• Tidak ada hasil yang ditemukan

SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁC DÒNG CÁ RÔ ĐỒNG (Anabas testudineus) TRONG CÙNG ĐIỀU KIỆN NUÔI

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2023

Membagikan "SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁC DÒNG CÁ RÔ ĐỒNG (Anabas testudineus) TRONG CÙNG ĐIỀU KIỆN NUÔI "

Copied!
8
0
0

Teks penuh

(1)

SINH TRƯỞNG VÀ TỈ LỆ SỐNG CỦA CÁC DÒNG CÁ RÔ ĐỒNG (Anabas testudineus) TRONG CÙNG ĐIỀU KIỆN NUÔI

GROWTH AND SURVIVAL OF CLIMBING PERCH (Anabas testudineus) STRAINS CULTURED IN THE SAME CONDITIONS

Bành Tuấn Đức* và Dương Thúy Yên Khoa Thủy Sản – Trường Đại học Cần Thơ

Email: [email protected]

ABSTRACT

The climbing perch (Anabas testudineus) is one of highly valuable native freshwater fish species in the Mekong Delta. Since 2008, a new variety of climbing perch that has faster growth and larger sizes than normal ones has been found and is called squared – head climbing perch (SHCP). This study aimed to compare growth and survival among wild climbing perch (collected in Dong Thap, Hau Giang, and Ca Mau provinces) and SHCP strains cultured in the same conditions. After two months of rearing from larvae to fingerlings in small earth ponds (6m2, 1000 fish/pond, 3 replicates), length and weight of SHCP (6.01±1.35 cm; 4.99±3.08 g) and Dong Thap strain (6.27±0.51 cm; 5.00±1.37 g) were insignificantly higher that those of Ca Mau (4.95±0.64 cm; 2.56±0.95 g) and Hau Giang strains (4,91±1,26 cm, 2.53±1.84 g). Survival rates were similar among wild strains (3.25- 5.28%), which were significantly higher than that of SHCP (1.78%±0.12). At gorw-out stage, fish were cultured in hapa (1.5 x 1.5 m, 100 fish/hapa, 3 replicates). After 150 days, SHCP (final weight 30.3±7,0 g) and Ca Mau strains (25.1±1.3 g) grew faster than Dong Thap (16.1±2.8) and Hau Giang strains (10.4±1.6). Survival rates were insignificantly different among climbing perch strains. Feed conversion ratio of SHCP (1.81±0.32) and Ca Mau (2.09±0.20) strains were lower than Dong Thap strain (3.38±0.28) and Hau Giang (3.44±0.70) strains.

Keywords: Climbing perch, Anabas testudienus, nursing, grow-out, strain evaluation ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong những năm gần đây nghề nuôi cá nước ngọt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) có bước phát triển mạnh cả về diện tích, sản lượng và năng suất nuôi. Bên cạnh một số đối tượng nhập nội nhiều loài cá bản địa hiện nay đang được chú trọng phát triển do có giá trị cao trong xuất khẩu hay tiêu thụ nội địa Trong đó cá rô đồng (Anabas testudineus) là loài đang có tiềm năng phát triển do cá có khả năng thích nghi tốt với môi trường sống, chất lượng thịt thơm ngon nên có giá trị kinh tế cao. Hiện nay cá rô đồng là một trong những đối tượng thủy sản quan trọng đã và đang được nuôi ở các tỉnh vùng ĐBSCL (Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương, 1993; Dương Nhựt Long, 2006).

Đầu năm 2008 ở Hậu Giang đã xuất hiện một loại hình cá rô đồng mới được người dân gọi là

“Cá rô đồng đầu vuông”. Theo người nuôi thì cá rô đồng đầu vuông tăng trưởng nhanh, hệ số tiêu tốn thức ăn thấp hơn cá rô đồng thường và có thể được nhân giống dễ dàng nên hiện nay chúng được nuôi rất phổ biến ở vùng ĐBSCL. Tuy nhiên, cá rô đầu vuông dễ bị nhiễm bệnh, đặc biệt trong điều kiện nuôi mật độ cao và môi trường bị ô nhiễm với một số bệnh thường gặp như: bệnh nấm nhớt, bệnh ký sinh trùng, bệnh xuất huyết (Đặng Thụy Mai Thy và ctv., 2012; Đặng Thị Hoàng Oanh, 2012). Nâng cao chất lượng giống cá rô thông qua những biện pháp chọn giống là hướng đi cần thiết. Bước đi đầu tiên trong chọn giống là đánh giá biểu hiện của các dòng cá khác nhau của cùng một loài. Trong cùng điều kiện nuôi, những dòng cá rô tự nhiên khác nhau có thể khả năng tăng trưởng sẽ khác nhau. Hiện nay, chưa có nghiên cứu đầy đủ so sánh một số đặc điểm quan trọng trong nuôi giữa cá rô đầu vuông và cá rô tự nhiên.

