VÀN HÓA - LỊCH sử
QUÁ TRÌNH NƯỚC MỸ GIẢI QUYẾT TRANH CHẨP LÃNH THỒ VỚI TÂY BAN NHA
Ở KHU Vực TÂY NAM (1783-1795)
Lê Thành Nam*
* Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế
Dương Thị Thiên An*
Tóm tắt: Nước Mỹ khi vừa mới giành độc lập (1783) đã phải đối mặt tình trạng phức tạp trong việc xác định quyền sở hữu quốc gia tại khu vực Tây Nam của Liên bang. Đó là sự tranh chấp lãnh thổ với Tây Ban Nha. Đe bảo vệ chủ quyền tại khu vực Tây Nam, chính quyền Mỹ non trẻ, bên cạnh việc tái thiết đất nước sau chiến tranh, tiến hành cuộc đấu tranh ngoại giao với Tây Ban Nha nhằm buộc quốc gia này thừa nhận chủ quyền, không gian lãnh thổ ở địa bàn nói trên. Dựa vào các nguồn tư liệu phía Mỹ, bài viết phân tích, làm rõ mục đích, động cơ của Tây Ban Nha khỉ tiến hành tranh chấp với Mỹ tại khu vực Tây Nam; những hoạt động ngoại giao của nước Mỹ để xác lập chủ quyển quốc gia tại khu vực Tây Nam.
Từ khóa: Tranh chấp lãnh thổ, nước Mỹ, Tây Ban Nha, khu vực Tây Nam, ngoại giao
T
ranh chấp lãnh thổ là vấn đề diễn ra khá phổ biến trong quan hệ giữa các chủ thể trong cộngđồng quốc tế. Thế giới từng chứng kiến nhiều điểm nóng về tranh chấp lãnh thổ
giữa các quốc gia mà dẫn tới nảy sinh xung đột. Tùy theo cách thức tiếp cận của mỗi quốc gia mà việc giải quyết tranh chấp biên giới lãnh thổ theo phưorng thức hòa bình hoặc vũ lực. Nước Mỹ không phải ngoại lệ. Ngay khi vừa mới giành được độc lập chưa lâu (1783), nước Mỹ đã phải đối mặt tình trạng rắc rối trong việc xác định phạm vi chủ quyền quốc gia ở khu vực Tây Nam, với Tây Ban Nha - quốc gia đang sở hữu
nhiều vùng đất phụ thuộc tại địa bàn Bắc Mỹ. Với mục tiêu kiềm tỏa quốc gia cộng hòa non trẻ đầu tiên ở Tây bán cầu, triều đình Tây Ban Nha thi hành nhiều biện pháp khác nhau nhằm gia cố vùng đệm có đường biên giới tiếp giáp với nước Mỹ. Để phá vờ toan tính của đối phưomg, chính quyền tổng thống đầu tiên của nước Mỹ - Geogre Washington, triển khai nhiều giải pháp để hóa giải vấn đề đặt ra. Bài viết phân tích những ý định của Tây Ban Nha tại khu vực Tây Nam, sự ứng phó của chính quyền Mỹ trong các lĩnh vực khác nhau nhằm giữ vững chủ quyền đất nước tại địa bàn mang tính chiến lược trong buổi đầu lập nước.
CHÂU MỸ NGÀYNAY SỐ03-2022 63 1. Khái quát khu vực Tây Nam
nước Mỹ lúc mới ra đòi và chính sách của Tây Ban Nha
Khu vực Tây Nam1 của nước Mỹ tiếp giáp với hai vùng lãnh thổ rộng lớn mà tại thời điểm này thuộc quyền kiểm soát của Vương quốc Tây Ban Nha, Florida ở phía Nam và Louisiana ở phía Tây qua con sông Mississippi - “Cha các dòng sông”. Khu vực này có nhiều dòng sông (Tennessee, Yazoo) đổ vào Mississippi, trước khi chảy ra đại dương nên thuận tiện cho giao thông đường thủy. Chủ nhân đầu tiên của địa bàn này là các bộ lạc da đỏ (Chickasaws, Choctaws, Creek và Cherokee). Trong thời kỳ nước Mỹ nằm trong sự quản lý của đế chế Anh, người da trắng men theo các triền sông đến đây thiết lập khu định cư. Lâu dần, số lượng người đến sinh sống ngày càng đông, đa phần là người Mỹ gốc Anh.
