nhìn nhận về TNXHDN ở Hàn Quốc44. Những phẩm chất theo chuẩn mực Nho giáo được chứng minh là có ảnh hưởng sâu sắc đến cách TNXHDN được tiếp nhận và vận dụng trong các công ty hàng đầu của quốc gia này. Theo đó, mặc dù các giá trị Nho giáo như tinh thần vì cái chung, đạo đức của người quân tử, hay mối quan hệ hài hòa giữa các yếu tố là những nền tảng quan trọng để tinh thần TNXHDN được đón nhận ở Hàn Quốc, nhưng cũng từ đó mà cách nhìn nhận về các khía cạnh cũng như lý luận về TNXHDN cũng khác biệt với phương Tây.
Đơn cử như ý niệm về TNXHDN cũng góp phần vào trong hiệu quả hoạt động và kinh doanh của doanh nghiệp, vốn được xem như là một động lực của TNXHDN, ít nhiều không tương đồng với quan niệm của Nho giáo về người quân tử vốn đề cao chính nghĩa và xem theo đuổi lợi ích là đặc điểm của kẻ tiểu nhân. Hoặc bản chất của động cơ tham gia thực hiện các hoạt động phục vụ cộng đồng thể hiện TNXHDN ở Hàn Quốc xuất phát từ mong muốn gia tăng kết nối với cộng đồng đề cao tinh thần hy sinh vì tập thể, trong khi đó các hoạt động này ở phương Tây thường đi liền với nhu cầu thể hiện cá nhân và thỏa mãn bản thân. Như vậy, một mặt các yếu tố Nho giáo được chứng minh là có vai trò quan trọng làm nền tảng cho việc triển khai TNXHDN, mặt khác lại đặt ra nhu cầu cần phải nhìn nhận các tiêu chuẩn TNXHDN
79
ổố 1 (29)/2O22
theo mô hình phương Tây theo lăng kính của văn hóa địa phương, đặc biệt là với một truyền thống lâu đời như Nho giáo, xuất phát từ Trung Hoa cổ đại và có ảnh hưởng rộng lớn ở khu vực Đông Á lẫn một phần Đông Nam Á.
4.2. Phật giáo và TNXHDN ở châuÁ
Bên cạnh đó, tôn giáo với vai trò xây dựng nên đức tin và các yếu tố tâm linh, cũng được xem là một phần cùa văn hóa và có những tác động mạnh mẽ đến quan niệm và thực hành TNXHDN. Brammer và cộng sự (2007) phân tích dừ liệu về thái độ của 17.000 người từ 20 quốc gia trên 6 châu lục đã cho thấy rằng các cá nhân là tín đồ của một trong các tôn giáo lớn trên thế giới có xu hướng có sự kỳ vọng nhiều hơn vào TNXHDN45. Tuy nhiên có sự khác biệt về mức độ quan tâm của các cá nhân theo những tôn giáo khác nhau đối với các lĩnh vực cụ thể của TNXHDN. Ví dụ như đối với các trách nhiệm mang tính chất kinh tế, như từ thiện hay giúp đỡ người nghèo, có mức độ quan trọng hơn đối với các cá nhân theo các tôn giáo Islam, Cơ đốc và Hindu, vốn là những tôn giáo đề cao tinh thần lao động, nhưng lại ít quan trọng hơn đối với đạo Do Thái và đạo Phật. Trong trường hợp của đạo Phật, theo Brammer và cộng sự (2007), sở dĩ các hoạt động mang tính chất từ thiện như một phần của TNXHDN ít được xem trọng là vì tôn giáo này quan niệm sự nghèo đói phần nào là do những nghiệp xấu từ đời trước hiện tiền trong đời này nên mỗi cá nhân phải thực hành tu thân chuyển nghiệp46. Thêm nữa, hành động bố thí phải được thực hành với tâm không mong cầu thì mang lại phước báu, trong khi đó hoạt động từ thiện như thực hiện TNXHDN mang tính qua lại, có điều kiện, vì thế cũng không tạo nên thiện nghiệp cho
8Ũ
Văn hóa & nguồn lực
người thực hành. Vì vậy TNXHDN phải được bắt đầu từ chính mỗi cá nhân trong một doanh nghiệp, đặc biệt là những người đứng đầu, phải tu dưỡng tự thân để từ đó góp phần thành một tập thể có trách nhiệm với xã hội.
