• Tidak ada hasil yang ditemukan

VỂ CÁC CÁN Cứ QUYẾT BỊNH HÌNH PHẠT

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "VỂ CÁC CÁN Cứ QUYẾT BỊNH HÌNH PHẠT"

Copied!
10
0
0

Teks penuh

(1)

NGHIÊN cứu -TRAO DỔI

VỂ CÁC CÁN Cứ QUYẾT BỊNH HÌNH PHẠT

PHẠM MẠNH HÙNG*

*Tiến sĩ, nguyên Phó Vụ trường Vụ 7, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.

Bài viết phân tích các căn cứ chung khi quyết định hình phạt và trong một số trường hợp cụ thể. Theo đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án cần căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự, tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân... Nếu bị cáo là người dưới 18 tuổi, pháp nhân thương mại phạm tội, chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt, có đồng phạm thì cần áp dụng những điều luật riêng biệt.

f

Từ khóa: Quyết định hình phạt; trách nhiệm hình sự; hình phạt.

Nhận bài: 24/11/2020; biên tập xong: 28/12/2020; duyệt bài: 31/12/2020.

1. Khái quát về căn cứ quyết định hình phạt

Khi đề cập đến khái niệm quyết định hình phạt, nhận thức phổ biến hiện nay thường theo nghĩa hẹp với tính chất là một hoạt động tố tụng hình sự của Tòa án. Theo đó, quyết định hình phạt là việc Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội, pháp nhân thưcmg mại (PNTM) phạm tội. Do vậy, căn cứ quyết định hình phạt là những yếu tố mà dựa vào đó, Tòa án lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội, PNTM phạm tội.

Ý kiến khác khi đề cập đến khái niệm quyết định hình phạt cho rằng, cần tiếp cận theo nghĩa rộng với tính chất là một giai đoạn của quá trình tố tụng thuộc thẩm quyền của Tòa án, có sau giai đoạn định tội.

Theo đó, quyết định hình phạt là một trong các giai đoạn của việc áp dụng pháp luật hình sự thể hiện ở việc sau khi đã định tội (xác định tội danh, điều khoản áp dụng đối với người phạm tội, PNTM phạm tội), Tòa án tiếp tục xem xét việc quyết định miễn hình phạt hay ra quyết định áp dụng loại, mức hình phạt cụ thể (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) trong phạm vi luật định đối với người phạm tội, PNTM

Tạpchí SỐ02/2021 KIEM SÁT

15

(2)

(Ẩíừnạ (ỉ(itự/ - ờitừna ,J)uăn

phạm tội; nếu quyết định áp dụng hình phạt tù thì có cho hưởng án treo hay không.

Xuất phát từ quan niệm về các giai đoạn của quá trình áp dụng pháp luật hình sự và áp dụng trách nhiệm hình sự (TNHS) có thể có hình phạt (bản án kết tội kèm theo việc áp dụng loại và mức hình phạt cụ thể) và có thể không có hình phạt (bản án kết tội kèm theo quyết định miễn hình phạt), chúng tôi cho rằng quyết định hình phạt có tính chất là một giai đoạn của việc áp dụng pháp luật hình sự, mà trong đó Tòa án xem xét quyết định áp dụng (lựa chọn loại và mức hình phạt cụ thể) hay không áp dụng hình phạt đối với người phạm tội, PNTM phạm tội sau khi đã xác định được tội danh, điều khoản áp dụng đối với họ. Nội dung của việc quyết định hình phạt bao gồm cả việc cân nhắc, quyết định có cho người phạm tội bị xử phạt tù hưởng án treo hay không.

Trên cơ sở đó, có thể hiểu khái niệm các căn cứ quyết định hình phạt là những yếu tố mà dựa vào đó sau khi đã xác định được tội danh, điều khoản áp dụng đối với người phạm tội, PNTM phạm tội, Tòa án xem xét, quyết định các vấn đề miễn hình phạt hay áp dụng hình phạt, loại và mức hình phạt cụ thể cần áp dụng (bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung) đối với người phạm tội, PNTM phạm tội, quyết định cho hưởng án treo đối với người bị xử phạt tù có thời hạn.