Đến khi nước Mỹ thành lập (1783), nhiều thị trấn lần lượt mọc lên ven sông, như: Nasville (ngày nay thuộc tiểu bang Tennessee), Boonesborough, Harrodsburg và Lexington (tiểu bang Kentucky).
Tại thời điểm nước Mỹ vừa mới thoát khỏi ràng buộc của chính quyền Anh, Tây Ban Nha là quốc gia đang sở hữu nhiều thuộc địa rộng lớn kéo dài từ phía Bắc xuống phía Nam lục địa châu Mỹ.
Chứng kiến cuộc đấu tranh giành độc lập của các thuộc địa Anh tại Bắc Mỹ, mặc dù có sự giúp đỡ về tài chính (Bemis, 1951: 24) song triều đình phong kiến Tây Ban Nha không mấy thiện cảm trước thắng lợi của nền cộng hòa
vừa mới xác lập. Bởi theo suy tính của họ, “viện trợ cho quân khởi nghĩa (các thuộc địa Bắc Mỹ - TG) giống như một mối họa và không nên ảo tưởng trông chờ vào sự trả ơn của nước cộng hòa vừa mới sinh ra này. Họ sẽ quên ơn huệ nhận được và chỉ nghĩ tới chuyên bành trướng” (Antonio Dominguez Ortiz, 2009: 308). Mặt khác, sự thắng lợi của các thuộc địa Anh sẽ cổ vũ nhân dân
“châu Mỹ thuộc Tây Ban Nha” đứng dậy đấu tranh cởi bỏ “xiềng xích ” thống trị của mẫu quốc ở Tây bán cầu. Điều này đe dọa trực tiếp đến lợi ích thực dân của Tây Ban Nha.
Xuất phát từ nguy cơ nói trên, do không phải là một bên tham gia đàm phán nên Chính phủ Tây Ban Nha tuyên bố không chịu sự ràng buộc bởi hiệp định giữa Anh và Mỹ (ngày 3/9/1783).
Theo đó, Tây Ban Nha từ chối công nhận đường ranh giới lãnh thổ phía Tây Nam của nước Mỹ với lãnh thổ Florida của họ nằm tại vĩ tuyến 31° Bắc. Họ cho rằng đường ranh giới đó phải nằm tại vĩ tuyến 32°28’ Bắc, nơi con sông Tennesse chảy qua, cách vĩ tuyến 31°
Bắc khoảng 100 dặm về phía Bắc (DeConde, 1978: 59). Điều này xuất phát từ lý do, khi Florida còn nằm dưới sự quản chế của nước Anh, đường phân giới chính thức của nó với các thuộc địa Bắc Mỹ khác nằm tại vĩ tuyến 32°28’
Bắc2. Nằm trong phạm vi lãnh thổ tuyên bố có chủ quyền, Tây Ban Nha tiến hành xây dựng hàng loạt đồn bốt quân sự ở Alabama, Mississippi và Tennesse.
Từ địa bàn “đứng chân”, người Tây Ban Nha phát triển uy lực ra toàn bộ khu vực Tây Nam bằng chính sách liên minh với các bộ lạc da đỏ. Năm 1784, tại Pensacola (Floridas), triều đình Madrid ký một loạt hiệp ước riêng rẽ với từng bộ tộc Creek, Choctaw và Chickasaw. Theo đó, triều đình Tây Ban Nha trang bị khí giới và đạn dược cho người da đỏ nhằm thực hiện tấn công vào các khu định cư của người Mỹ da trắng. Theo thống kê, có khoảng 50.000 người Indian thực hiện quấy phá vùng hạ lưu sông Ohio (DeConde, 1978: 45). Thực chất, Tây Ban Nha muốn thiết lập “khu đệm” nhằm ngăn cản sự bành trướng của người Mỹ, đồng thời kiềm tỏa sức mạnh của nền cộng hòa non trẻ - nước Mỹ.