Nhìn chung sự ảnh hưởng của tôn giáo là một trong những đặc điểm đặc trưng của TNXHDN ở châu Á so với phương Tây47. Nghiên cứu của Perry (2012) về tác động của bối cảnh văn hóa quốc gia đối với TNXHDN ở Sri Lanka, một quốc gia có 70%
dân số theo đạo Phật, đã cho thấy sự ảnh hưởng to lớn của tôn giáo này đến nhận thức và thực hành TNXHDN48. Chính những giá trị đạo đức và tâm linh của đạo Phật, vốn hướng về sự thống nhất giữa lời nói và hành động hướng về các giá trị bình đắng, công bằng và công lý, đã xây dựng nền tảng cho TNXHDN khi các doanh nghiệp Sri Lanka tham gia gia công cho các thương hiệu toàn cầu, bởi lẽ ngay cả khi không bị bắt buộc tuân thủ các yêu cầu về TNXHDN thì những thực hành sẵn có trước đó ở quốc gia này cũng đã khá tương đồng với các chuẩn mực do các công ty đa quốc gia đặt ra. Có thể nói trách nhiệm xã hội hướng đến phúc lợi cho mọi người đã luôn sẵn có trong văn hóa Sri Lanka vốn được sự ảnh hưởng to lớn từ đạo Phật, khiến cho các doanh nghiệp ở quốc gia này xem TNXHDN là những điều hết sức tự nhiên. Ở Thái Lan, một quốc gia có nền văn hóa đậm đà bản sắc đạo Phật, các hoạt động kinh doanh cũng từ lâu được khuyến khích đi theo hướng bền vững và hài hòa. Nghiên cứu trường họp một doanh nghiệp ở Thái Lan của Suriyankietkaew & Kantamara (2019) cho thấy Triết lí nền kinh tế vừa đủ (Sufficient Economy Philosophy) được hình thành trên cơ sở các giáo huấn của đạo Phật là Tứ diệu đế và Bát chánh đạo, được thể chế hóa trong Hiến pháp Thái Lan, và được phát triển thành khung triển khai các hoạt động kinh doanh
TẠP CHÍ CỦA ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH
Văn hóa & nguồn lực
nhằm củng cố đạo đức kinh doanh cũng như là chỗ dựa tinh thần để kết nối con người, tổ chức và xã hội, đã có tác động mạnh mẽ đến hoạt động cùa doanh nghiệp hướng đến phát triển bền vững trong đó có việc triển khai hiệu quả TNXHDN49.
Ngay cà ở Trung Quốc, bên cạnh ảnh hưởng của các giá trị Nho giáo, giáo lý Phật giáo cũng ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả của nhận thức và thực hành TNXHDN. Khi tìm hiểu mối tương quan giữa vị trí địa lý của doanh nghiệp và ảnh hưởng của hai tôn giáo chính ở Trung Quốc là Phật giáo và Đạo giáo đối vối TNXHDN, Su (2019) đã chứng minh các doanh nghiệp hoạt động trong những khu vực có sự ânh hưởng sâu sắc cua hai tôn giáo trên sẽ tích cực hơn trong các hoạt động thực hiện TNXHDN do các lãnh đạo doanh nghiệp với niềm tin tôn giáo mạnh mẽ hơn sẽ ' có xu hướng hướng đến lợi ích cộng đồng nhiều hơn50. Xu hướng này thể hiện đặc biệt mạnh mẽ hơn ờ những doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực ngành nghề gây hại nhiều hơn cho môi trường, và cũng chịu ảnh hưởng của giáo lý đạo Phật hơn là những , quan niệm của Đạo giáo. Sở dĩ như vậy là vì nguyên lý “nhân quả báo ứng” của đạo Phật là động cơ thúc đẩy các lãnh đạo doanh nghiệp hoạt động trong các ngành nghề có hại cho môi trường tham gia tích cực hơn vào các hoạt động TNXHDN một khi họ nhận ra những hậu quả từ hoạt động của doanh nghiệp mình gây ra, trong khi đó quan niệm này vắng bóng trong niềm tin cùa Đạo giáo.