(2)

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá sự tăng trưởng và tỉ lệ sống giữa cá rô đầu vuông và cá rô đồng thường có nguồn gốc tự nhiên phân bố ở các vùng khác nhau trong cùng một điều kiện nuôi, góp phần cung cấp thông tin cho chương trình chọn giống cá sau này.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nguồn cá thí nghiệm

Cá thí nghiệm là đàn cá F1 được sinh sản nhân tạo từ bốn nguồn cá (Nghiệm thức) gồm cá rô đồng tự nhiên thu từ Cà Mau, Hậu Giang và Đồng Tháp và cá rô đầu vuông. Cá bố mẹ được nuôi vỗ trong giai tại Khoa Thủy sản, Đại Học Cần Thơ từ tháng 3/2010 và sau đó được sinh sản nhân tạo vào tháng 6/2010.

Nghiên cứu được chia làm hai giai đoạn: Giai đoạn 1- ương từ bột lên giống và giai đoạn 2 – nuôi cá thịt. Ở mỗi giai đoạn, thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 3 lần lặp lại cho mỗi nghiệm thức.

Bố trí và chăm sóc thí nghiệm

Giai đoạn 1: Cá bột có cùng 2 ngày tuổi của bốn dòng cá rô đồng được bố trí trong 12 ao đất nhỏ có diện tích 6m2 (2x3m, sâu 1,2m) với mật độ 1000 con/m2. Thí nghiệm được thực hiện tại phường Phú Thứ, quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Nguồn nước được lấy từ nước sông dẫn vào mương và cấp cho ao. Thời gian ương cá là 2 tháng.

Trước khi thả cá, ao được gây màu bằng cách bón phân Marine Boomer liều lượng 30 g/ao 6m2 theo đề nghị của nhà sản xuất. Cá được cho ăn 4 lòng đỏ trứng + 100g bột đậu nành (150% khối lượng thân cá nuôi)/ngày trong 3 ngày đầu với 4 lần cho ăn/ngày vào lúc 8h, 11h, 14h và 17h. Hòa thức ăn vào nước và tạt chia đều cho các ao. Từ ngày thứ 4, cho cá ăn thức ăn công nghiệp dạng mịn AQUAFEED 40% đạm liều lượng 6 g/ao 6m2/lần (theo kinh nghiệm nuôi của người dân). Sau 3 ngày tăng dần lượng thức ăn theo nhu cầu của cá. Sau 1 tuần chuyển sang thức ăn cùng loại dạng mảnh nhỏ. Ngày cho ăn 3 lần 8 giờ, 12 giờ và 16 giờ. Nước được thay định kỳ 1 lần/tuần. Mỗi lần thay từ 20 – 30% lượng nước trong ao.

Giai đoạn 2: Sau khi kết thúc giai đoạn 1, cá giống 60 ngày tuổi của từng nghiệm thức được thu va gom lại và bố trí nuôi cá thịt trong 12 giai (1,5x1,5x2,5m) được đặt trong cùng 1 ao (tại Khoa Thủy sản, trường Đại học Cần Thơ) với mật độ 100 con/giai. Thời gian nuôi 5 tháng.

Cá được cho ăn thức ăn viên nổi AQUAFEED (hàm lượng đạm 35 – 25%) 3 lần/ngày vào lúc 8 giờ, 12 giờ và 16 giờ. Kích cỡ và liều lượng được điều chỉnh theo khả năng sử dụng của cá, với lượng từ 10 - 15% khối lượng thân, sau 3 ngày tăng (tính theo %) lượng thức ăn lên so với lượng thức ăn ngày trước và được điều chỉnh bằng cách quan sát thức ăn của cá.

Các chỉ tiêu theo dõi

Các yếu tố môi trường: Nhiệt độ được đo 2 lần/ngày bằng nhiệt kế, pH đo 2 lần/tuần, NH3+

/NH4, NO2

đo 1 lần/tuần bằng các bộ Test kit.

