TRẠNG THÁI BAN SĂC Ở THANH THIÊU NIÊN:
MỘT NGHIÊN CỨU CAT NGANG TRÊN THANH THIẾU NIÊN VIỆT NAM
Nguyễn Minh Hà
Nghiên cứu sinh Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia HàNội.
TÓM TẮT
Bản sắc cá nhân của thanh thiếu niên là một vấn để đã và đang được nghiên cứu rộngrãi trong lĩnh vực tâm lý học phát trỉến. Dựa trên ỉỷ thuyết trạng thái bản sắc cùa James Marcia, nghiên cứu này bước đầu khám phá trạng thải bản sac của thanh thiếu niên Việt Nam. Mầu nghiên cứu gồm 502 thanh thiếu niên (208 nam và 294nữ) trong độ tuổi từ 15 -25 tuổi (độ tuổitrung bình là 19,08;SD =3,27). Nghiên cứu thu thập dữ liệu thôngqua thang đo Trạng thải bảnsắc của Bennion và Adams (1986). Kết quả nghiên cứu cho thay, sựphán bố trạng thái bản sắc ởmẫu nghiên cứu tập trung vào “bảnsắctạm hoãn ”, kế đó là “bánsắcmơ hồ ”, “bảnsắc đượctrao cho” và “bản sắc đạt được” chiếm tỷ lệ nhỏ. Các trạng thải bảnsac được mô tả rõ nétthông qua dữliệu phỏng vấn sâu. Bêncạnhđó, xu hướng tiến triển củacác trạng thái bản sắctheo độ tuổi được chỉ ra, đồng thời khác biệtvề giới tỉnh được tìm thấy trên trạngthái bảnsắc mối quan hệ. Cácsosánh và bàn luậnliên quan đến bối cảnh văn hóa cũng nhưmộtsố hạn chế của nghiên cứu đượcthảo luận trongbàiviết.
Từ khóa: Trạng thải bản sắc; Bản sắc đạt được; Bản sắctạm hoãn; Bảnsắc đượctrao cho; Bản sacmơ hồ; Thanh thiếu niên.
Ngày nhận bài: 13/7/2021; Ngàyduyệtđăngbài: 25/7/2021.
1. Đặtvấn đề
Bản sắc (identity) là một trong những vấn đề được nghiên cứuphổ biến nhất trong các ngành khoa học xã hội, trong đó có ngành tâm lý học. Theo lý thuyết phát triển tâm lý xã hội của Erik Erikson, sự hình thành và phát triển bản sắc cá nhân diễn ra mạnh mẽ vào giai đoạn vị thành niên và còn kéo dài đến đầu tuồi trưởng thành. Quá trình này đòi hỏi thanh thiếu niên phải tổng hợp lại các khía cạnh tạo nên bản thân mình từ thời thơ ấu,phải thể nghiệm các vai trò xã hội khác nhau với những năng lực hiện có nhằm hướng đến những kỳ vọng tương lai. Việc xây dựng được cảm thức thống nhất và liên tục về mình từ quá khứ đến tương lai là nền tảng cho các em tự tin vào bản thân, đạt
TẠP CHÍ TÂM LÝHỌC, sổ 8 (269), 8-2021 79
được sự chắc chắn, sẵn sàng bước vào thế giới của người trưởng thành với những nhiệm vụ quan trọng horn trong cuộc đời như định hướng và gia nhập vàođời sống công việc, xây dựng các mối quan hệ thânmật.
Trong khi tìm hiểu các nghiên cứu về quá trình hình thành bản sắc ở thanh thiếu niên trên thế giới, chúng tôi ghi nhận có ba hướng nghiên cứu chính đã được triển khai. Hướng nghiên cứu thứnhất tập trung vào mối quan hệ giữa giai đoạn “Hình thành bản sắc và lẫn lộn vai trò” với các giai đoạn khác trong mô hình tám giai đoạn phát triển tâm lý xã hội của Erikson (Constantinople, 1969; Rosenthal, Gumey và Moore, 1981). Các nhà nghiên cứu theo hướng nàycho rằng sẽ thật thiếu sót nếu chỉ nhìn nhận giai đoạn hình thành bản sắc một cách độc lập vì điều này không làm rõ được khung khái niệm của Erikson. Do đó, nhừng nghiên cứu được triển khai theo hướng này tập trung phát triển các thang đo tự báo cáo để kiểm travà làm rõ vị trí của bản sắc đặt trong mối quan hệ với các giai đoạn khác. Hướng nghiên cứu thứ hai ngược lại với hướng thứ nhất, chỉ tập trung vào giai đoạn “Hình thành bản sắc và lẫn lộn vai trò” và nồ lực khái niệmhóa nó trên một trục liên tục từ thấp đến cao (Simmons, 1970). Theo đó, những nghiên cứudạng nàysẽ đánh giá việc cá nhân có đạt được một bản sắc tổng thể hay không và ở mức độ cao - thấp ra sao, cũng như tìm hiêu mối quan hệ giữa bản sắc đạt được với những biến so khác liên quan đến nhân cách (La Voie, 1976; Tan, Kendis, Fine và Porac,
1977). Hướng nghiên cứu thứ ba và cũng là hướng tiếp cận phổ biến, tập trung nghiên cứu bản sắc thông qua nhiều chiều cạnh cụ the của bản sắc được Erikson mô tả: Van Hoof (1999) khám phá chiều cạnhthời gian và không gian cùa bản sac; Marcia (1966) xây dựng mô hình trạng thái bản sắc để làm rõ chiềucạnh khám phá và cam kết của bảnsắc...
Là mô hình nghiên cứu về bản sắc được biết đến rộng rãi nhất cho tới nay, mô hình trạng thái bản sắc củaMarcia được xây dựng dựa trên hai tiêu chí khám phá và cam kết: khám phả đề cập đến một khoảng thời gian mà thanh thiếu niên suy ngầm, tìm hiểu, thử sức với nhiều vai trò và kế hoạch cuộc sống khác nhau nhằm chọn ralối đi có ýnghĩa cho mình; cam kết liên quan đến mức độ đầu tư của thanh thiếu niên trong quá trình hành động hoặc trong niềm tin.
Theo đó, mô hình này phân loại cá nhân vào một trong bốn nhóm được gọi là trạng thái bản sắc.
Cụ thể hon, trong lý thuyết này, cá nhân định vị bản thân vào trạng thái bản sắc dựa trên sự kết họp của yếu tố khám phá vàcam kết. “Bản sắc mơ hồ” (diffusion) đượcxác lập bởi mức độkhám phá và cam kếtđều thấp (trải quasự khám phá ít ỏi, ít ý nghĩa và chưa đạt được cam kết nào cho mình). “Bản sắc được trao cho” (forclosure) được xác lập bởi mức độ khám phá thấp và cam
80 TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021
kết cao (cánhân đi đến cam kết dựatrên những người cóý nghĩa với mình mà ít hoặc không có sự tự khám phá, coi như được trao cho bản sắc). “Bản sắc tạm hoãn” (moratorium) được xác lập bởi mức độ khám phá cao và cam kết thấp (những người đang vật lộn khám phá để đạt được cam kết). “Bản sắc đạt được”
(achievement)có mức độ khám phávà cam kết đều cao (cá nhân đãđi đến cam kết thông qua một quá trình khám phá, bản sắc cá nhân coi như đã được cấu trúc hoàn thiện). Trong đó, bản sắc mơ hồ được xem là trạng thái kém phát triển nhấtvà bản sắc đạt được là trạng thái phát triển nhất.