Một thực tế lịch sử cần lưu ý là cư dân miền Tây Nam nước Mỹ từ lâu sinh sổng dựa vào việc sản xuất các mặt hàng thiết yếu (ngũ cốc, lông thú, gỗ, gia súc) cung cấp cho thị trường miền Đông và giao thưong với các thuộc địa của Anh và Pháp ở vùng biển Caribbean. Việc vận chuyển thương phẩm bằng đường bộ sẽ mang lại chi phí lớn do phải vượt qua dãy núi cao Appalachians, đồng thời khiến sức lực của con người nhanh chóng kiệt quệ. Đe giảm sự tốn kém, cư dân miền Tây tận dụng đường thủy, nhất là con sông Mississippi và các phụ lưu của nó, cho hoạt động vận chuyển. Con sông Mississippi dàn trở thành cầu nối tự nhiên giữa người miền Tây với thế giới bên ngoài. Họ chất đầy hàng hóa
lên thuyền, xuôi dòng sông đến hải cảng New Orleans. Từ đây hàng hóa được đưa sang con tàu khác để vận chuyển đến vùng duyên hải thuộc các tiểu bang miền Đông và vùng biển Caribbean.
Theo Hiệp ước Paris, “vzẹc lưu thông trên dòng sông Mississippi, từ thượng nguồn đến đại dương, sẽ mãi mãi tự do và mở ra đổi với công dân Mỹ và Anh ” (Gambone, 2002: 15). Thế nhưng, như là hệ quả việc tuyên bố chủ quyền đối với khu vực Tây Nam, chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha tước đi đặc quyền vận chuyển hàng hóa trên sông Mississippi của cư dân Mỹ. Năm 1784, tức một năm sau khi Hiệp ước Paris có hiệu lực, Tây Ban Nha ra sắc lệnh
“đóng cửa” hoàn toàn dòng sông. Giới cầm quyền thuộc địa ra lệnh cho viên quan đóng tại Natcher tịch thu hàng hóa của thương nhân mang quốc tịch Mỹ nếu vi phạm (Bailey, 1958: 60). Hành động này được xem như một đòn chí tử đánh vào lợi ích kinh tế của cư dân sinh sống ven sông. Rõ ràng, những hành động có chủ đích của chính quyền thuộc địa Tây Ban Nha tại Bắc Mỹ không ngoài mục đích kiềm tỏa, hạn chế một cách tối đa tầm ảnh hưởng của quốc gia cộng hòa đầu tiên ở Tây bán cầu ở những mức độ khác nhau.
2. Nước Mỹ vói việc giải quyết tranh chấp lãnh thổ tại khu vực Tây Nam
Với người dân miền Tây nước Mỹ, nhất là tại địa bàn Tây Nam, con sông Mississippi chính là nguồn nuôi dưỡng,
CHÂU MỸ NGÀYNAY SỐ 03-2022 65 sự thịnh vượng, giàu sang mang lại cho
họ. Phản ứng trước động thái trên, cư dân miền Tây phẫn nộ. Theo họ, ‘‘sự ngăn cấm lưu thông hàng hải trên sông Mississippi khiến cho toàn bộ cư dân miền Tây rất ngạc nhiên. Điều này đã bán chủng ta và biến chúng ta thành chư hầu cho người Tây Ban Nha, là một sự nhẫn tâm không thể chịu đựng được.
Neu phục tùng xiềng xích đó thì chúng ta không xứng đáng mang quốc tịch Mỹ” (Bailey, 1958: 62). Họ gây áp lực Chính phủ đòi tiến hành thương lượng với Tây Ban Nha. Lo sợ cư dân ở khu vực Tây Nam viện dẫn tới biện pháp vũ trang với đối phương, điều mà chính quyền Liên bang không mong muốn, năm 1786, Chính phủ Mỳ dưới thời
‘‘Điều khoản hợp bang”, cử John Jay làm đại diện tiến hành đàm phán với Diego de Gardoqui, công sứ Tây Ban Nha tại Mỹ. Trong các cuộc đàm phán, đại diện ngoại giao Mỹ - John Jay yêu cầu Tây Ban Nha hủy bỏ sắc lệnh nói trên, chấp nhận đường ranh giới nằm tại vĩ tuyến 31° Bắc, đồng thời rút bỏ những đồn bốt quân sự ở Tây Nam, song Diego de Gardoqui khước từ. Sở dĩ, Tây Ban Nha khước từ đề nghị từ đại diện nước Mỹ do bởi tại thời điểm này, giới cầm quyền Tây Ban Nha vẫn còn ảo tưởng dựa dẫm vào sức mạnh của hải quân Anh để bảo vệ các thuộc địa của họ.