Tăng trưởng của cá: ở giai đoạn 1, chỉ tiêu tăng trưởng được xác định mỗi 15 ngày bằng cách thu ngẫu nhiên 10 cá thể/ao để đo chiều dài và cân khối lượng (độ chính xác 0,01g). Kết thúc thí nghiệm thu 30 cá thể/ao để xác định các chỉ tiêu tăng trưởng. Ở giai đoạn 2, tăng trưởng của cá được xác định 1 tháng/lần bằng cách cân toàn bộ và đếm số cá trong mỗi giai. Khi thu hoạch, cân từng cá thể.

Phương pháp phân tích thống kê

Sự khác biệt về các chỉ tiêu tăng trưởng, tỉ lệ sống, hệ số thức ăn, hệ số biến động về khối lượng (Coefficient variation, CV (%) = 100 x độ lệch chuẩn/giá trị trung bình khối lượng) giữa các dòng cá được kiểm định bằng phương pháp ANOVA một nhân tố. Nếu có sự khác biệt thống kê giữa các nghiệm thức, so sánh sự khác biệt của giá trị trung bình về các chỉ tiêu

(3)

trên giữa các dòng cá bằng phép thử DUCAN. Việc xử lý thông kê được thực hiện bằng chương trình SPSS 16.0.

KẾT QUẢ THẢO LUẬN

Sinh trưởng và tỷ lệ sống của các dòng cá rô đồng giai đoạn ương trong ao đất từ bột lên giống

Các yếu tố môi trường

Bảng 1: Sự biến động của các yếu tố môi trường trong ao ương

Kết quả khảo sát cho thấy nhiệt độ nước trong các ao buổi sáng dao động từ 27,5 – 310C, buổi chiều từ 29 – 340C (Bảng 1). Đây là khoảng nhiệt độ phù hợp cho cá tăng trưởng và phát triển bình thường. Nhiệt độ thích hợp cho cá tăng trưởng là 25 – 300C (Trương Quốc Phú, 2006).

Theo kết quả thí nghiệm, pH trong các ao ương dao động từ 7 đến 9,1 (Bảng 1), nằm trong khoảng thích hợp cho cá sinh trưởng và phát triển bình thường. Theo Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm (2009) thì pH có giá trị từ 7-8 là thích hợp với các loài cá nuôi, pH càng nhỏ hơn 7 và càng lớn hơn 8 thì càng bất lợi cho cá.

Qua khảo sát bằng các bộ Test thông thường, hàm lượng NH3/NH4+

không đổi và đạt giá trị bằng 0,5 ppm tương ứng là hàm lượng NH3 dao động trong khoảng 0,003 – 0,18 ở mức pH từ 7 – 9 , hàm lượng NO2

bằng 0, nằm trong khoảng thích hợp cho ao ương cá. Theo Trương Quốc Phú (2006) thì NH3/NH4+ có trong ao là do quá trình bài tiết của cá, là sản phẩm của quá trình phân hủy vật chất hữu cơ hoặc thức ăn dư thừa. Theo Smith và Piper (1975) NH3

thích hợp cho ao nuôi dao động 1ppm nhưng không quá thấp, làm thiệt hại mô mang cá, ở nồng độ 0,006-0,34 ppm cá sẽ phát triển chậm (Trích dẫn bởi Trương Quốc Phú, 2006).

Sinh trưởng của cá rô sau 60 ngày ương

Hình 1: Sinh trưởng của cá rô theo khối lượng và chiều dài

Khối lượng trung bình của các dòng cá sau 15 ngày ương khác biệt nhưng không có ý nghĩa thống kê. Sau 30 ngày nuôi có sự chênh lệch và khác với đợt thu mẫu trước, khối lượng cá rô Đồng Tháp tăng 25 lần so với 15 ngày ương và gấp hơn 3 lần so với các dòng cá khác. Sự khác biệt về khối lượng các dòng cá (30 ngày ương) là có ý nghĩa thống kê với mức p<0,05.