2. Căn cứ chung khi quyết định hình phạt Theo Điều 50 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, các căn cứ quyết định hình phạt áp dụng chung cho người phạm tội bao gồm: Quy định của BLHS; tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm

tội; những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS; nhân thân người phạm tội. Ngoài các căn cứ trên, khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, Tòa án còn xem xét tình hình tài sản, khả năng chấp hành án của người phạm tội. Cụ thể như sau:

Thứ nhất, khỉ quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các quy định của BLHS:

- về nguyên tắc khi quyết định hình phạt trong BLHS năm 2015: Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và công bằng (Điều 3); nguyên tắc kết hợp nghiêm trị với khoan hồng (Điều 3); nguyên tắc cân nhắc hiệu quả của việc giáo dục cải tạo người phạm tội và phòng ngừa chung khi quyết định loại và mức hình phạt cụ thể (Điều 31); nguyên tắc những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS khi quyết định hình phạt (khoản 3 Điều 51 và khoản 2 Điều 52);

nguyên tắc Tòa án có thể coi các tình tiết khác ngoài khoản 1 Điều 51 là tình tiết giảm nhẹ TNHS nhưng không được coi các tình tiết khác ngoài khoản 1 Điều 52 là các tình tiết tăng nặng TNHS (khoản 2 Điều 51, khoản 1 Điều 52).

- về điều kiện áp dụng các loại hình phạt và mức hình phạt trong BLHS năm 2015: Điều kiện về tính chất tội phạm đối với từng loại tội để quyết định loại hình phạt; điều kiện về người phạm tội là người nước ngoài khi quyết định hình phạt trục xuất; điều kiện về mức tối thiểu của từng loại hình phạt; điều kiện về quyết định mức hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt so với mức hình phạt quy định cho tội phạm hoàn thành tương ứng; điều

Tạpchí

16

KIÊM SÁT_/ Sô 02/2021

(3)

NGHIÊN CỨU- TRAOĐÓI

kiện về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn; điều kiện để không áp dụng hình phạt tử hình đối với một so đối tượng đặc biệt; điều kiện về khả năng thi hành hình phạt tiền đối với người phạm tội khi quyết định hình phạt tiền; điều kiện về loại và mức hình phạt cao nhất khi tổng hợp hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội, tổng hợp hình phạt của nhiều bản án.

- về

việc cho hưởng án treo đối với người bị áp dụng hình phạt tù có thời hạn (Điều 65 BLHS năm 2015).

- về

việc trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam vào thời hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ và hình phạt tù có thời hạn (khoản 1 Điều 36 và Điều 38 BLHS năm 2015) khi xem xét lựa chọn quyết định loại và mức hình phạt cải tạo không giam giữ và tù có thời hạn đối với người trước đó bị tạm giữ, tạm giam.

- Căn cứ vào từng điều khoản cụ thể của BLHS năm 2015 về hình phạt (chính và bổ sung) có thể áp dụng đối với người phạm tội.

Thứ hai, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào tỉnh chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vỉ phạm tội:

Tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội được xác định ưên cơ sở các tiêu chí: Không lớn, lớn, rất lớn hay đặc biệt lớn. Các tiêu chí này đã được nhà làm luật tính đến khi xây dựng bốn loại tội phạm tại Điều 9 BLHS năm 2015 và được thể hiện tại các điều luật phần các tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, về nguyên tắc Tòa án chỉ được quyết định loại và mức

hình phạt cụ thể trong phạm vi khung hình phạt đã được quy định, trừ trường hợp có căn cứ tại Điều 54 BLHS năm 2015 thì Tòa án mới có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Ngoài ra, Tòa án phải căn cứ vào tính chất nguy hiểm cho xã hội của từng loại hành vi phạm tội để quyết định loại và mức hình phạt phù hợp. Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do vô ý, có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (điểm đ khoản 1 Điều 3 BLHS năm 2015). Trong trường hợp họ gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả thì có thể được miễn hình phạt hoặc miễn TNHS theo khoản 3 Điều 29 BLHS năm 2015.