Khám phá (mức cao) Bản sắc
tạm hoãn
Bản sắc đạt được
Cam kết (mức thấp) < * Cam kết (mức cao) Bản sẳc
mơ hồ
Bản sẳc được trao cho
Khám phá (mức thấp)
Sơ đồ 1: Bổn trạng thải bản sắc dựa theo lý thuyết của James Marcia (1966)
Mặc dù các nhànghiên cứu khác đã coi bản sắc hiện diện trong các lĩnh vực riêng biệt (như nghề nghiệp, tôn giáo...), các miền đo/lĩnh vực được đưa vào việc nghiên cứu trạng thái bản sắc không nhằm chỉ ra bản sắc đó là gì mà để góp phần chỉ ra cấu trúc ẩn bên dưới, thúc đẩy sự hình thành bản sắc: mức độ khám phá và cam kết của cá nhân. Mở rộng phạm vi nghiên cứu ra ngoài tuổi vị thành niên, Marcia (1966) nhấn mạnh ràng việc đánh giá dựa trên quá trìnhhình thành chứ không phảinội dung của bản sắc, tức là sựhiệndiện, mức độ khám phá và cam kết chứ không phải mô tả hệ giá trị, niềm tin, mục tiêu của khách thể.
Trong nghiên cứu này, mô hình trạng thái bản sắc dựatrên lý thuyết của Marcia lần đầu được khảo sát trên khách the là thanh thiếu niên Việt Nam thông qua thang đo Trạng thái bản sắc (Extended Objective Measure of Ego Identity Status EOM EIS-2) (Bennion và Adams, 1986).
TẠPCHÍTÂMLÝ HỌC, SỔ 8 (269), 8-2021
2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Thu thậpsổ liệu
Số liệu khảo sát được tiến hành thu thập qua 2lần, lầnđầunhằmkiểm định độ tincậy và độ hiệu lực củabảng hỏi, lần thứ hai nhằm điều ưa chính thức. Việc tham gia khảo sát là tự nguyện, các khách thề thanh thiếu niên được biếtvề mục đích khảo sát, lợi ích và nguy cơ cũng như tính bảo mật của những thông tin cá nhân màhọ cung cấp. Thời gian để hoàn thành thang đolà 15 - 20 phút.
2.2. Mau nghiên cứu
Số lượng thanh thiếu niên (tuổi từ 15 đến 25 tuổi)tham gia khảo sát trong lần 1 là 53 người, lần2 là 502 người. Trong lần khảo sát chínhthức (lần 2), mầu nghiên cứu có tuôi trung bình là 19,08 (SD = 3,27), các tiêu chí chọn mẫu bao gồm giới tính, nhómtuổi, trình độ học vấn và nơi sống (3 tỉnh/thành: Hà Nội, Bắc Ninh,Thái Nguyên), với đặcđiểm cụthể như sau:
Bảng 1: Thông tin nhân khâu - xã hộicủamẫunghiên cứu
Biến số Nhóm Số lượng Tỷ lệ (%)
Giới tính Nam 208 41,4
Nữ 294 58,6
Nhómtuổi
Từ 15 đến 17tuổi 190 37,8
Từ 18đến 21 tuổi 171 34,1
Từ 22 đến 25 tuổi 141 28,1
Trình độ học vấn
Đang họcTHPT 191 38,1
Đã hoàn thành THPT 222 44,2
Đại học ưởlên 89 17,7
Nơi sống Thànhthị 305 61,2
Nông thôn 193 38,8
Tông 502 100,0
2.3. Công cụ nghiêncứu
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên thang đo Trạng thái bản sắc (Extended Objective Measure of Ego Identity Status EOM EIS-2) của Bennion và Adams (1986). Là một trong những thang đo phổ biến và được sử dụng
82 TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021
rộng rãi trong các nghiên cứu về trạng thái bản sắc, EOM-EIS-2 là phiên bản chỉnh sửa ra đời năm 1986 của thang đo gốc cùng tên, cùng tác giả (được thiết kế lần đầu vào năm 1979). Thang đo này dựa trên lý thuyết của Marcia về 4 trạng thái bản sắc, mở rộng miền đo lường gồm bản sắc tư tưởng và bản sắc mối quan hệ.
Thang đo có 64 mệnh đề (item), trong đó: miền đo tư tưởng gồm 32 mệnh đề, hợp thành bởi 4 lĩnh vực: Nghề nghiệp, Tôn giáo, Quan điềm chỉnh trị, Lổi sống-, miền đo mối quan hệ gồm 32 mệnh đề, hợp thành bởi 4 lĩnh vực:
Tình bạn, Hẹn hò, Vai trògiới, Sở thích. Đồng thời, mồi miền đo lại gồm có 4 trạng thái bản sắc: bản sắc mơ hồ, bản sắc được trao cho, bản sắc tạm hoãn, bản sắc đạt được. Theo đó, mồi trạng thái bản sắc nhận được 2 mệnh đề từ 4 lĩnh vực cùng miền đo.
Cụ thể, cấu trúc thang đocó thể được hình dung như sơ đồ 2 dướiđây:
Ghi chú: BSTT: Bản sẳc tưtưởng; BSMQH: Bảnsắcmối quan hệ.
Sơ đồ2: Cấu trúc thang đoEOM-EIS-2
Ví dụ, về các itemtrong thang đo: Item 2: “7oz không quan tâm tìm một công việcphù hợp với mình mà sẵnsàng làm bất kỳ công việc nào cũng được.
Tôi xuôi theo những gì có sẵn” nằm trong lĩnh vực nghề nghiệp và được xếp vào “bản sắc mơ ho”; Item 28: “Quan điếm songcủa bố mẹ là đủ tốt đê tôiđi
TẠP CHÍ TÂMLÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021 83
theo rồi, tôi không cần bất cứ điều gì khác" nằm trong lĩnh vực lối sống và được xếp vào “bản sắc được trao cho”; Item 45: “Toz đangcố gắng thử nghiệm nhiều kiêu hẹn hò khác nhau nhưng tôi chưa quyết định kiểu gì là tốt nhấtđối với tôi" nằm trong lĩnh vực hẹn hò và được xếp vào “bản sắc tạm hoãn”; Item 40: “7ớz đã trải qua nhiều tình bạn khác nhau và bây giờ tôi có ỷ tưởng rõ ràngvề điềumà tôi tìm kiếm ở một người bạn" nằm trong lĩnh vực tình bạn và được xếp vào “bản sắc đạt được”.
Khi đưa vào sử dụng trong nghiên cứu, thang đo này trải qua khảo sát thử để điều chỉnh một số lĩnh vực (Tôn giáo thành Tâm linh, Quan điểm chỉnh trị thành Quan điểm chính trị - xã hội) và cách diễn đạt mệnh đề sao cho phù hợp bối cảnh văn hóa Việt Nam.
Thang đo có dạng Likert với thang điềm từ 1 đến 6, trong đó 1 điểm tương ứng với “Hoàn toànkhông đồng ý” và 6 điểmtương ứng với “Hoàn toàn đồng ý”. Thang đo chỉ tính điểm trên trục bản sắc, theo đó mồi khách thể sẽ có 4 đầu điểm trạng thái bản sắc tư tưởng (BSTT) và 4 đầu điểm trạng thái bản sắc mối quan hệ (BSMQH). Việc chấm điểm thang đo được thực hiện tự động dựa trên phần mã lệnh đưa vào phần mềm SPSS, được dẫn trong cẩm nang sử dụng thang đo EOM-EIS-2 của Adams và cộng sự (1989), trong đó biến số đầu ralà bản sắc tư tưởng vàbản sắc mối quan hệ của khách thể đã được phân loại vào 1 trong 4 trạng thái bản sắc nhất định. Độ tin cậy Alpha của Cronbach của toàn thang đo ở lần khảo sát chính thức là 0,895.