Trong một thời gian dài, quan hệ Mỹ - Tây Ban Nha luôn trong tình trạng căng thẳng. Đe tạo ra xáo trộn trong nội bộ nước Mỹ non trẻ, chính quyền thuộc địa
Tây Ban Nha ở Bắc Mỹ lôi kéo nhiều phần tử bất mãn với chính quyền Liên bang hình thành phong trào ly khai, đổi lại thương thuyền của họ được phép lưu thông trên sông Mississippi, nhất là cư dân ở Kentucky (DeConde, 1978: 46).
Do Tây Ban Nha đóng cửa dòng sông Mississippi nên hoạt động vận chuyển các sản phẩm, nhất là ngũ cốc, của cư dân miền Tây ra bên ngoài bị đình trệ.
Họ không thể vươn đến những thị trường xa hơn nên lợi nhuận suy giảm.
Để có thể vận chuyển dễ dàng đồng thời tạo ra nguồn thu nhập, họ chưng cất ngũ cốc thành những thùng rượu whiskey mang ra thị trường tiêu thụ. Năm 1791, chính quyền Liên bang đánh thuế đối với các loại rượu chưng cất để tăng ngân sách tài chính quốc gia. Cư dân miền Tây không những không tuân theo mà còn đe dọa sử dụng vũ lực đối với nhân viên thu thuế. Năm 1794, nông dân miền Tây Pennsylvania kháng cự bằng hành động nổi loạn. Họ tấn công vào đội quân bảo vệ những nhân viên thu thuế của chính quyền Liên bang. Lịch sử nước Mỹ gọi đây là “Cuộc nổi loạn Whiskey” (Unger, 2009: 228). Cuộc nổi loạn tuy bị chính quyền G. Washington sớm dập tắt song sự kiện này chứng tỏ cư dân miền Tây nước Mỹ tỏ ra bất mãn với chính sách của Liên bang. Neu tình trạng này kéo dài sẽ xuất hiện đấu tranh đòi ly khai dẫn tới nguy cơ tan vờ Liên bang. Vấn đề đặt ra là, Chính phủ Mỹ phải có biện pháp như thế nào nhằm xoa dịu mâu thuẫn với cư dân miền Tây,
mà trước hết là việc Tây Ban Nha từ chối việc lưu thông thương thuyền Mỹ trên sông Missississippi và không cho chuyển hàng tại New Orleans.
Để tránh nguy cơ sụp đổ Liên bang, vào cuối năm 1794, Tổng thống G.
Washington cử Thomas Pinckney làm đại diện ngoại giao đến Madrid tiến hành đàm phán với Chính phủ Tây Ban Nha. Trong các phiên họp đầu tiên, triều đình Tây Ban Nha vẫn giữ thái độ, quan điểm như trước đây, không chấp nhận từ bỏ yêu sách của họ trong việc khai thông, mở cửa trở lại dòng sông Mississippi cho cư dân Mỹ. Khi hai bên đang thương lượng thì tình hình quốc tế diễn ra bất lợi cho Tây Ban Nha. Tại châu Mỹ, thông qua những thông tin thu thập, điều tra, triều đình Tây Ban Nha nắm bắt ý đồ của nước Anh đang tăng cường xâm nhập vào địa bàn khu vực Mỹ Latinh bằng con đường kinh tế.