Sau 45 ngày nuôi sự khác biệt về tăng trưởng của các dòng cá càng rõ hơn, hai dòng cá rô Đồng Tháp và Đầu Vuông tăng trưởng mạnh nhất về khối lượng. Nhưng sự khác biệt về tăng

Dòng cá Yếu tố

Cà Mau Đồng Tháp Đầu vuông Hậu giang Sáng 29,4 ± 0,3 29,4 ± 0,2 29,3 ± 0,3 29,5 ± 0,1 Nhiệt độ

(0C) Chiều 31,8 ± 0,5 31,7 ± 0,2 31,7 ± 0,3 31,8 ± 0,2

pH 8,0 ± 0,34 7,7 ± 0,32 7,7 ± 0,38 7,9 ± 0,41

0.00 1.00 2.00 3.00 4.00 5.00 6.00

15 30 45 60

Ngày thu mẫu

Khối ng

Cà Mau Đồng Tháp Đầu Vuông Hậu Giang

0 1 2 3 4 5 6 7

15 ngày 30 ngày 45 ngày 60 ngày Ngày thu mẫu

Chiều dài (cm)

Cà Mau Đồng Tháp Đầu Vuông Hậu Giang

(4)

trưởng giữa các dòng cá là không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Kết thúc thí nghiệm sau 60 ngày nuôi sự khác biệt về tăng trưởng của các dòng cá rô không có ý nghĩa thống kê với p

>0,05.

Tương tự như tăng trưởng về chiều dài và khối lượng, tốc độ tăng trưởng tuyệt đối và tốc độ tăng trưởng tương đối của các dòng cá khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p >0,05) (Bảng 2).

Kết quả này khác với thí nghiệm tương tự (cùng 4 dòng cá) nhưng cá được ương trên bể.

Theo Trần Quốc Lộc (2012) thì sau 55 ngày ương cá rô trong bể composite 1m3 thì tăng trưởng của cá rô Đầu Vuông khác biệt có ý nghĩa so với các dòng cá tự nhiên là Đồng Tháp, Cà Mau và Hậu Giang.

Bảng 2: Tăng trưởng tuyệt đối ngày (DWG) và tương đối (SGR), tỉ lệ sống và hệ số biến động (CV, %) về khối lượng của các dòng cá ở giai đoạn ương bột lên giống

Dòng cá

DWG SGR

Tỷ lệ sống (%)

Tỷ lệ phân đàn (CV) (%)

Cà Mau 0,06±0,02 a 8,8±0,7 a 5,28±0,61b 37,1

Đồng Tháp 0,11±0,03 a 11,4±0,85a 3,25±1,85ab 27,5

Đầu Vuông 0,11±0,07 a 10,4±1,3a 1,78±0,12a 61,7

Hậu Giang 0,06±0,04 a 9,4±1,37a 4,46±2,32ab 72,8

Sự phân đàn và tỉ lệ sống của cá

Sự phân đàn của cá được đánh giá qua sự phân bố khối lượng của các cá thể cá trong cùng một nghiệm thức và so sánh giữa các nghiệm thức qua sự biến động CV. Dòng cá Hậu Giang rất phân cỡ đạt tỷ lệ cao nhất 72,8%, tiếp theo là cá Đầu vuông 61,7% và dòng cá Đồng Tháp ít phân cỡ nhất với 27,5% (Bảng 2). Mức độ phân cỡ của cá rô Đầu Vuông và Hậu Giang là tương đối cao. Do cá được thả nuôi trong ao nên khi cho cá ăn khó quản lý hơn nuôi trên bể dẫn đến sự tranh giành thức ăn làm cho tỷ lệ phân đàn cao.

Tỷ lệ sống của cá rô Cà Mau là cao nhất 5,28% và thấp nhất là cá rô Đầu Vuông 1,78% (Bảng 2). Tỷ lệ sống có sự khác biệt có ý nghĩa giữa dòng cá rô Cà Mau và Đầu Vuông (p < 0,05).

Cả hai dòng Cà Mau và Đầu vuông đều khác biệt không có ý nghĩa so với cá Đồng Tháp và Hậu Giang.

Theo nghiên cứu của Hasan và ctv. (2010), cá rô 15 ngày tuổi được ương nuôi sau 90 ngày có tỷ lệ sống rất cao từ 73 – 83%. Tỷ lệ sống của cá rô trong thí nghiệm của Trần Quốc Lộc (2012) cũng rất cao, cụ thể tỷ lệ sống cá rô Hậu Giang (85%) và Cà Mau (80,8%) khác biệt có ý nghĩa so với cá rô Đồng Thápvà Đầu Vuông (48,4%). Tỷ lệ sống cao do thí nghiệm ương trên bể dễ chăm sóc, điều kiện quản lý tốt hơn và các yếu tố môi trường được quản lý dễ dàng hơn. Tỷ lệ sống trong thí nghiệm thấp là do quá trình cải tạo ao, ao nuôi gần ruộng lúa nên địch hại khá nhiều, ao mới đào khó quản lý các yếu tố môi trường nước, kỹ thuật nuôi còn hạn chế và có thể mật độ thả nuôi cao trên diện tích nhỏ (1000 con/m2 trên ao 6m2). Hơn nữa, trong ao nhỏ các yếu tố môi trường dễ biến động ảnh hưởng đến sức sống của cá. Theo Lê Như Xuân (1994), mật độ ương ảnh hưởng rất lớn đến tỷ lệ sống và tốc độ tăng trưởng của cá.