Bên cạnh đó, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Mức độ nguy hiểm này được đánh giá chủ yếu thông qua mức độ thực hiện ý định phạm tội và mức độ gây thiệt hại, nhất là trong các trường hợp mà khung hình phạt có định mức thiệt hại (tối thiểu và tối đa) làm căn cứ xác định, về nguyên tắc, trong các trường hợp phạm tội giống nhau, mức độ thực hiện ý định phạm tội và mức độ gây thiệt hại cho xã hội càng cao thì mức hình phạt càng phải nghiêm khắc.

Thứ ba, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào những tình tiết giám nhẹ và

tăng nặng TNHS:

Tạp chí số02/2021VkIỀM SÁT

17

(4)

Mặc dù Điều 50 BLHS năm 2015 quy định căn cứ các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS sau căn cứ nhân thân người phạm tội khi quyết định hình phạt, song theo chúng tôi, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS trước khi căn cứ vào nhân thân người phạm tội.

Bởi lẽ, các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS là các tình tiết dùng để đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm trong phạm vi một khung hình phạt và có ý nghĩa để quyết định mức độ giảm nhẹ hoặc tăng nặng TNHS (hình phạt). Mặt khác, trong số các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đã chứa đựng nhiều tình tiết thuộc về nhân thân người phạm tội. Những tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS là căn cứ khi Tòa án quyết định hình phạt được quy định tại Điều 51, 52 BLHS năm 2015.

Theo quy định tại Điều 51, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ các tình tiết giảm nhẹ TNHS, bao gồm các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS và các tình tiết giảm nhẹ khác mà Tòa án có thể viện dẫn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Có thể chia các tình tiết giảm nhẹ TNHS là căn cứ để Tòa án quyết định hình phạt theo các nhóm sau đây:

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện và thiệt hại do tội phạm gây ra. Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn.

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS liên quan đến động cơ, hoàn cảnh phạm tội. Phạm tội trong trường họp vượt quá giới hạn phòng

vệ chính đáng; vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết; vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội; trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra; vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra; vì bị người khác đe doạ hoặc cưỡng bức; do lạc hậu.

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thể hiện thái độ ăn năn, hối cải của người phạm tội.

Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả.

Trong trường hợp người phạm tội đã chủ động nộp lại ít nhất 3/4 tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều fra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn, thì không được áp dụng hình phạt tử hình với họ (điểm c khoản 3 Điều 40 BLHS năm 2015); người phạm tội tự thú; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án; đã lập công chuộc tội.

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra; người phạm tội là phụ nữ có thai; là người đủ 70 tuổi trở lên; là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng; là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;

là người có công với cách mạng hoặc là

Tạpchí

KIỂM SÁT Số 02/2021

18

(5)

NGHIÊNcứu-TRAO DỔI

cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.

- Các tình tiết giảm nhẹ TNHS khác cần được Tòa án viện dẫn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự thừa nhận những tình tiết sau đây có thể được viện dẫn là tình tiết giảm nhẹ TNHS theo khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015: Người phạm tội đầu thú; vợ, chồng, cha, mẹ, con, anh, chị, em ruột của người phạm tội là người có công với nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: Anh hùng lao động, Anh hùng lực lượng vũ hang, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, Nghệ sỹ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác theo quy định của Nhà nước; người phạm tội có anh, chị, em ruột là liệt sĩ; người phạm tội là người tàn tật do bị tai nạn trong lao động hoặc ưong công tác, có tỉ lệ thương tật từ 31%

trở lên; người bị hại cũng có lỗi; thiệt hại do lồi của người thứ ba; gia đình bị cáo sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho bị cáo;

người bị hại hoặc đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo ưong trường hợp chỉ gây tổn hại về sức khoẻ của người bị hại, gây thiệt hại về tài sản; phạm tội trong trường hợp vì phục vụ yêu cầu công tác đột xuất như đi chống bão, lụt, cấp cứu.