2.4. Phỏng vẩn sâu
Có 8 khách thể từ cuộc khảo sát bằng bảng hỏi được chúng tôi chọn tiếp đe tham gia phỏng vấn. Trong đó, mồi nhóm trạng thái bản sắc có 2 người, đảm bảo tiêu chí có trạng thái bản sắc tư tưởng và bản sắc mối quan hệ đồng nhất (ví dụ, cùng thuộc trạng thái mơ hồ). Mục đích của phỏng vấn sâu không nhằm làm rõ sự khác biệt giữa 2 miền đo mà tập trung vào phác họa các ấn tượng tống thể về trạng thái bản sắc của thanh thiếu niên.
2.5. Xử lý dữ liệu
Kết quả đầu ra của thang đo EOM-EIS-2 là mồi cá nhân có một trạng thái bản sắc tư tưởng và một trạng thái bản sắc moi quan hệ đã được phân loại vào một trong bốn nhóm ở sơ đồ 1. Dựa vào kết quả này, chúng tôi tìm hiểu tỷ lệ phân bố trạng thái bản sắc ởthanh thiếu niên nói chung, cũng như sự phân bố trạng thái bản sắc theo độ tuổi và theo giới tính ở mỗi miền đo. Cùng với đó, chúng tôi bước đầu mô tả chân dung từng trạng thái bản sắc dựa vào dừ liệu phỏng vấn sâu.
84 TẠPCHÍTÂMLÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021
3. Kết quâ nghiên cứu
5.1. Bồndạngtrạngthải hãn sac ờ thanh thiếu niên Việt Natn
Phân bổ trạngthái “bản sắc tư tưởng” trong mẫu nghiêncứu cho thấy:
110 người (chiếm 23,2%) có “bản sắc mơhồ”, 98 người (chiếm 20,7%) có “bản sắc được trao cho”, 248 người (chiếm 52,3%) có “bản sắc tạm hoãn”
và 18 người (chiếm 3,8%) có “bản sắc đạt được”. Các lĩnh vực của miền đo nàygồm có nghề nghiệp (liên quanđến lựa chọn công việc mong muốn và phù họp, xác định năng lực bản thân), tâm linh (quan điềm và niềm tin của cá nhân về thế giới siêu hình, bao gồm cả tôngiáo và tín ngưỡng), quan điểm chính trị - xã hội (bao trùm về đời sống xã hội và sự vận hành đất nước nói chung) và lối sống (cách sống lý tưởng, đáng mơước).
3.8%
■ Bàn sắc mơ hồ
■ Bàn sắc được trao cho
■ Bàn sắc tạm hoãn
■ Bản sắc đạt được
Biểu đồ 1: Phán bốtrạng thải bản sắc tư tưởng
Phản bổtrạng thải “bản sắc mối quan hệ ” trong mẫu nghiên cứu cho thấy:
6.8%
■ Bản sắc mơ hồ
■ Bán sẳc được trao cho
■ Bàn sắc tạm hoãn
56.0%
■ Bản sẳc đạt được
5.8%
31.4%
Biểu đồ2: Phân bổ trạng thảibản sắcmối quan hệ
TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021 85
147 người (chiếm 31,4%) có “bản sắc mơ hồ”, 27 người (chiếm 5,8%) có “bản sắc được trao cho”, 262 người (chiếm 56%) có “bản sắc tạm hoãn” và 32 người (chiếm 6,8%) có “bản sắc đạt được”. Các lĩnh vực của miền đo này gồm có tình bạn (có bạn thân, tìm kiếm bạn thân ra sao), hẹn hò (quy tắc cho việc hẹn hò và kiếu đối tác mong muốn), vai trò giới (việc phân chia trách nhiệm trong hôn nhân) và sở thích (cáchoạt độnggiải trí).
Người có “bản sắc mơ hồ” chiếm tỷ lệ vừa phải trong mẫu nghiên cứu (từ 23,2% đến 31,4%). Bản sắc này được Kroger và Marcia (2011) mô tả theo hai hướng: theo hướng tích cực, họ có biếu hiện linh hoạt và thích nghi tốt, có thế được định hình bởi bất cứ điều gì đang ảnh hưởng đến họ; theo hướng tiêu cực, họ trống rồng và cô đơn, bị bao vây bởi cảm giác vô nghĩa vì thiếu vắng ý thức nội tại về tự định nghĩabản thân, họ phải liên tục tìm kiếm từ bên ngoài các nguồn để xác định họ là ai và sẽ là ai. Qua phỏng vấn sâu, một số chân dung có bản sắc mơ hồ ở cả 2 hướng hiện lên tương đối giống với mô tả của Marcia: “7oz tự thấy mình nếu như có hứng thú với cái gì đó thì sẽ rất chăm chỉ tìm hỉêu nhưng nhanh chán, mâu thuẫn, hời hợt với nhiều vấn đề, hay lo lắng nghi nhiều. [...] Khó khăn mà tôi đãtrảiqua trong quá trình tìm hiểu bản thân là những lúc cảm thấy lạc lõng và khác biệt. Kiểu như tôi không thực sự hỉêu rõ về chỉnh mình và luôn hành động theo những gì người khác nói, hoặc là cảm thấy bản thân mình đúng như những gì người khác nhận xét về mình.
Và điều đó rất khó đếtự chỉnh lại suy nghĩ của mình về bản thân mình rasao, là ai. Nhiêu khi tôi phải luôn luôn tự hỏi bản thân mình là ai và rất nhiều câu hỏi khác cũng nhưnhững lúc mâu thuẫn với chỉnh bản thân mình chỉ để tìm ra một câu trả lời chỉnh xác về minh'" (PVS 1.1, nữ, 23 tuổi). "Em đôi lúc cũng khônghiêu tỉnh cách em lắm nữa, có lẽdo dậy thì nên trong đầu em luôn thay đôisuy nghĩ một cách chóng mặt nữa. Em là một người vui vẻ, lạc quan, luôn đem tiếngcườicho mọi người, thường thì ai cũngnhận xét em như thế. Em còn là một con người hòa đồng và cỏ thê kết bạn rất nhanh chỉ qua vài lời nói chuyện'''’ (PVS 1.2, nam, 17 tuổi). Đứng trước khủng hoảng hay khó khăn, người có bản sắc mơ hồ đặc trưng bởi sự thiếu khám phá lẫn cam kết, đem đến một cách ứng phó có phần né tránh: "Trước thách thức khó thì tôi dề nản lòng và hay cỏ dấu hiệu lảng tránh. Nhưng khỉ sự việc đã xảy ra rồi thì lại hay suynghĩ và thấy hổi hận vì bản thân không chịu làm tốt hơn” (PVS 1.1, nữ, 23 tuổi).