Sự sinh trưởng và tỷ lệ sống của các dòng cá rô đồng giai đọan nuôi thịt Sự biến động các yếu tố môi trường

Nhiệt độ trong ao thấp nhất vào buổi sáng 27,50C và cao nhất vào buổi chiều là 33,50C. Nhiệt dao động trung bình trong khoảng 29,3 ± 0,6 đến 31,8 ± 0,9. Theo Dương Nhựt Long (2006) thì nhiệt độ thích hợp cho cá từ 24 – 300C, nhưng cá có thể chịu đựng nhiệt độ từ 11 – 390C.

pH trong máu cá khoảng 7,4 do đó môi trường có pH từ 7,0 – 8,0 được xem là thích hợp cho cá phát triển và cá có thể bị stress hoặc chết ở môi trường có độ pH dưới 5 hoặc trên 10

(5)

(Wurts and Durborow, 1992). Ở thí nghiệm này pH trong ao dao động từ 7,0 – 7,6 khoảng pH này rất phù hợp với sự sinh trưởng và phát triển của cá.

20 25 30 35

17/09 29/09 11/10 23/10 4/11 16/11 28/11 10/12 22/12 3/1 15/1 27/1 8/2

Ngày Nhiệt đ (0C)

Sáng Chiều

6.7 6.8 6.9 7 7.1 7.2 7.3 7.4 7.5 7.6 7.7

17/9 27/9

7/10 18/10

28/10 8/11

18/11 28/11

9/12 19/12

29/12 9/1

19/1 30/1 9/2 Ngày

pH

0 0.01 0.02 0.03 0.04 0.05 0.06

17/9 1/10

14/10 28/10

11/11 25/11

9/12 22/12

5/1 19/1 2/2

18/2 Ngày

Nitrite

0 1 2 3 4 5 6

TAN

Nitrte TAN

Hình 3: Sự biến động nhiệt độ, pH, Nitrte và TAN trong ao nuôi Trong thí nghiệm này nồng độ NO2

và NH3/NH4+

cũng được kiểm tra bằng các bộ Test và kết quả cho thấy nồng độ NO2

không thay đổi nhiều trong suốt quá trình thí nghiệm ở mức 0 – 0,05ppm. Nồng độ NH4+ thay đổi từ 0,5 – 5ppm, bình quân 1,46±1,11ppm tương ứng với hàm lượng NH3 từ 0,003 – 0,09 với pH từ 0,5 – 5. Hàm lượng TAN trong thí nghiệm cao hơn thí nghiệm của Dương Nhựt Long (2006) ở nghiệm thức 40 con/m2 (0,15±0,71 ppm) và thấp hơn ở nghiệm thức 30 con/m2 (1,53±0,4 ppm). Ở nồng độ này cũng không ảnh hưởng đến quá trình phát triển của cá nuôi.

Theo Boyd (1990), hàm lượng TAN thích hợp cho ao nuôi thủy sản là 0,2 – 2 mg/l. Ở thí nghiệm này TAN dao động ở mức 0,5 – 5, tuy nhiên phổ biến là ở mức 0,5 – 3. Ở nồng độ này cũng thích hợp cho sự tăng trưởng của cá.