Hành động này của chính quyền Anh sẽ phá vỡ chính sách đóng cửa mà Tây Ban Nha thi hành tại các thuộc địa của họ ở phía Nam Tây bán cầu (Huyền, 2016:
103). Hệ quả là, những bất đồng về vấn đề thuộc địa ở Tân thế giới giữa Tây Ban Nha và Anh nảy sinh. Liên minh Anh - Tây Ban Nha sụp đổ (Ninh, 2005:
30). Sự kiện này diễn ra đồng thời với việc nước Mỹ ký với Anh bản Hiệp ước Jay (tháng 11/1794) (Nam, 2016: 124-125) khiến cho Thủ tướng Tây Ban Nha, Godoy, lo ngại khả năng hình thành liên minh giữa Anh và Mỹ. Một khi kịch bản này trở thành hiện thực sẽ dẫn tới nguy cơ
các thuộc địa của Tây Ban Nha tại Tân the giới bị tấn công. Mặt khác, tại Mỹ, các bộ lạc da đỏ với tư cách đồng minh Tây Ban Nha tỏ ra bất lực trước sự bành trướng của người Mỹ da trắng. Bằng chứng là, trong những năm 1793-1794, các ngôi làng định cư của người da đỏ tại Tây Nam bị khuất phục bởi hai cuộc viễn chinh do John Sevier và James Robertson chỉ huy. Thắng lợi này buộc người da đỏ cam kết không quấy phá các khu định cư, nhường lại đất đai cho người Mỹ da trắng.
Trong bối cảnh đó, để duy trì sự an toàn cho các thuộc địa phía Nam ở Tây bán cầu, đồng thời tách nước Mỹ ra khỏi Hên minh với Anh, Chính phủ Tây Ban Nha buộc phải nhượng bộ. Ngày 27/10/1795, tại cung điện San Lorenzo, đại diện chính phủ Mỹ, T. Pinckney ký với Chính phủ Tây Ban Nha một bản hiệp ước. Theo đó, Tây Ban Nha chấp nhận:
“Đường ranh giới phía Nam của nước Mỹ, mà phân chia lãnh thổ nước Mỹ với các thuộc địa Đông và Tây Florida của Tây Ban Nha nằm tại vĩ tuyến 31° Bắc”
(Điều 2); “Việc lưu thông trên con sông Mississippi, từ thượng nguồn đến đại dương, sẽ được tự do cho công dân Mỹ”
(Điều 4); “công dân Mỹ được phép cất giữ hàng hóa và tài sản của họ tại hải cảng New Orleans để chờ xuất khẩu mà không phải trả bất cứ khoản phỉ nào cao hơn mức giá tương đương dành cho việc thuê kho hàng với thời hạn 3 năm và hứa sẽ tiếp tục gia hạn giấy phép này”
(Điều 22)... (Gambone, 2002: 31-32).
CHÂU MỸ NGÀYNAY SỐ 03-2022 67 Bản hiệp ước này về sau được gọi là
Hiệp ước San Lorenzo hoặc Pinckney, đã buộc Tây Ban Nha phải tôn trọng đường ranh giới theo quy định của Hiệp ước Paris giữa Anh và Mỹ (1783). Nó góp phần xoa dịu sự bất mãn của cư dân miền Tây bằng việc cho phép tự do lưu thông trên sông Mississippi, tránh nguy cơ ly khai của cư dân miền Tây, đồng thời kiềm chế sự quấy rối của thổ dân da đỏ. Điều quan trọng là Hiệp ước Pinckney giúp Mỹ tránh bị lôi cuốn vào cuộc phân tranh bên kia đại dương của các cường quốc châu Âu, tạo điều kiện hòa bình cho sự phát triển của đất nước. Đối với Tây Ban Nha, hiệp ước này là một bước thụt lùi đầu tiên trong chính sách duy trì “khu đệm” nhằm chống lại sự mở rộng lãnh thổ của cư dân Mỹ vùng biên cương, mở ra cơ hội mới cho sự bành trướng của Mỳ vào đồng bang Mississippi trong giai đoạn lịch sử tiếp theo.
3. Một số nhận xét
Có thể nói rằng, thành quả ngoại giao nêu trên bắt nguồn từ những chính sách khôn khéo của Chính phủ Mỹ, đứng đầu là Tổng thống George Washington, đã biết tận dụng mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế đương thời, trước hết là sự xung đột lợi ích giữa Anh với Tây Ban Nha về vấn đề thuộc địa, để đem lại ưu thế cho mình trong cuộc đấu tranh giành quyền lợi cho quốc gia. Bên cạnh việc tranh thủ những khó khăn của đối phương đang gặp phải, Chính phủ Mỹ
sử dụng biện pháp bạo lực cần thiết đối với người da đỏ - đồng minh của Tây Ban Nha tại khu vực Tây Nam, quy hàng, ký cam kết với chính quyền Liên bang không quấy phá các khu định cư của người da trắng tại địa bàn này.