Người có “bản sắc được trao cho” trong mẫu nghiên cứu có sự phân bố không đồng đều giữa 2 miền đo, chiếm tỷ lệ lớn hơn đáng kể ở miền tư tưởng (chiếm 20,7%) so với miền mối quan hệ (chiếm 5,8%). Cá nhân mang bản sắc này được Marcia và Kroger (2011) cho rằng có sự hiện diện đầy mạnh mẽ và tự định hướng (như nhóm có bản sắc đạt được), nếu các giá trị họ theo đuổi là xu hướng chủ đạo mà xã hội ủng hộ, họ có vẻ “hạnh phúc”, “thích ứng tốt”,
86 TẠP CHÍTÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021
yêu thương gia đình và cũng được gia đinh yêu thương; ngược lại, nếu họ đi lệch khỏi thái độ phù hợp với xã hội, họ sẽ trải nghiệm cả sự chối bỏ bởi bản thân và gia đình. Biểu hiện này được làm rõ qua chia sẻ của một khách thế trong phỏng vấn (PVS 2.1, nam, 17 tuối). Một mặt, khách thể này tựthấy rằng
“Mình là một người tự tin vào bản thân mình, mặc dù có nhiều người chê bai, nói xấu thì với mình đó chỉ là những lời ngoài tai. Mình là người rất hòa đồng với bạn bè, người thân, mọi người trong bấtkỳ cộng đồng nào. Mình là người sống thiên về tình cảm khả nhiều vì mình nghĩ tình cảm mới có thế đem lại hạnh phúc. Mình rất hài lòng với cuộc sổng xung quanh mình. Nếu có người cầngiúp đỡthì mình sẵn sàng giúp họ hết mình có thế. Mình không ngần ngại khỉ mình bộc lộ tài năng hoặc tỉnh cách của bản thân bởi điều đó cho mình cảm giác rằngmình có thê được là chính mình" nhưng mặt khác, bản sắc của khách thể này chứa đựng những giá trị khác biệt với gia đình và khó được chấp nhận “Điều khủng khiếp nhất của mình là vào mùa đông năm 2018, cha mẹ mình đã phát hiện ra con người thật của mình và họ không châp nhận con người ẩy. Bởi vì sự cổ ấy đã khiến cho khoảng cách giữa mình và cha mẹ trở nên xa cách hem rất nhiều. Khoảng thời gian ẩy giông như một lô thủng lớn trong cuộc đời mình không thể quên được". Đặc biệt, những người mang bản sắc được trao cho thể hiện sự gắn kết mạnh mẽ với gia đình. Một số người cũng bày tỏ trong cuộc phỏng vấnvề xu hướng gắn kết đó thông quamô tả về bảnthân như “Mình là con đầu tronggia đình 4 người" (PVS 2.1, nam, 17 tuổi - khách thể này chỉ mô tả về vai trò trong gia đình khi nói về các vai trò xã hội của mình); “Mình là con cả trong gia đình có hai chị em, với mình gia đình luôn là ưu tiên so 1"(PVS 2.2, nữ, 23 tuổi).
Người có “bản sắc tạm hoãn” chiếmtỷlệ lớn nhất trong mầu nghiên cứu (hơn 50%). Chúng tôi cũng lưu ý rằng,do thang đo xếp những cá nhân có điếm thô của 4 trạng thái đều ở dưới ngưỡng vào bản sắc tạm hoãn (nhóm này còn được gọi là low-profile moratorium hay bản sắc tạm hoãn ở mức thấp), tỷ lệ bản sắc tạm hoãn tăng mạnh. Cụ thể, trong miền đo tư tưởng có 194 người thuộc nhóm này, chiếm 78,2% số người mang bản sắc tư tưởng tạm hoãn;
trong miền đo mối quan hệ, 211 người mang bản sắc tạm hoãn ở mức thấp chiếm 80,5% số người mang bản sắc mối quan hệ tạm hoãn. Do thang đo không làm nổi lên hai chiều cạnh khám phá và cam kết mà ẩn chúng dưới các trạng thái bản sắc, chúng tôi sẽ phân tích dữ liệu của những người có bản sắc tạm hoãn ởmức thấp chung với nhữngngười mang bản sắc tạm hoãn tiêu chuẩn.
Những cá nhân mang “bản sắc tạm hoãn” được Marcia và Kroger (2011) nhìn nhận vô cùng sống động, phức tạp và mâu thuẫn bởi họ chưa hình thành cam kết và đang bận rộn khám phá các lựa chọn để định hình bản sắc. Họ có thể cởi mở chiêm nghiệm các lựa chọn, hoặc chật vật, bế tắc trong những suy tư vô định và chìm vào cuộc khủng hoảng bản sắc. Một số khách thê đã tự mô tả về
TẠP CHÍTÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021 87
mình qua phỏng vấn: “Mình là một con người rất là mâu thuẫn, vỉ dụ như là mình sợ cô đơn nhưng lại thích ở mộtmình. Các bạn mình haynóimình là một người thích nghi tốt, chăng hạn như họ vứt mình vào tình cảnh nào thì mình cũng có thê thích nghi được. Các bạn của mình cũng nói là mình là một con người cởi mở san sàng thử những thứ mới trong cuộc sống" (PVS 3.1, nữ, 18 tuôi) hay là “Tôi thích khám phả mọi thứ, tò mò nhưng cũng có xu hướng chủ quan, mìnhbiết rõ nên mau chán, không duy trì được lâu. Tôi haysuy nghĩ khá nhiều và có xu hướng suy nghĩtiêu cực, đôi khi quả viễn tưởng hóa, đảnh giả cao bản thân và có lúc lại bi kịch hóa vấn để do lo sợ điều gì đỏ sẽ xảy ra như quả khứ. Đứng trước thách thức, đôi lúc tôi có thế nghĩngay ra các mẹo đế giải quyết vấn đề, nhưng cũng có lúc tôi lại phức tạp hóa vấn đề, tự trói buộc bản thân, dan đến cách giải quyết vấn đề bịphức tạpmộtcách không cần thiết"
(PVS 3.2, nam, 25 tuổi). Khách thể này cũng chia sẻ rằng bảnthân “đã có một thờigian dài khủng hoảng bản sac, tựđánh giá thấp bản thân, dan vặt chính bản thân mình, rốiloạnkhỉsắc".