Sinh trưởng của cá rô trong giai đoạn nuôi thịt

0 5 10 15 20 25 30 35

Ban đầu 30 ngày 60 ngày 90 ngày 120 ngày 150 ngày

Khi ng (g)

CM ĐT ĐV HG

Hình 4: Sinh trưởng của cá rô sau 150 ngày nuôi

Kết quả cho thấy ở tháng 1 khối lượng cá rô Hậu Giang thấp hơn so với cá rô Đầu Vuông (p<0,05) nhưng khác biệt không có ý nghĩa so với cá rô Cà Mau và Đồng Tháp. Tháng 2 và 3

(6)

cá Hậu Giang thấp nhất có ý nghĩa thống kê so với các dòng cá còn lại (p<0,05). Tháng 4 và 5 cá rô Đầu Vuông lớn nhanh hơn và khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với cá rô Cà Mau nhưng khác biệt có ý nghĩa với các dòng cá còn lại, cá rô Hậu Giang có khối lượng nhỏ nhất nhưng khác biệt không có ý nghĩa so với cá rô Đồng Tháp (p>0,05). Nhìn chung cá rô tăng trưởng nhanh ở 2 tháng đầu, đến tháng 3 thì hầu hết tăng trưởng chậm lại, tháng 4 và tháng 5 cá rô Đầu Vuông và cá rô Cà Mau vẫn có tốc độ tăng trưởng nhanh so với cá rô Đồng Tháp và Hậu Giang.

Theo Trần Minh Phú (2003), cá rô giống ương trong ao đất mật độ 25 con/m2, được cho ăn bằng thức ăn viên có độ đạm từ 23 – 32% trong 4,5 tháng tăng trưởng của cá đạt rất cao dao động từ 55,67 – 57,63g. Tăng trưởng của cá nhanh hơn gần gấp đôi so với cá rô Cà Mau và cá rô Đầu Vuông trong thí nghiệm.

Tăng trưởng của cá trong thí nghiệm thấp hơn so với kết quả thí nghiệm của Dương Nhựt Long và ctv. (2006) ương cá rô trong ao đất với mật độ 30 con/m2 sau 150 ngày cá có khối lượng 63,2±3,4 g. Cá thí nghiệm có khối lượng nhỏ hơn các thí nghiệm nuôi trong ao đất điều này cho thấy cá được nuôi trong giai không gian nhỏ hẹp dẫn đến cá chậm lớn.

Tăng trưởng tương đối (SGR) , tăng trưởng tuyệt đối (DWG) và hệ số thức ăn của cá rô Sự khác biệt về tăng trưởng tương đối (SGR) giữa các dòng cá khác với chỉ tiêu tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng theo ngày (DWG). SGR của cá rô Đầu Vuông cao nhất, khác biệt có ý nghĩa so với các dòng cá tự nhiên (Bảng 3) nhưng DWG của cá rô Đầu Vuông khác biệt không có ý nghĩa so với cá rô Cà Mau. Tóm lại, tăng trưởng của cá rô Đầu Vuông và Cà Mau khác biệt nhau không có ý nghĩa và đều nhanh hơn cá Đồng Tháp và Hậu Giang.

Bảng 3. Tăng trưởng tương đối (SGR), tăng trưởng tuyệt đối (DWG), hệ số thức ăn (FCR), tỉ lệ sống và hệ số biến động về khối lượng (CV) của các dòng cá rô giai đoạn nuôi thịt

Dòng cá SGR

(%/ngày)

DWG (g/ngày)

FCR Tỷ lệ sống (%)

CV (%) Cà Mau 1,54±0,04ab 0,15±0,006b 2,09±0,2a 72,33±13,58a 59,08±9,41a Đồng Tháp 1,06±0,38a 0,08±0,006a 3,38±0,28b 71,33±14,15a 38,12±6,43a Đầu Vuông 1,81±0,16c 0,19±0,04b 1,81±0,32a 67,33±28,59a 52,87±12,43a Hậu Giang 1,27±0,40ab 0,06±0,02a 3,44±0,7b 40,00±19,98a 56,61±18,51a Ray (1989) cho rằng cá rô đồng có tốc độ tăng trưởng (0,15–0,3 g/ngày) chậm hơn so với nhiều loài cá nhiệt đới khác. Theo Mangklamanee (1986) thì cá rô đồng có tốc độ tăng trưởng chậm khoảng 0,5 g/ngày khi nuôi trong ao với mật độ 10–15 con/m2 và có bổ sung thêm thức ăn. Nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương (2002) thì khi cho cá ăn thức ăn viên có độ đạm 30% thì có tốc độ tăng trưởng tuyệt đối là 0,22 g/ngày. Trong thí nghiệm thì tốc độ tăng trưởng của cá rô Cà Mau và Đầu Vuông phù hợp theo Ray (1989) 2 dòng cá còn lại thì tăng trưởng chậm hơn.