Theo Điều 52 BLHS năm 2015, khi quyết định hình phạt, Tòa án chỉ có thể coi các tình tiết được quy định tại khoản 1 Điều 52 BLHS năm 2015 là tình tiết tăng nặng TNHS. Có thể chia các tinh tiết tăng nặng TNHS là căn cứ quyết định hình phạt theo

các nhóm sau đây:

- Các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan đến hành vi phạm tội đã thực hiện và thiệt hại do tội phạm gây ra. Phạm tội có tổ chức;

lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội;

dùng thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt hoặc tàn ác để phạm tội; dùng thủ đoạn hoặc phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người để phạm tội.

Đối với các loại hành vi phạm tội mà người phạm tội dùng thủ đoạn tàn ác để phạm tội thì không áp dụng các loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, cũng không thể quyết định hình phạt tù nhưng cho hưởng án heo.

- Các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan đến động cơ, hoàn cảnh phạm tội. Phạm tội có tính chất côn đồ; phạm tội vì động cơ đê hèn; lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội.

Đối với các loại hành vi phạm tội có tính côn đồ, phạm tội vì động cơ đê hèn thì không thể áp dụng các loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, cũng không thể quyết định hình phạt tù nhưng cho hưởng án heo.

- Các tình tiết tăng nặng TNHS thể hiện thái độ ngoan cố chống đối của người phạm tội. Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng; có hành động xảo quyệt hoặc hung hãn nhằm ưốn tránh hoặc che giấu tội phạm.

Đối với các loại hành vi phạm tội có các tình tiết tăng nặng này thì hạn chế áp dụng các loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, hoặc quyết định hình phạt tù nhưng cho hưởng án ưeo.

Tạp chí Số 02/2021 \_KIẺMSÁT

19

(6)

' Hửng ‘íány - 'Alừ»y Atưỉn

- Các tình tiết tăng nặng TNHS thuộc về nhân thân người phạm tội. Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; phạm tội 02 lần trở lên;

tái phạm hoặc tái phạm nguy hiểm. Đối với các loại hành vi phạm tội có các tình tiết tăng nặng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp, tái phạm, tái phạm nguy hiểm, thì không áp dụng các loại hình phạt nhẹ hom hình phạt tù, hoặc không quyết định áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án ưeo.

- Các tình tiết tăng nặng TNHS liên quan đến việc gây thiệt hại cho đối tượng tác động của tội phạm là những người yếu thế trong xã hội cần được bảo vệ đặc biệt.

Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai hoặc người đủ 70 tuổi trở lên; phạm tội đối với người ở trong tình hạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.

- Tình tiết tăng nặng TNHS xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội.

Đối với các loại hành vi phạm tội có các tình tiết tăng nặng này thì hạn chế áp dụng các loại hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù hoặc quyết định hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

Khi quyết định hình phạt cần chú ý, trong trường họp mà chỉ có tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng nặng thì quyết định hình phạt phải ít nghiêm khắc hơn (nhẹ hơn) so với những trường hợp phạm tội tương tự nhưng không có tình tiết giảm nhẹ TNHS. Trong trường hợp mà chỉ có tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm nhẹ TNHS thì quyết định hình phạt

phải nghiêm khắc hơn (nặng hơn) so với những trường họp phạm tội tương tự nhưng không có tình tiết tăng nặng. Trong trường hợp mà vừa có tình tiết giảm nhẹ, vừa có tình tiết tăng nặng, thì khi quyết định hình phạt, Tòa án phải đánh giá mức độ chi phối (ảnh hưởng) của các tình tiết giảm nhẹ so với tình tiết tăng nặng TNHS. Nếu mức độ chi phối (ảnh hưởng) của tình tiết giảm nhẹ TNHS và tình tiết tăng nặng TNHS đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội ngang bằng, thì hình phạt quyết định giống với trường họp phạm tội khác tương tự nhung không có tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Nếu tình tiết giảm nhẹ TNHS chi phối nhiều hơn đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với tình tiết tăng nặng TNHS, thì quyết định hình phạt phải nhẹ hơn so với các trường họp tương tự nhưng không có tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS. Nếu tình tiết tăng nặng TNHS chi phối nhiều hơn đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội so với tình tiết giảm nhẹ TNHS, thì quyết định hình phạt phải nghiêm khắc hơn (nặng hơn) so với các trường hợp phạm tội tương tự nhưng không có tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS.