Người có “bản sắc đạt được” chiếm tỷ lệ nhỏ trong mẫu nghiên cứu (từ 3,8% đến 6,8%). Những cá nhân này đã khám phá tích cực các lựa chọn và đi đến cam kết về bản sắc, theo đó được cho là có bản sắc phát triển nhất. Marcia và Kroger (2011) cho rằng, cá nhân mang bản sac đạt được gây ấn tượng bởi sự vững vàng và linh hoạt. Một mặt, họ thể hiện sự chắc chắn, tự tin, đáng tin cậy, họ tập trung, kiên trì trong cuộc sống. Mặt khác, họ có khả năng thấu hiểu người khác, biết hài hòa bản thân để không bị ảnh hưởng bởi bên ngoài cũng như bởi áp lực cuộc sống mà họ lựa chọn. Thông qua phỏng vấn sâu, những đặc điêm này hiện lên rõ horn: “Khigặp mình lần đầu mọi người thường nhận xét mình là người hoà đồng, vui vẻ, thân thiện và luôn tạo cho mọi ngườicảm giác thoải mái, [...] mình thích mầy mò cái mới, thích đượclàm quen với người mới và đến những nơi mới. Minh thường để ỷ đến cảmxúc của mọi người rất nhiều và mình muốn luôn ở đó vì họ. Minh thường là người luôn cổ làm mọi thứđến cùng, mình khôngdễ từbỏ nên khi đứng trước khó khăn mình luôn co gang tìm cách giải quyết. Minh thường đi tìm cặn kẽ vấn đề, lý do dần tới chuyện đó và mình không ngại tổn thời gian và công sức" (PVS 4.1, nữ, 17 tuổi) hay một người khác tự nhận định bản thân là người hòa đồng, dễ kết bạn, đáng tin, hài hước, thích trải nghiệm: “Trong gia đình, tôi là con thứ, cũng là con út, tuy nhiên không vì thế mà tôi không có tiếng nói tronggiađình. Một vài công việc chung củagia đình tôi vẫn được bo mẹ hỏi ý kiến. Trong nhóm bạn bè, tôi luôn là người vạch ra các kế hoạch chỉ tiết mỗi khi chủng tôi có cuộc vui chơi, du lịch, tiệcăn uổng. Trong cuộc việc (công việc trước đây), tôi được giao vị trí nhóm trưởng (team leader), nhóm của tôi gồm 6 thành viên, ngoài việc hoàn thành công việc của mình tôi còn theo dõi tiến độ thực hiện công việc của các thành viên khác, ho trợ họ hoàn thành công việc, đưa ra các
88 TẠP CHÍ TÂMLÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021
hướng giải quyết khi công việc có trởngại” (PVS 4.2, nữ, 25 tuôi). Cả 2 khách thể này đều chia sẻ rằng họ có những quãng thời giankhó khăn nhất định, bản thân cũng có những khía cạnh tiêu cực như quá cảm tính hoặc quá lý trí; tuy nhiên ấn tượng tổng thể về họ là những người tự tin, cuốn hút, hiểu rõbản thân.
Nếu nhìn nhận mức độ phát triển bản sắc đi từ bản sắc mơ hồ đến bản sắc đạt được (tăng dần theo chiều cạnh khám phá rồi đển cam kết), mức độ khám phá về mặt tư tưởng thấp hơn so với mặt mối quan hệ trong mẫu nghiên cứu (vớitỷ lệ phầntrăm cộng dồn hai dạng tạm hoãn và đạt được - hàmý đã có khámphá - ở 2 miền lần lượt là 56,1% và 62,8%). Đồng thời, mức độ cam kết về mặt tư tưởng cao hơn so với mặt mối quan hệ (với tỷ lệ phần trăm cộng dồn hai dạng được trao cho và đạt được - hàm ý đã có cam kết - ở 2 miền lần lượt là 24,5% và 12,6%). Kết quả này có thể liên quan đến đặc điểm văn hóaViệt Nam - nền văn hóa cộng đồng coi trọng việc trao truyền lại tư tưởng qua các thế hệ, theo đó mức độ khám phá về tư tưởng có thể thấp hơn, cũng như mức độ cam kết về tư tưởng sẽ cao hơn khi so sánh với các lĩnh vực mối quan hệ - nơi cá nhân có thể tự chủ hơntrong tương tác của mình với người khác. Ví dụ, trong nghiên cứu về định hướng giá trị gia đình của thanh niên, Nguyễn Đồ Hồng Nhung (2019) đã kết luận rằng “trong mối quan hệ với cha mẹ, thanh niên thể hiện quan điểm truyềnthống đó là hầu hết bày tỏ sự tôn trọng cha mẹ và đồng ý rằng họ nên tuân theo sự hướng dẫn và ý kiến của cha mẹ họ trong mọi vấn đề củacuộc sống” (tr. 78). Nghiên cứu của Trương Thị Khánh Hà (2016) về giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia đình đã chỉ ra rằng, việc vâng lời thầy cô/người lớn tuổi được các bậc cha mẹ ưu tiên thứ ba trong những giá trị quan trọng mà họ mong muốn giáo dục cho con cái (đứng sau giátrị ‘Tà người công dân tốt” và “có kiến thức, có văn hóa, học giỏi”) (tr. 163). Như vậy, các nhận địnhtrên đều chỉ ra rằng trong nền văn hóa Việt Nam, việc con cái nghe lời và tiếp nhận quan điểm của cha mẹ là một giátrị được coi trọng.
3.2. Sự khác biệt lứatuổi trongđịnh vị trạng thải bản sắc Bảng 2:Phân bốtrạng thái bản sắcở các nhóm tuốỉ
Các trạng thái bản sắc
Nhóm tuổi
15-17 18-21 22-25
BSTT BSMQH BSTTBSMQH BSTT BSMQH
Bản sắc Số lượng 52 51 37 65 21 31
mơ hồ
%trong nhóm tuổi 29,2 29,3 22,6 41,4 15,9 22,6
TẠP CHÍTÂMLÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021 89
Ghi chủ: Vịthành niên (15-17); Vị thành niên sangtrưởngthành (18-21); Đầu tuổi trường thành (22 - 25);BSTT: Bản sắctư tưởng; BSMQH: Bản sắc mốiquan hệ.
Bảnsắc Số lượng 36 13 41 10 21 4
được trao cho
% trong nhóm tuổi 20,2 7,5 25,0 6,4 15,9 2,9
Bảnsắc Số lượng 85 99 84 75 79 88
tạm hoãn
% trong nhóm tuổi 47,8 56,9 51,2 47,8 59,8 64,2
Bảnsắc Số lượng 5 11 2 7 11 14
đạtđược
%trong nhóm tuổi 2,8 6,3 1,2 4,5 8,3 10,2
Đê tìm hiểu về sự định vị trạng thái bản sắc theo lứa tuổi, chúng tôi xem xét sự phân bố các trạng thái bản sắc trên miền tư tưởng và mối quan hệ ở các nhóm độ tuổi ra sao, từ đó chỉ ra xuhướng phát triển bản sắc theo lứa tuổi dựa trêndữ liệu cắt ngang.
Đổi với sự phân bổ trạng thải bản sắc tư tưởng ởcác nhóm tuổi, kiểm định Chi bình phương cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổicủa thanh thiếu niên và trạng thái bản sắc tư tưởngcủa họvới x2(6)= 21,435;
p = 0,002. Nhìn chung, trongmỗi nhóm tuổi, bản sắc tạm hoãn đều chiếm tỷ lệ lớn nhất, trên dưới 50%. Bản sắc mơ hồ hiện diện nhiều nhất ở tuổi vị thành niên (chiếm 29,2%); bản sắc được trao cho và bản sắc tạm hoãn hiện diện nhiều nhất ở tuổi vị thành niên sang trưởng thành (lần lượt tương ứng là 25%
và 51,2%); bản sắc đạt được chiếm tỷ lệ nhỏ nhất trên tổng số, hiện diệnnhiều nhất ở đầutuổi trưởng thành (chiếm 8,3%). Khỉ tiến về đầu tuổitrưởng thành, bảnsắc tư tưởng mơ hồ, được trao cho có xu hướng giảm (tương ứng từ 29,2%
xuống 15,9% và 20,2% xuống 15,9%), còn bản sắc tư tưởng tạm hoãn và đạt được có xu hướng tăng lên (tương ứng từ 47,8% lên 59,8% và từ 2,8% lên 8,3%). Ket quả này chỉ ra xu hướng bản sắc phát triển dần theo lứa tuổi, khởi đầu là xu hướng bản sắc mơ hồ ở tuổi vị thành niên, kết thúc là xu hướng đạt được bản sắc ở đầu tuổi trưởng thành, trong đó sự định vị biểu hiện phức tạp nhất ở độ tuổi từ vị thành niên đến trưởng thành (với bản sắc được trao cho và bản sắc tạm hoãn hiện diện nhiều nhất). Ở độ tuổi này, cá nhân thayđổi vai trò trong cuộc sống từ tuổi học sinh còn phụ thuộc cha mẹ sang độc lập hơn khi bước vào đại học hoặc học nghề, các em đối diện với những câu hỏi về nghề nghiệp, định hướng tương lai, quan điểm sống... thuộc lĩnh vực tư tưởng. Có những em tích cực khám phá, tìm hiểu để phát triển bản thân. Một khách thể chia sẻ rằng: trước đây em rất tự tỉ và nhút nhát trước người lạ dù ở trường hay ở ngoài xã hội, em “thường hay tránh tiếp xúc với những người bản hàng haylà thầy cô ”, tuy nhiên độ tuổi và bối cảnh sổng buộc emphải đi làm đểtrang
90 TẠP CHÍ TÂMLÝHỌC, số 8 (269), 8 -2021
trải thêm, từ đó em xây dựng dần sự tự tin và bản lĩnh “Mình có được tựtin khi bắt chuyện với nhữngngười lạ, [...] sau khi đi làm mình đã có thê thoải mái bày tỏ quanđiếm của mình với các bạn và thầy cô” (PVS 3.1, nữ, 18 tuổi). Tuy nhiên, cũng có những em duy trì cam kết đã tạo dựng đe đương đầuvới sự thay đối của hoàn cảnh.