Nhìn chung FCR giữa các dòng cá cũng không có sự khác biệt lớn. Sau 150 ngày nuôi thì FCR của cá rô Đồng Tháp và Hậu Giang cao hơn và khác biệt có ý nghĩa (p<0,05) so với cá Cà Mau và Đầu Vuông. Điều này cũng tương đối phù hợp với thí nghiệm nuôi cá rô trong ao đất của Nguyễn Thanh Phương (2005) sau 40 ngày nuôi thì cá ở nghiệm thức cho ăn thức ăn 31% đạm có FCR thấp nhất (1,67±0,17). Riêng chỉ có cá rô Đồng Tháp có FCR cao hơn (3,39±1,19). Ở thí nghiệm này FCR cao hơn các nghiên cứu trước đây là do cá được nuôi trong giai nên thức ăn bị thất thoát ra ngoài ao, đồng thời một số yếu tố bất lợi bên ngoài cũng ảnh hưởng đến việc tăng trưởng của cá. Tuy nhiên FCR trong thí nghiệm cũng phù hợp với nghiên cứu của Trần Minh Phú (2006) về nuôi cá rô trong ao đất FCR dao động từ 2,82 – 3,08.

Sự phân đàn của cá xảy ra ở các nghiệm thức. Hệ số biến động (CV) cho thấy được cá Cà Mau phân cỡ nhất (59,08%) và ít nhất là cá Đồng Tháp (38,12%). Sự phân đàn không đồng

(7)

đều ngay cả giữa các giai của cùng một dòng cá, dẫn đến CV biến động lớn trong cùng một nghiệm thức. Điều đó giải thích sự khác biệt về CV giữa các dòng cá tuy lớn nhưng không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Do trong quá trình thí nghiệm cá chưa được sàng lọc để phân cỡ nên dẫn đến sự phân đàn lớn kể cả các giai trong cùng một dòng cá.

Tỷ lệ sống của cá rô trong thí nghiệm là tương đối cao. Cao nhất là cá rô Cà Mau (72,33±13,58) và thấp nhất là cá rô Hậu Giang (40±19,98). Tuy nhiên sự khác biệt về tỷ lệ sống giữa các dòng cá rô không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) do có sự chênh lệch rất lớn giữa các giai trong cùng một dòng cá. Theo nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương (2005) nuôi cá rô trong lồng đặt trong ao đất với mật độ 50 con/m3 tỷ lệ sống rất cao trên 97%. Ở thí nghiệm này tỷ lệ sống thấp là do ban đầu khi cá giống được chuyển về từ xa nên cá bị sốc, bệnh nên tỷ lệ hao hụt ban đầu cao. Tuy nhiên tỷ lệ sống của cá tự nhiên cũng phù hợp với nghiên cứu nuôi cá rô đồng thâm canh trong ao đất của Dương Nhựt Long và ctv. (2006) với mật độ ương 30 con/m2 tỷ lệ sống là 74,43%. Qua thí nghiệm cho thấy giai đoạn ban đầu của quá trình nuôi rất quan trọng, nếu cá bị sốc do vận chuyển hay do môi trường thì tỷ lệ sống sẽ giảm rất đáng kể còn trong quá trình nuôi tỷ lệ sống của cá sẽ không bị ảnh hưởng nhiều.

KẾT LUẬN

Giai đoạn ương giống cá rô Đầu Vuông và cá rô Đồng Tháp tăng trưởng nhanh hơn cá rô Cà Mau và cá rô Hậu Giang. Tuy nhiên tỷ lệ sống của cá rô Đầu Vuông là thấp nhất và khác biệt so với cá rô Cà Mau.

Giai đoạn nuôi thịt sau 150 ngày thì cá rô Đầu Vuông và cá rô Cà Mau tăng trưởng vượt trội hơn so với cá rô Đồng Tháp và cá rô Hậu Giang. Tỷ lệ sống giữa cá rô Đầu Vuông và các dòng cá tự nhiên khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Hệ số tiêu tốn thức ăn của cá rô Đầu Vuông là thấp nhất (1,81±0,32) và khác biệt có ý nghĩa so với các dòng cá rô tự nhiên. Như vậy, cá rô đầu vuông có ưu điểm tăng trưởng nhanh hơn nhưng tỉ lệ sống thấp hơn so với cá dòng cá tự nhiên. Trong các dòng cá tự nhiên, cá Cà Mau tăng trưởng nhanh nhất ở giai đọan nuôi thịt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Boyd, C. E. (1990). Water Quality in Ponds for Aquaculture. Birmingham Publishing Co.