Như vậy, có thể nói nếu các giá trị Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến quan niệm và thực hành TNXHDN ở các Trung Quốc và ị các quốc gia có đa số cư dân là người gốc Hoa, thì đạo Phật cũng ảnh hường rộng lớn đển TNXHDN ở các quốc gia châu Á khác ở Nam Á, Đông Nam Á và bao gồm cả Trung Quốc.
TẠP CHÍ CỦA ĐẠI HỌC VĂN HỎA TP. HỎ CHÍ MINH
ổố 1 (29)/2O22 5. Kết luận
Mặc dù TNXHDN hiện đang ngày càng trở nên phổ biến hơn ở nước ta về cả mặt lý luận lẫn thực hành, nhưng trong thực tế vẫn còn một số bất cập. Các nghiên cứu trên thế giới đă chỉ ra rằng, những khác biệt về văn hóa giữa một bên là các tiêu chuẩn TNXHDN vốn được hình thành và phát triển chủ yếu ở các quốc gia phương Tây trong 50 năm qua, một bên là các quốc gia và các doanh nghiệp địa phương đang hội nhập quốc tế là những thách thức cần phải vượt qua để có thể xây dựng những lý luận và thực hành TNXHDN phù hợp với các nước đang phát triển. Vì vậy nghiên cứu TNXHDN ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam không thể tách rời yếu tố văn hóa như một động lực lẫn thách thức đối với nhận thức và triển khai các hoạt động TNXHDN.
Từ các công trình nghiên cứu trên thế giới có thể thấy được ở châu Á, đặc biệt là khu vực Đông Á và một phần Đông Nam Á, Nho giáo như một hệ giá trị và đạo Phật trong vai trò là một tôn giáo quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đến cách nhìn nhận cũng như thực hành TNXHDN. Các khái niệm nhân, lễ, nghĩa, trí, và tín của Nho giáo là nền tàng cho sự tiếp nhận các giá trị TNXHDN ở Trung Quốc cũng như các quốc gia có cư dân đa phần là người Hoa. Trong khi đó, các giáo lý Tứ diệu đế và Bát chánh đạo của đạo Phật cũng được chứng minh là có tác động tích cực đến nhận thức và thực hành TNXHDN ở Thái Lan, Sri Lanka và Trung Quốc. Như vậy có thể nói các giá trị văn hóa chủ lưu và tôn giáo có vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự thành công của việc thực thi TNXHDN ở các quốc gia châu Ả.
Những nhận xét trên cung cấp những hàm nghĩa quan trọng đối với những nghiên cứu về TNXHDN ở Việt Nam hiện nay. Thứ
81
ỔỐ1(29)/2O22
nhất, các nghiên cứu tiếp theo cần xác định rõ những giá trị văn hóa đặc thù ở nước ta có thề vừa là động lực vừa là trở lực cho TNXHDN. Thứ hai, cùng với sự phát triển ngày càng sôi động và đa dạng cùa các hoạt động tôn giáo, đặc biệt là đạo Phật, cần có những nghiên cứu chỉ ra các yếu tố nào trong giáo lý các tôn giáo có thê được vận dụng đê hình thành nên một khung lý thuyết và thực hành TNXHDN cho Việt Nam, mà hiệu quả của một khung quốc gia như thế đã được chứng minh qua trường hợp của Triết lí nền kinh tế vừa đủ của Thái Lan. Thứ ba là phát
Văn hóa & nguồn lực
huy vai trò của các cơ sờ tôn giáo trong việc tăng cường tương tác với các doanh nghiệp là tín đồ hoạt động trong phạm vi địa lý gần gũi, vai trò tích cực của tương tác này đối với hiệu quả TNXHDN cũng đã được chứng minh trong trường hợp Trung Quốc đã trình bày ở trên. Với trào lưu TNXHDN đặc trưng châu Á đang diễn ra thì yêu cầu cần phải tìm hiểu những yếu tố đặc trưng nào làm nên quan niệm đặc thù của văn hóa Việt Nam, để từ đó xây dựng nên khung TNXHDN cho nước ta được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết.