Đối với sự phân bố trạng thải bản sắc mối quan hệ ở các nhóm tuổi, kiểm định Chi bình phương cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa nhóm tuổi của thanh thiếu niên và trạng thái bản sắc mối quan hệ của họ với x2(6)= 18,739; p = 0,005. Nhìn chung, trong mỗi nhóm tuổi, bản sắc tạmhoãn đều chiếm tỷ lệ lớn nhất, trên dưới 50% như miềnđo tưtưởng. Bản sắc mơ hồ hiện diện ở tuổi vị thành niên sang trưởng thành nhiều nhất (chiếm 41,4%);
bản sắc được trao cho hiện diện ở tuổi vị thànhniên nhiều nhất (chiếm 7,5%);
bản sắc tạm hoãn và đạt được hiện diệnnhiều nhất ởđầu tuổi trưởngthành (lần lượt tương ứng với 64,2% và 10,2%). Khi tiến về đầu tuổi trưởng thành, bản sắc mối quan hệ mơ hồ, được trao cho có xu hướng giảm (tương ứng từ 29,3%
xuống 22,6% và 7,5% xuống 2,9%), còn bản sắc mối quan hệ tạm hoãn và đạt được có xu hướng tăng lên (tương ứng từ 56,9% lên 64,2% và từ 6,3% lên 10,2%). Kết quả này cũng chỉ raxu hướng bản sắc phát triển dần theo lứa tuổi, tuy nhiên có đặc trưng khác so với miên tư tưởng, ơ đây, có thê thây rõ xu hướng khámphá về mặt mối quan hệ tăng dần theo độ tuổi, trong khi đó, mặt tư tưởng đặc trưng bởi sự phức tạp trong việc lựa chọn cách thức khám phá hay cam kết trước sự thay đổi vai trò ở tuổi chuyển tiếp từ vị thành niên sang trưởng thành.
3.3. Sự khác biệt giớitinhtrongđịnh vị trạngthái bảnsắc Bảng 3: Phân bố trạngthái bản sắc mối quan hệ theogiới tỉnh
Bản sắc mối quan hệ Giói tính
Nam Nữ
Bản sắc mơ hồ Sốlượng 65 82
%tronggiớitính 33,0 30,3
Bản sắcđược trao cho Sốlượng 18 9
%tronggiớitính 9,1 3,3
Bản sắc tạmhoãn Sốlượng 102 160
%trong giới tính 51,8 59,0
Bản sắc đạt được Sốlượng 12 20
%trong giới tính 6,1 7,4
TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8-2021 91
Đe tìm hiểu về sự định vị trạngthái bản sắc theo giới tính, chúng tôi so sánh sự phân bố các trạng thái bản sắc trên miền tư tưởng và mối quan hệ ở mồi giới tính, từ đó kỳ vọng tìm ra sự khác biệt. Trong nghiên cứu của chúng tôi, kết quả kiểm định Chi bình phưcmg cho thấy không có mối liên hệ có ý nghĩa thống kê giữa sự phân bố trạng thái bản sắc tư tưởng và giới tính; nói cách khác, giữa nam giới và nữgiới không có khác biệt đáng kể về sự định vị bản sắc tư tưởng. Tuy nhiên, miền đo mối quan hệ cho thấy một kết quả khác (bảng 3).
Kiêm định Chi bình phương cho thấy có mối liên hệ có ý nghĩa về mặt thống kê giữa giới tính của thanh thiếu niên và trạng thái bản sắc mối quan hệ của họ với x2(3)= 8,313; p = 0,04. Ớ đây, chúng tôi căn cứ vào bản sắc tạm hoãn và bản sắc đạt được để chỉ ra sự khám phá - 2 dạng bản sắc này đều hàm chứa ý tưởng cá nhân đã có sự khám phá nhất định. Theo đó, có thể thấy ở khách thể nữ có mức độ khám phá bản sắc về mặt mối quan hệ cao hơn so với khách thể nam - với tỷ lệ 59% so với 51,8% trên bản sắc tạm hoãn và tỷ lệ 7,4% so với 6,1% trên bản sắc đạt được. Ket quả này sẽ được bàn luận thêm trong phần sau.
4. Bàn luận chung
Bảng4: Tỷ lệ cáctrạng thái bản sắc chia theo tuổi trong nghiên cứu của Kroger, Martỉnussen, Marcia (2010)
Tuổi
Số lượng nghiên cứu chứa độ tuổi
tương ứng
Cỡ mẫu
Tỷ lệ (%) Bản sắc
đạt được
Bản sắc tạm hoãn
Bản sắc được trao cho
Bản sắc mơ hồ
15 9 3.471 19 29 23 31
16 13 3.037 16 32 23 28
17 17 2.757 25 37 20 23
18 19 1.096 17 36 20 24
19 20 1.181 21 42 12 19
20 14 572 22 37 21 21
21 18 792 23 32 17 26
22 8 247 34 27 12 20
23-29 11 253 31 18 23 24
92 TẠP CHÍ TÂM LÝHỌC, số 8 (269), 8 -2021
Nhìn chung, kết quả nghiên cứu trạng thái bản sắc của thanh thiếu niên Việt Namchỉ rasự tươngđồng cũng như khác biệtnhất định với nhữngnghiên cứu trên thế giới. Có thể thấy, sự phân bố tập trung vào bản sắc tạm hoãn, kế đó là bản sắc mơ hồ; bản sắc được trao cho và bản sắc đạt được chiếm tỷ lệ nhỏ (tổng tỷ lệ không quá 25%, trong đó bản sắc đạt được ở miền đo tư tưởng và mối quan hệ xấp xỉ 4% và 7%). Sự phân bố này tương đối khác biệt khi đặt cạnh những nghiên cứu cùng chủ đề ở phương Tây. Trong nghiên cứu siêu phân tích (tập hợp 52 nghiên cứu cắtngang với các đánh giá phân loại về trạng thái bản sắc, thực hiện ở khu vực Bắc Mỹ) của Kroger, Martinussen và Marcia (2010), bảng 4 cho thấy tỷ lệ trạng thái bản sắc ở các độ tuổi có chênh lệch song không quá rõ rệt như kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Bản sắc đạt được trong những nghiên cứu này cũng luôn chiếm tỷ lệ trên 15%. Mặt khác, có thế thấy khi càng tiến về tuổi trưởng thành, tỷ lệ bản sắc đạt được và bản sắc tạm hoãn tăng trong khi tỷ lệ bản sắc được trao cho và bản sắc mơ hồ giảm - kết quảnày phù hợp với kết quả nghiên cứu củachúng tôi.