Birmingham, Alabama. 482p.

Dương Nhựt Long, 2006. Hệ thống nuôi thủy sản nội địa. Khoa Thủy Sản, Trường Đại học Cần Thơ. 221 trang

Dương Nhựt Long, Nguyễn Thanh Hiệu và Nguyễn Anh Tuấn, 2006. Thực nghiệm nuôi cá rô đồng (Anabas testudineus) thâm canh trong ao đất tại tỉnh Long An. Tạp chí khoa hoc, Đại học Cần Thơ. Trang 93 – 103

Đặng Thị Hoàng Oanh, Trương Quỳnh Như và Nguyễn Đức Hiền, 2012. Phân lập và xác định khả nang gây bệnh xuất huyết trên cá rô đồng (Anabas testudineus) của vi khuẩn Streptpcoccus Agalactiae. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số định kỳ 22c. ISSN:

1859 – 2333. Trang 194 – 204.

Đặng Thụy Mai Thy, Trần Thị Cúc, Nguyễn Châu Phương Lam, Nguyễn Đức Hiền và Đặng Thị Hoàng Oanh, 2012. Đặc điểm mô bệnh học cá rô (Anabas testudineus) nhiễm vi khuẩn Aeromonas HydrophilaStreptococcus sp. Trong điều kiện thực nghiệm. Tạp chí khoa học Trường Đại học Cần Thơ. Số định kỳ 22c. ISSN: 1859 – 2333. Trang 183 – 193.

Hasan. M, A. K. Shakur Ahammad and MukhlesurRahman Khan, 2010. A Preliminary investigation into the production of Thai Koi (Anabas testudineus) reared in nylon hapas in Bangladesh. Bangladesh research publications journal. ISSN: 1998 – 2003, Volume: 4, Issue:

1, Page: 15 – 23.

(8)

Lê Như Xuân và ctv. 1994. Kỹ thuật nuôi cá nước ngọt. NXB sở khoa học công nghệ và môi trường An Giang.

Mangklamanee, C., 1986. Culture strategies of Climbing perch (Anabas testudineus) by local farmers at the southern part of Thailand. J. Thai Fisheries 1(6): pp31-32.

Nguyen Thanh Phuong, Pham Thanh Liem, Vo Thanh Toan, Tran Thi Thanh Hien and Le Van Tinh, 2002. Study on the effects of feeding diets on growth of climbing perch (Anabas testudineus) cultured in garden ditches. http://www.ctu.edu.vn. Cập nhật ngày 14/04/2013.

Nguyễn Thanh Phương, 2005. Nghiên cứu phát triển thức ăn và kỹ thuật nuôi thâm canh cá rô đồng. Báo cáo khoa học đề tài cấp bộ. 31 trang

Phạm Minh Thành và Nguyễn Văn Kiểm, 2009. Cơ sở khoa học và kỹ thuật sản xuất cá giống. Nhà xuất bản Nông Nghiệp.

Ray, A.K. and B.C, Patra, 1989. Growth response, feed conversion and metabolic rate of the air-breathing Fish, Anabas testudineus (Bloch) to different dietary protein sources. In S. De Silva (ed). Fish Nutrition Research in Asia. Proceeding of the third Asian Fish Nutrition Network Meeting. Asian Fish.

Trần Minh Phú, Trần Lê Cẩm Tú và Trần Thị Thanh Hiền, 2006. Thực nghiệm nuôi thâm canh cá rô đồng (Anabas testudineus) bằng thức ăn viên với các hàm lượng đạm khác nhau.

Tạp chí nghiên cứu khoa học 2006: 104 – 109

Trần Quốc Lộc, 2012. So sánh một số đặc điểm sinh học của cá rô đồng (Anabas testudineus) ở một số tỉnh vùng Đồng Bằng sông Cửu Long. Luạn văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản, Khoa Thủy Sản, Đại học Cần Thơ.

Trương Thủ Khoa, Trần Thị Thu Hương, 1993. Định loại cá nước ngọt vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. 361 trang

Wurts, William A.,and Robert M.Durborow, 1992. Interactions of pH, Carbon dioxide, Alkalinity and Hardness in fish ponds. SARC publications No. 464.

Referensi

Dokumen terkait

Xuất phát từ thực tế trên, nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng và các nhân tố ảnh hưởng đến sự chuyển đổi sử dụng đất lâm nghiệp tại huyện Nam Đông để thấy được bản