Thứ tư, khi quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào nhân thân người phạm tội:

Nhân thân người phạm tội là những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý nghĩa trong việc giải quyết vấn đề TNHS của người đó. Ngoài những đặc điểm về nhân thân của người phạm tội đã được quy định là các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS tại Điều 51, 52 BLHS năm 2015, những đặc điểm về nhân thân sau

Tạpchí

KIÉM SÁT_y Số02/2021

20

(7)

NGHIÊN cửu -TRAO Dổl

đây thường được cân nhắc khi quyết định hình phạt:

- Những đặc điểm về độ tuổi của người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội.

Người phạm tội là người dưới 18 tuổi;

người phạm tội là người mới đủ 18 tuổi hoặc gần 70 tuổi; người phạm tội là người trên 60 tuổi nhưng chưa đủ 70 tuổi và thường xuyên ốm yếu...

- Những đặc điểm liên quan đến lý lịch tư pháp, nơi cư trú, nơi làm việc của người phạm tội khi xem xét khả năng quyết định hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù hoặc quyết định hình phạt tù nhưng cho người phạm tội được hưởng án treo. Phạm tội lần đầu, người phạm tội chưa bị kết án hoặc chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật liên quan đến hành vi phạm tội;

người phạm tội có nơi cư trú rõ ràng, có nơi làm việc ổn định.

- Những đặc điểm thể hiện công lao, đóng góp của người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội đối với đất nước, xã hội. Người phạm tội là thương binh hoặc người thân thích như vợ chồng, bố mẹ hoặc con (con đẻ hoặc con nuôi), anh, chị, em là liệt sĩ; Vợ chồng, cha mẹ, anh, chị, em người phạm tội là người có công với Nhà nước hoặc có thành tích xuất sắc được Nhà nước tặng một trong các danh hiệu vinh dự như: Anh hùng lực lượng vũ trang, Anh hùng lao động, Nghệ sĩ nhân dân, Nghệ sĩ ưu tú, Nhà giáo nhân dân, Nhà giáo ưu tú, Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú hoặc các danh hiệu cao quý khác...

- Những đặc điểm nhân thân liên quan đến sự tác động của hình phạt đối với người phạm tội và gia đình họ. Người

phạm tội là người bị khuyết tật, là phụ nữ nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

- Những đặc điểm nhân thân xấu khi xem xét quyết định hình phạt có thời hạn và không cho hưởng án treo. Người phạm tội đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, mới được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý; người đã vi phạm pháp luật nhiều lần, còn thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính hoặc xử lý kỷ luật... mà lại thực hiện tội phạm nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm họng do cố ý...

Thứ năm, khỉ quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài các căn cứ trên, Tòa án còn phải xem xét tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội:

Để bảo đảm tính khả thi và đạt được mục đích của việc áp dụng hình phạt, khi xem xét quyết định hình phạt tiền Tòa án phải căn cứ vào tình hình tài sản của người phạm tội và khả năng thi hành hình phạt tiền của họ. Trong trường hợp người phạm tội không có tài sản hoặc tài sản người đó đã bị tẩu tán, không hoặc khó có khả năng thu hồi, thì Tòa án không quyết định hình phạt tiền mà áp dụng loại hình phạt khác trong khung hình phạt.

3. Căn cứ quyết định hình phạt trong một số trường họp cụ thể

- Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội và phạm tội chưa đạt:

Theo Điều 57 BLHS năm 2015, ngoài những căn cứ chung, khi quyết định hình phạt đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, Tòa án còn phải

Tạp chí số 02/2021 VkIẺM Sát

21

(8)

căn cứ vào mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

Đối với trường hợp chuẩn bị phạm tội, hình phạt được quyết định trong phạm vi khung hình phạt được quy định trong các điều luật cụ thể. Tuy nhiên, nếu có các tình tiết giảm nhẹ tại Điều 51 BLHS năm 2015, Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt áp dụng hoặc chuyển sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn.

Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật quy định (có thể áp dụng không quá 3/4 mức hình phạt tối đa và mức hình phạt tối thiểu của khung hình phạt áp dụng mà không cần đáp ứng điều kiện tại Điều 54 BLHS năm 2015).

về nguyên tắc, trong những trường hợp có các điều kiện khác như nhau thì phạm tội chưa đạt được coi là ít nguy hiểm hơn so với tội phạm hoàn thành tương ứng. Do vậy, khi quyết định hình phạt đối với trường họp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật áp dụng không có hình phạt tù mà chỉ có hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù (phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ) thì Tòa án cũng chỉ có thể áp dụng mức hình phạt không quá 3/4 mức hình phạt so với tội phạm hoàn thành tương ứng. Ví dụ: Đối với một số tội có mức cao nhất của khung hình phạt là cải tạo không giam giữ thì người phạm tội chưa đạt sẽ bị áp dụng mức

cao nhất là không quá 02 năm cải tạo không giam giữ (khoản 1 Điều 198, khoản

1 Điều 201 BLHS năm 2015...).

- Căn cứ quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm:

Theo Điều 58 BLHS năm 2015, khi quyết định hình phạt đối với những người đồng phạm, ngoài những căn cứ chung, Tòa án phải xét đến tính chất của đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia phạm tội của từng người đồng phạm.

Tính chất đồng phạm được hiểu bao gồm cả tính chất của loại tội phạm mà những người đồng phạm cùng thực hiện (theo cách phân loại tội phạm tại Điều 9 BLHS năm 2015) và hình thức đồng phạm (phạm tội có tổ chức hay đồng phạm thông thường), tính chất hoạt động và tính chất gây tác hại cho xã hội của hành vi phạm tội (xuyên quốc gia, liên tỉnh, tác động đến an ninh đối nội, đối ngoại)...

Tính chất tham gia của từng người đồng phạm thể hiện ở vai ưò tham gia của từng người: Người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, thực hành, xúi giục, giúp sức. Mức độ tham gia của từng người đồng phạm được thể hiện ờ mức độ ảnh hưởng và đóng góp thực tế của từng người đối với những người đồng phạm khác, việc thực hiện tội phạm và việc gây ra những thiệt hại cho xã hội.

Đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức ưong vụ án đồng phạm nhưng vai trò không đáng kể, thì phải được giảm nhẹ TNHS đặc biệt so với những người đồng phạm khác.

Các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng hoặc loại trừ TNHS thuộc người đồng phạm nào thì chỉ áp dụng đối với người đó. Các tình

Tạpchí

KIỂMSÁT_/ Số 02/2021

22

(9)

NGHIÊN cúu - TRAOĐỔI

tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS riêng đối với từng người đồng phạm thường thuộc về nhân thân của từng người: Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; người phạm tội tự thú, đầu thú; người phạm tội ià người tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội 02 lần trở lên; cố tình thực hiện tội phạm đến cùng... Các tình tiết loại trừ TNHS riêng đối với từng người đồng phạm có thể là người đồng phạm chết, người đồng phạm được miễn TNHS.

- Căn cứ quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội:

Theo Điều 91 BLHS năm 2015, khi quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, ngoài những căn cứ chung của việc quyết định hình phạt, Tòa án phải căn cứ vào các nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội. Theo đó, phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

Căn cứ Điều 91 BLHS năm 2015 và Điều 416 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, khi quyết định hình phạt đổi với người dưới 18 tuổi phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào độ tuổi, mức độ phát triển về thể chất và tinh thần, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của người dưới 18 tuổi;

điều kiện sinh sống và giáo dục của họ; có hay không có người đủ 18 tuổi trở lên xúi giục; nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh phạm tội.

Không xử phạt tù chung thân hoặc tử hình đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.

Tòa án chỉ áp dụng hình phạt tù có thời

hạn đối với họ khi xét thấy các hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù và biện pháp giáo dục khác không có tác dụng răn đe, phòng ngừa. Khi xử phạt tù có thời hạn, Tòa án cho người dưới 18 tuổi phạm tội được hưởng mức án nhẹ hơn mức án áp dụng đối với người đủ 18 tuổi trở lên phạm tội tương ứng và với thời hạn thích hợp ngắn nhất. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng cũng có thể được áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ (khoản 1 Điều 100 BLHS năm 2015). Khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội thì không khấu trừ thu nhập của người đó. Thời hạn cải tạo không giam giữ đối với người dưới 18 tuổi phạm tội không quá 1/2 thời hạn mà điều luật quy định (Điều 100 BLHS năm 2015).