Từ đây, có thể nhận định rằng thanh thiếu niên Việt Nam có đặc điểm phát triển bản sắc cá nhân ở mức thấp hơn và tốc độ chậm hơn so với thanh thiếu niên phương Tây (dựa trên thang đo Trạng thái bản sắc EOM-EIS-2).
Liệu rằng sự khác biệtnày do đặc điểm của nền văn hóa - xã hội cộng đồng tác động (nơi khuyến khích sự tuân thủ và tiếp nhận giá trị truyền thống hơn là sự tự chủ của con trẻ) hay thực chất bản sắc cá nhân của thanh thiếu niên Việt Nam phát triển theo một hệ tiêu chí khác, mang đặc thù khác? Đê trả lời câu hỏi này, chúng tôi lưu ý thấy phần lớn các nghiên cứu về trạng thái bản sắc được thực hiện ở Bắc Mỹ, do đó cần tính đến khác biệtvăn hóakhi đưa vấn đề nàyvào nghiên cứu ở bối cảnh khác. Ví dụ, Adams và cộng sự (1989) sửdụng thang đo EOM-EIS-2 trong một nghiên cứu ở Na Uy, kết quả cho thấy mức độ khám phá và cam kết của khách thể là sinh viên đại học (ở cuối tuôi thanh thiếu niên) thấp hơn 5 mẫu nghiêncứu trên sinh viên từ những vùng khác nhau của Hoa Kỳ. Nhóm nghiên cứu lý giải do đặc thù của xã hội Na Uy hòa hợp giữa phúc lợi và sự tự do, nhấn mạnh sự cân bằng giữa các cá nhân, do đó có thể xã hội này không đặt nặng quá trình khám phá và cam kết cá nhân lên những người trẻ tuổi ở đây so với bối cảnh Bắc Mỹ - nơi chú trọng các giá trị mang tính cá nhân. Do vậy, sự khác biệt trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi khi so sánh với các nghiên cứu ở khu vực Bắc Mỹ có thể được giải thích do yếu tố văn hóa can thiệp. Một vấn đề nữa có thểxem xét đe giải thích,đó là tỷ lệ phân bố trạng thái bản sắc của thanh thiếu niên trong đề tài chủ yếu rơi vào nhóm bản sắc tạm hoãn (chiếm xấp xỉ 50% ở cả 2 miền đo), trong đó phần lớn là bản sắc tạm hoãn ở mức thấp - dữ liệu nàykéo điểm trung bình xuống trên tất cả các trạng thái bản sắc do đó mầu nghiên cứu hiện lên với mức phát triển bản sắc thấp. Có thể thấy lý do chủ yếu của kết quả này là cách phân loại của
TẠP CHÍTÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8-2021 93
thang đo (xếp bản sắc tạm hoãn ở mức thấp vào chung nhóm bản sắc tạm hoãn) và sâu xa hơn nữa là dựa trên chuẩn của nhóm mẫu Hoa Kỳ. Amett (2008), Henrich và cộng sự (2009) cho rằng các nghiên cứu tâm lý cần khắc họa tốt hơn về những cá nhân đến từ các quốc gia không thuộc phương Tây, khi mà các kết quả dựa trên mẫu nghiên cứu của Hoa Kỳ có thể không mang tính khái quátđối với những người từ các quốc gia khác. Theo đó, kết quả này đặt ra nhiệm vụ cần xây dựng chuẩn thang đo hoặc thang đo dành riêng cho ngườiViệt Nam.
Nhiều nghiên cứu nước ngoài đã chỉ ra sự khác biệt về giới tính trong định vị trạng thái bản sắc, cụ thể nam giới có bản sắc tư tưởng sắc nét hơn nừ giới, trong khi nữ giới có bản sắc mối quan hệ sắc nét hơn nam giới. Việc đạt được bản sắc ở nữ giới có thể là một quátrình dài lâu hơn do sự tham gia của khía cạnh mối quan hệ liên cá nhân (nó đóng vai trò quan trọng với bản sắc phụ nữ) bên cạnh lĩnh vực về hệ tư tưởng và thậm chí khía cạnh này cũng có thể quan trọng với nam giới hơn trong những nghiên cứu trước kia từng chỉ ra.
Thật vậy, trong nhiều nghiên cứu từ năm 1966 đến năm 1979, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến các mối quan hệ và tình bạn (Douvan và Adelson, 1966), coi trọng các kỹ năng xã hội, họ cũng phản bác quan điếm rằng bản sắc đối với họ chỉ xoay quanh nghề nghiệp (Stein và Bailey, 1973), họ sử dụng các mối quan hệ liên cá nhân nhiều hơn là các mục tiêu nghề nghiệp như cách đe giải quyết vấn đề về bản sắc - hay nói cách khác, họ tự định nghĩa mình trong mối quan hệ với những người có ý nghĩa với họ (Josselson và cộng sự, 1977). Ketquả này hiện diệnngược lại ở nam giới, khi mànam giới tỏ ra trưởng thành hơn nữ giới trong các lĩnh vực nghề nghiệp, tôn giáo, chính trị còn nữ giới trội hơn trong lĩnh vực vai trò giới (Hodgson và Fischer, 1979). Grotevant, Thorbecke và Meyer (1982) cũng cho rằng, phụ nữ có xu hướng khám phá tích cực hơn nam giới trong lĩnh vực tình bạn và hẹn hò. Như vậy, kết quả của nghiên cứu này khá tương đồng với các kết quả trên thế giới trong việc chỉ ra sự khác biệt về giới tính trong việc định vị bản sắc mối quan hệ.
Do đây là nghiên cứu bước đầu về chủ đề trạng thái bản sắc ở thanh thiếu niên Việt Nam, nó tồn tại một số hạn chế. Thứ nhất, bản sắc cá nhân được tham chiếutrên khung lý thuyếtcủa phươngTây (lý thuyết trạng thái bản sắc cá nhân của Marcia) - nơi xã hội chú trọng tính cá nhân và sự phát triển cá nhân. Trong khi đó, nội hàm bản sắc cá nhân ở các quốc gia phương Đông có nền văn hóa cộng đồng có những khác biệt nhất định, chú trọng sự hài hòa trong tập the. Markus và Kitayama (1991) lưu ý rằng nhừng cách hiểu khác nhau về cái Tôi giữa nền văn hóa phương Tây và phương Đông đã góp phần vào các cách tiếp cận khác nhau về sự hình thành bản sắc: trong khi các cá
94 TẠPCHÍ TÂM LÝHỌC, sổ 8 (269), 8 -2021
nhân trong các xã hội phương Tây thiết lập bản sắc riêng thông qua việc tự khám phá và thể hiện bản thân thì những người trong các nền văn hóa phương Đông cố gắng tạo ra sự phụthuộc lẫn nhau hài hòavới các thành viên trong gia đình và xã hội như một cách để đạt được bản sắc. Nói cách khác, trong khi mô hìnhhình thành bản sắc của phương Tây xuất phát từcác giá trị của chù nghĩa cá nhân và sựđộc lập - coi quá trình hình thành bản sắc là sựkhám phá và thử nghiệm tích cực thì ở các nền văn hóa châu Á xuấtphát từ chủ nghĩa tập thế và sự phụthuộc lẫn nhau lại thúc đẩy một con đường khác để hìnhthành bản sắc:
nhấn mạnh việc chấp nhận và ôm giữ các vai trò giađình và xã hội của cá nhân (Berman và cộng sự, 2011). Thứ hai, nghiên cứu đi theo thiết kế cắt ngang, do đó dừ liệu chưa chỉ ra đặc điểmvề quá trình phát triển bản sắc cá nhân ởthanh thiểu niên Việt Nam một cách đầy đủ và toàn diện. Khi mở rộng nghiên cứu theo chiều dọc, dữ liệu sẽ cho phép nhà nghiên cứu khái quát được sựthay đoi của cá nhân qua từng giai đoạn, có căn cứ xác đáng hơn nhằm đề xuất biện pháp can thiệp phù hợp vào từng giai đoạn lứa tuổi của thanh thiếu niên.