Thành công ngoại giao của chính quyền G. Washington với Tây Ban Nha tạo ra vị thế mới cho quốc gia trên trường quốc tế, với tư cách một chủ thể độc lập hoàn toàn với đế chế Anh. Nó mang lại những kinh nghiệm bước đàu trong bang giao quốc tế, nhất là với các quốc gia châu Âu, cho các chính phủ Mỹ tiếp theo mà đang có ý định triển khai các phương thức ngoại giao khác nhau để mở mang bờ cõi trong thế kỷ sắp tới. Lịch sử nước Mỹ ghi nhận rằng, thế kỷ XIX, lãnh thổ Liên bang không ngừng mở rộng về phía Tây mà trong đó những dấu ấn ngoại giao hết sức rõ nét (Nam, 2016: 183-185).
Một thực tế không thể phủ nhận là nhờ việc giải quyết dứt điểm biên giới lãnh thổ Tây Nam với Tây Ban Nha khiến cho cư dân Mỹ - vốn đa phần có nguồn gốc xuất thân khác nhau, củng cố lòng tin vào chính quyền Liên bang đang theo đuổi quá trình nhất thể hóa quốc gia sau khi lập quốc. Điều này đã tạo ra sự ổn định về mặt chính trị cho đất nước, thúc đẩy cho sự khôi phục, tái thiết quốc gia trên lĩnh vực kinh tế - xã hội ■
(Nghiên cứu này dược tài trợ bởi Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế trong đề tài mã sổ T.21-NV.SV-02)
Tài liệu tham khảo:
1. Alexander DeConde (1978), A history of American foreign policy, Vol 1 (Growth to world power 1700-1914), Charles Scribner’s Sons, New York.
2. Antonio Dominguez Ortiz (2009), Tây Ban Nha - ba ngàn năm lịch sử (Khắc Bính, Trung Tín, Sĩ Khánh, Đinh Trực, Hương Giang dịch), Nxb.
Thế giới, Hà Nội.
3. Irwin Unger (2009), Lịch sử Hoa Kỳ - những vấn đề quá khứ (Nguyễn Kim Dân dịch), Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
4. Lê Thành Nam (2016), Nước Mỹ với quá trình Tây tiến: chính sách ngoại giao mở rộng lãnh thổ (1787-1861), Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Michael D. Gambone (2002), Documents of American diplomacy (From the American revolution to the Present), Greenwood Press, Westport, Connecticut, London.
6. Phạm Thị Thanh Huyền (2016), Quá trình hoạt động thương mại của Tây Ban Nha ở các thuộc địa Mỹ Latinh (thế kỳ XVI - đầu thể kỳ XIX), Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
7. Samuel Bemis (1951), A diplomatic history of the United States, Henry Holt and Company, New York.
8. Thomas A. Bailey (1958), A diplomatic history of the American people, Appleton-Century- Crofts, Inc, New York.
9. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
Chú thích:
1. Phạm vi “Tây Nam ” ở đây được hiểu là Tây Nam của 13 tiểu bang nước Mỹ khi mới lập quốc.
Hiện nay, lãnh thổ này là thuộc tiểu bang Kentucky, Tennessee, Mississippi và Alabama.
2. Trong cuộc Chiến tranh Bảy năm (1756-1763), Anh đánh bại Pháp, buộc nước này ký kết Hiệp ước Paris (1763). Do là đồng minh với Pháp trong cuộc chiến nên Tây Ban Nha chấp nhận tổn thất. Theo đó, vùng đất Florida của Tây Ban Nha được nhượng lại cho Anh. Đen năm 1783, tận dụng việc nước Anh đối phó với cuộc chiến tranh giành độc lập của các thuộc địa Bắc Mỹ, Tây Ban Nha dùng vũ lực tái chiếm vùng đất Florida.