- Căn cứ quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội:

Theo quy định tại Điều 83 BLHS năm 2015, khi quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội, ngoài căn cứ quyết định hình phạt chung, Tòa án phải căn cứ vào việc chấp hành pháp luật của PNTM và các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS áp dụng đối với PNTM.

Pháp nhân thương mại phạm tội chỉ có thể phải chịu một trong các hình phạt chính gồm: Phạt tiền; đình chỉ hoạt động có thời hạn; đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.

Ngoài ra, PNTM có thể phải chịu các hình phạt bổ sung bao gồm: cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định; cấm huy động vốn; phạt tiền khi không áp dụng là hình phạt chính.

(Xem tiếp trang 57)

Tạp chí Số02/2021\ kIÉM SÁT

23

(10)

NGHIÊN cứu - TRAO DỔI

+ Cần bổ sung Điều 319 BLTTHS năm 2015 theo hướng quy định KSV có quyền rút quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo tại phiên tòa, cụ thể: “Sau khỉ kết thúc việc xét hỏi, Kiếm sát viên có thế rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tổ, quyết định khác về việc buộc tội đối với bị cáo hoặc kết luận về tội nhẹ hơn”.

+ Kiến nghị liên ngành tư pháp trung ương hướng dẫn trường hợp KSV rút một phần quyết định truy tố tại phiên tòa thì Tòa án chỉ xét xử phần còn lại;

trường hợp VKS cấp trên truy tố và phân công cho VKS cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm, nếu tại phiên tòa có những chứng cứ tài liệu, đồ

VỂ CÁC CÂN cử ...

mép theo trang 25)

Khi quyết định hình phạt đối với PNTM phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào việc chấp hành pháp luật của PNTM, nghĩa là phải căn cứ vào việc có hay không có những vi phạm pháp luật trước đó của PNTM; việc chấp hành các nghĩa vụ của PNTM trong quá trình hoạt động kinh doanh như nghĩa vụ nộp thuế, nghĩa vụ tuân thủ các quy định trong hoạt động kinh doanh...

Khi quyết định hình phạt đổi với PNTM phạm tội, Tòa án phải căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng TNHS đối với PNTM được quy định tại Điều 84 và 85 BLHS năm 2015. Theo khoản 2 Điều 84 BLHS năm 2015, khi quyết định

vật mới có thể làm thay đổi quyết định truy tố của VKS cấp trên mà KSV đề nghị hoãn phiên tòa thì HĐXX phải hoãn phiên tòa.

+ Liên ngành tư pháp trung ương cần hướng dẫn cách thức, thủ tục giải quyết vụ án ở giai đoạn tiếp theo trong trường hợp khi nghị án, HĐXX xét thấy việc rút quyết định truy tố của KSV không đúng, thì HĐXX ra quyết định tạm đình chỉ vụ án và kiến nghị lên Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp;

trường hợp Viện trưởng VKS cùng cấp hoặc Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp xác định là việc rút quyết định truy tố của KSV tại phiên tòa là đúng.n

hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết sau đây có thể được coi là các tình tiết giảm nhẹ TNHS áp dụng đối với PNTM phạm tội: Bị hại cũng có lỗi; cá nhân, tổ chức khác đã sửa chữa, bồi thường thiệt hại thay cho PNTM phạm tội; bị hại hoặc đại diện hợp pháp của bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho PNTM phạm tội... Đối với PNTM phạm tội, mức độ khắc phục hậu quả và mức độ bồi thường thiệt hại do hành với phạm tội gây ra là tình tiết giảm nhẹ cần được chủ ý khi xem xét khi quyết định hình phạt. Theo Điều 88 BLHS năm 2015, trong trường hợp PNTM đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra thì có thể được xem xét quyết định miễn hình phạt.n

Tạp chí Số 02/2021 VkIẺM SÁT

37

Referensi

Dokumen terkait