Chú thích:
1. Hoàng Ngọc Hải (2019), “Tài chính doanh nghiệp”, Tạp chí Tài chính Online-.
(truy cập ngày 30/09/2022).
https://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-kinh-doanh/trach-nhiem-xa-hoi-cua-doanh-nghiep-viet- nam-trong-boi-canh-hoi-nhap-quoc-te-310809.html
2. Bộ KHCN, (2013), Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 26000:2013 (ISO 26000:2010) về Hướng dần về trách nhiệm xã hội, Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Tiểu Ban kỹ thuật tiêu chuẩn quốc gia TCVN/TC01/SC1 Trách nhiệm xã hội, tr 8.
3. Phan, V. T., & Podruzsik, s. (2018), “CSR in Developing Countries: Case Study in Vietnam”
Management, 13(4), 287-300.
4. Carroll, A. B. (2008). A History of Corporate Social Responsibility: Concepts and Practices.
In A. Crane, D. Matten, A. McWilliams, J. Moon, & D. s. Siegel (Eds.), The Oxford Handbook of Corporate Social Responsibility. Oxford University Press, Oxford.
5. Higgins, c., & Debroux, p. (2009), “Globalization and CSR in Asia”, Asian Business and Management, 8, 125-127.
6. Bendell, J., & Ng, c. (2009), “Characteristics of Asian CSR”, Social Space, 56-61.
7. White, A. L. (2008), Cuture Matters: The Soul of CSR in Emerging Economies, Business for Social Responsibility, San Francisco.
8. Muniapan, B., & Dass, M. (2008), “Corporate Social Responsibility a philosophical approach from an ancient Indian perspective”, International Journal of Indian Culture and Business Management, 1(4), 408-420.
9. Xu, s. (2010), “Indigenous Characteristics of Chinese Corporate Social Responsibiity Conceptual Paradigm”, Journal of Business Ethics , 93, 321-333.
10. Perry, p. (2012), “Exploring the influence of national cutural context on CSR implementation”, Journal of Fashion Marketing and Management: An International Journal, 16(2), 141-160.
11. Kim, M., White, c., & Kim, C. (2019), “Examining relationships among cultural factors and expectations of CSR”, Journal of Communication Management, 23(4), 427-443.
82 TẠP CHÍ ciÍA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. Hồ CHÍ MINH
Văn hóa & nguồn lực
ỗố 1 (29)/2022 12. Abdullah, z., & Aziz, Y. A. (2013), “Institutionalizing corporate social responsibility: effectson reputation, cuture, and legitimacy in Malaysia”, Social Responsibiity Journal, 9(3), 344- 361.
13. Nguyen, M., & Truong, M. (2016), “The Effect of Cuture on Enterprise's Perception of Corporate Social Responsibility: The Case of Vietnam”, Procedia CIRP 40 (pp. 680-686).
14. Nguyen, M., Bensemann, J., & Kelley, s. (2018), “Corporate Social Responsibility (CSR) in Vietnam: a conceptual framework”, International Journal of Corporate Social Responsibility , 3(1).
15. Phan, V. T„ & Podruzsik, s. (2018). Tldd.
16. Abdullah, z., & Aziz, Y. A. (2013). Tldd.
17. Gatti, L„ & Seele, p. (2015), “CSR through the CEO's pen: Comparing CEO letters frrom CSR reports from Asia, Europe and the U.S”, uwfUmweltWirtschaftsForum, 23, 265-277.
18. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 25.
19. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 27.
20. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 27.
21. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 27.
22. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 28.
23. Carroll, A. B. (2008). Tldd, tr. 38.
24. Carroll, A. B. (2008). Tldd.
25. European Commission . (2011), A renewed EU strategy 2011-2014 for Corporate Social Responsibility, Brussels.
26. Crane, A., McWilliams, A., Matten, D., Moon, J., & Siegel, D. s. (2008), “Conclusion”, in A.
Crane, A. McWilliams, D. Matten, J. Moon, & D. s. Siegel (Eds.), The Oxford Handbook of Corporate Social Responsibility .Oxford University Press, Oxford.