5. Kết luận
Tóm lại, nghiên cứu về trạng thái bản sắc của thanh thiếu niên dựa trên lý thuyết cùng tên của Marcia bước đầu đã cho thấy bức tranh tổng thể: sự phân bố tập trung vào bản sắc tạm hoãn, kế đó là bản sắc mơ hồ; bản sắc được trao cho và bản sắc đạt được chiếm tỷ lệ nhỏ; đồng thời kết quả cũng chỉ ra ràng nhìn chung sự phát triển bản sắc cá nhân trong nghiên cứu nằm ở mức thấp và tốc độ chậm hơn so với thanh thiếu niên phương Tây. Tuyvậy, nghiên cứu vẫn chỉ ra động thái phát triển trạng thái bản sắc theo lứa tuổi: khi càng tiến về tuổi trưởng thành, tỷ lệ bản sắc đạt được vàbản sắc tạm hoãntăng trong khitỷ lệ bản sắc được trao cho và bản sắc mơ hồ giảm. Mặt khác, nữ giới có sự tích cực hơn nam giới trong việc khám phá bản sắc mối quan hệ. Các kết quả trên gợi mở hướng đi tiếp theo trong lĩnh vực nghiên cứu bản sắc cá nhân của thanh thiếu niên Việt Nam: tìm ra tiêu chí nào nằm trong nội hàm bản sắc cá nhân sống trong nền văn hóa cộng đồng, nghiên cứu động thái phát triền bản sắc cá nhân theo lứa tuồi bằng nghiên cứu chiều dọc, xác định các yếu tố tác động thúc đẩy bản sắc phát triển. Trên cơ sở đó, những kiến nghị thực tiễn, hiệu quả được đề xuất để giúp đỡ thanh thiếu niên xác lập được bản sắc cá nhân lành mạnh.
Tài liệu tham khảo Tàiliệu tiếng Việt
1. Trương Thị Khánh Hà (2016). Giáo dục giá trị cho trẻ em trong gia đình (sách chuyên khảo). NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
TẠPCHÍ TÂM LÝ HỌC, số 8 (269), 8 -2021 95
2. Nguyễn Đỗ Hồng Nhung (2019). Định hướng giá trị liên quan đến gia đình của thanhniên. Tạp chí Tâm lý học xãhội. số 7. Tr. 69 - 81.
Tàiliệu tiếng Anh
3. Adams G.R., Bennion L. and Huh K. (1989). Objective measure of ego identity status: A reference manual. Ontario, Canada: UniversityofGuelph.
4. Arnett J.J. (2008). Theneglected95%: Why American psychology needs to become lessAmerican. American Psychologist.Vol. 63 (7). p. 602 - 614.
5. Bennion L. and Adams G. R. (1986). A revision ofthe extended version of the objective measure of ego identity status: An identity instrument for use with late adolescents. Journal of Adolescent Research. Vol. 1. p. 183 - 198.
6. Berman S.L., You Y., Schwartz s., Teo G. and Mochizuki K. (2011). Identity exploration, commitment, and distress: A cross national investigation in China, Taiwan, Japan, and the UnitedStates. Child Youth Care Forum. Vol. 40. p. 65 - 75.
7. Constantinople A. (1969). An Eriksonian measure of personality development in college students. Developmental Psychology. Vol. 1 (4). p. 357 - 372.
8. DouvanE. and Adelson J. (1966). Theadolescent experience. Wiley: New York.
9. Grotevant H.D., Thorbecke w. and Meyer M.L. (1982). An extension ofMarcia’s identity status interview into the interpersonal domain. Journal ofYouth and Adolescence.
Vol. 11. p. 33 -48.
10. Henrich J., Heine S.J. and Norenzayan A. (2009). The weirdest people in the world?. Behavioral andBrain Sciences. Vol. 33. p. 61 - 135.
11. Hodgson J.w. and Fischer J.L. (1979). Sex differences in identity and intimacy development in college youth. Journal of Youth andAdolescence. Vol. 8(1). p. 37 - 50.
12. Josselson R., Greenberger E., McConochie D. (1977). Phenomenological aspects of psychosocial maturity in adolescence Part II Girls. Journal ofYouth andAdolescence.
Vol. 6(1). p. 145 - 167.
13. Kroger J. and Marcia J.E. (2011). The identity statuses: Origins, meanings, and interpretations. In Schwartz S.J. et al. (eds.). Handbook of identity theory and research.
Vol. 01. Structures andProcesses. NewYork: Springer.
14. Kroger J., Martinussen M. and Marcia J.E. (2010). Identity status change during adolescence and young adulthood: A meta-analysis. Journal ofAdolescence. Vol. 33.
p.683 - 698.
15. LaVoie J.c. (1976). Ego identity formation in middle adolescence. Journal of Youthand Adolescence. Vol. 5. p. 371 -385.
16. Marcia J.E. (1966). Developmentand validation of ego identitystatus. Journal of Personality and Social Psychology. Vol. 3 (5). p. 551 - 558.
96 TẠP CHÍ TÂM LÝ HỌC, SỐ 8 (269), 8-2021
17. Markus H.R. and Kitayama s. (1991). Culture arid the self: Implications for cognition, emotion, and motivation. Psychological Review. Vol. 98 (2). p. 224 - 253.
18. Rosenthal D.A., Gurney R.M. and Moore S.M. (1981). From trust to intimacy: A new inventory for examining Erikson's stages ofpsychosocial development. Journal of Youth and Adolescence. Vol. 10 (6). p. 525 - 537.
19. SimmonsD.D. (1970). Developmentof anobjective measure of identityachievement status. Journal of Projective Techniques & Personality Assessment. Vol. 3 (4). p. 241 - 244.
20. Stein A.H. and Bailey M.M. (1973). The socialization of achievement orientation in females. Psychological Bulletin.Vol. 80 (5). p. 345 - 366.
21. Tan A.L., Kendis R.J., FineJ.T. and PoracJ. (1977). A shortmeasureof Eriksonian ego identity. Journalof Personality Assessment. Vol. 41 (3). p. 279 - 284.
22. Van Hoof A. (1999). The identity statusfield re-reviewed: An update of unresolved and neglected issues with a view on some alternative approaches. Developmental Review. Vol. 19 (4). p. 497 - 556.
TẠP CHÍ TÂMLÝ HỌC, SỐ 8 (269), 8 -2021 97