27. Wang, L., & Juslin, H. (2009), “The Impact of Chinese Culture on Corporate Social Responsibility: The Harmony Approach”, Journal of Business Ethics, 88, 433-451.
28. Halkos, G., & Skouloudis, A. (2017), “Revisiting the relationship between corporate social responsibility and national culture: a quantitative assessment”, Management Decision, 55(3), tr.612.
29. Kim, M., White, c., & Kim, c. (2019), “Examining relationships among cultural factors and expectations of CSR”, Journal of Communication Management, 23(4), 427-443, tr. 428.
30. White, A. L. (2008). Tldd, tr. 3.
31. Hoàng Ngọc Hải (2019). Tlđd.
32. White, A. L. (2008). Tldd.
33. Wang, L„ & Juslin, H. (2009). Tldd.
34. Kim, M., White, c., & Kim, c. (2019). Tldd.
35. Hoàng Ngọc Hải (2019). Tlđd.
36. Bendell, J., & Ng, c. (2009). Tlđd.
37. Wang, L., & Juslin, H. (2009). Tlđd.
i TẠP CHÍ CỦA ĐẠI HỌC VĂN HÓA TP. HÒ CHÍ MINH 83
ố.ố 1 (29)/2O22
Văn hóa & nguồn lựe
38. Phoon-Lee, c. (2006), “Turning Point: Corporate Social Responsibility and Putting People First from a Chinese Cultural Perspective”, Journal of Corporate Citizenship, 22.
39. Phoon-Lee, c. (2006). Tldd.
40. Wang, L., & Juslin, H. (2009). Tldd.
41. Gatti, L., & Seele, p. (2015). Tldd.
42. Ramasamy, B., Yeung, M. c., & Chen, J. (2013), “Selling to the urban Chinese in East Asia:
Do CSR and value orientation matter?”, Journal of Business Research, 66, 2485-2491.
43. Kim, c. H., Amaeshi, K., Harris, s., & Suh, C.-J. (2013), “CSR and the national institutional context: The case of South Korea”, Journal of Business Research, 66, 2581-2591.
44. Kim, c. H., Amaeshi, K., Harris, s., & Suh, C.-J. (2013). Tldd.
45. Brammer, s., Williams, G., & Zinkin, J. (2007). Religion and Attitudes to Corporate Social Responsibility in a Large Cross-Country Sample. Journal of Business Ethics, 71, 229-243.
46. Brammer, s., Williams, G,, & Zinkin, J. (2007). Tldd.
47. Bendell, J., & Ng, c. (2009). Tldd.
48. Perry, p. (2012). Tldd.
49. Suriyankietkaew, s., & Kantamara, p. (2019), “Business ethics and spirituality for corporate sustainability: a Buddhism perspective”, Journal of Management, Spirituality & Religion.
50. Su, K. (2019), “Does religion benefit corporate social responsibility (CSR)? Evidence from China”, Corporate Social Responsibility and Environmental Management, 26(4).
CORPORATE SOCIAL RESPONSIBILITY AND CULTURE: OVERVIEW FROM ASIA Duong Minh Tho MA.
Summary:
Corporate Social Responsibility (CSR) is a concept increasingly familiar to businesses in developing countries, including Vietnam. However, the process of importing and implementing CSR standards has encountered certain challenges in Asian countries due to cultural differences and for CSR has its roots in Western countries. This article is an attempt to present the role of culture in CSR in the context of Asian countries. On the basis of an overview of research works in a number of Asian countries, the article outlines the role of culture in CSR in general, specifically Confucianism and Buddhism in particular for some specific countries. Some proposals are also made to contribute to the development of CSR theory’ and practice in the Vietnamese cultural context.
Keywords: Asia, Confucianism, Buddhism, corporate social responsibility, culture
84 TẠP CHÍ CỦA DẠI HỌC VĂN HÓA TP. HÒ CHÍ MINH