• Tidak ada hasil yang ditemukan

VAI TRÒ CỦA CHÍNH SPIN-OFFS TỪ TRƯỜNG ĐẠI HỌC

N/A
N/A
Protected

Academic year: 2024

Membagikan "VAI TRÒ CỦA CHÍNH SPIN-OFFS TỪ TRƯỜNG ĐẠI HỌC"

Copied!
9
0
0

Teks penuh

(1)

TẠP CHÍ CONG THMG

VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH TRONG

PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP HỌC THUẬT SPIN-OFFS TỪ TRƯỜNG ĐẠI HỌC:

KINH NGHIỆM QUÔC TẾ VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH CHO NHÀ QUẢN TRỊ

• ĐINH VĂNTOÀN

TÓMTẮT:

Bài báo tập trung trìnhbày kêt quả nghiên cứuvề doanh nghiệp học thuật Spin-offs từ trường đạihọccũngnhư chính sách thúc đẩy phát triển các doanhnghiệpnày từmột sô' quốc gia tiêu biểu. Từ các phân tích, tác giả bài báo đưa ra một sô'khuyên nghịchính sách nhằm hìnhthànhcác côngty Spin-offsđể thúc đẩy chuyểngiao côngnghệ, gópphầnhoànthiện mô hìnhtrường đại học khởi nghiệp ở Việt Nam.

Từ khóa: Doanh nghiệp học thuật, Spin-offs,đạihọc khởi nghiệp, trường đại học.

1. Đặt vấn đề

Sứ mệnh của trường đại học (ĐH) trong nền kinh tê đãcó sự thayđổi mạnh mẽtrong hơn hai thập niên qua. Các ĐH ngày naykhông chỉ quan tâm đàotạo nhân lực chất lượng cao, sáng tạo và truyền thụ tri thức mà còn hướng tới tăng cường ứng dụng, khai thác tri thức, phát triển kinh doanh và hìnhthành doanh nghiệp học thuật Spin-offs (Shorevà McLauchlan, 2012;Boffo và cộng sự, 2019; Đinh VănToàn, 2020). Các hoạt động thực hiện sứmệnh thứ ba là tiền đề hình thành giớidoanhnhân họcthuật và thực hiện các

hoạt động thương mại hóa các kết quả NCKH theo định hướng lợi nhuận. Trong khi đó, hoạt động thực hiện sứmệnh thứtư nhằm hình thành doanh nghiệp, phát triển kinh doanh trêncơ sở kết quả nghiên cứu khoa học (NCKH) và phát triển công nghệ.

Các hoạt độngcó tính khởi nghiệp kinh doanh nói trên luôn gắnvớiđổimới, sáng tạo nhằmđáp ứngyêu cầu thị trườngđang tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ các ĐH trở thành các trường đại học khởi nghiệp (Dinh Van Toan, 2020). Mô hình trường ĐH khởi nghiệp luôn gắnvớikhởinghiệp

(2)

QUẢN TRỊ-QUẢN LÝ

và pháttriển doanh nghiệp học thuật(Spin-offs) từ nhà trường. Ngược lại,quá trìnhhình thành và phát triển các công ty Spin-offs lại thúc đẩy nhanh sự chuyển đổi mô hình trường ĐH truyền thông sang ĐH khởi nghiệp, bởi vì sự hìnhthành các doanh nghiệp này luôn gắn chặtvới chuyển giao công nghệ (Saetre và cộngsự,2009).

Tuy nhiên, hình thànhvàpháttriển Spin-offs từ cáctrườngĐH không chỉ phụ thuộcvàokết quả NCKH và hoạtđộngcủa các trường. Thực tế trên thế giới và Việt Namcho thấy điều này còn phụ thuộc vào khung khổ pháp luật và các chínhsách trong nhiều lĩnh vựcliênquan của nhà nước và cơ chế quản lý giáo dục bậc đại học ở mỗi quốc gia. Nghiên cứu về Spin-offsvà các chính sách thúc đẩy việc hình thành các công ty này ở một số’ quốc gia và trường ĐH tiêu biểu trên thế giớisẽlàcơsởđể tham khảo, hoànthiện về mặt chính sách để cải thiện hiệu quả hoạt độngcủacác trường ĐH Việt Nam trongbối cảnh đẩy mạnhtựchủ.

2. Tổng quan về trường đại học khởinghiệp và doanh nghiệpSpin-offs

Trường đại học khởi nghiệp, trước hết là các ĐH có năng lực nghiên cứu và định hướng nghiên cứu. Trong cơ cấu tổ chức trường ĐH truyền thống, các đơn vị trực tiếp thực hiện chức năng

này như: phòng thí nghiệm, viện, trung tâm nghiên cứu cho ra đời các ý tưởngkinh doanh, công nghệ mới và các phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích. Nhưng để có thể chuyển giao các sản phẩm NCKH này và thúc đẩy quá trình thương mại hóa, trường đại học khởi nghiệp cần thànhlập các văn phòng chuyển giao công nghệ (TTO) và vườn ươm doanhnghiệp. Chức năng chính của các đơnvịnàylà thúcđẩychuyểngiao công nghệvà quátrình thử nghiệmhướngđếncác hoạt độngkinh doanh để đưa các sản phẩm, dịch vụ từ kết quả nghiên cứu củacác nhà khoahọc trong trường ĐH ra thị trườngbênngoài.

Xét về mục tiêu, cơcấu tổ chức và các hoạt động, có thể thấy một số’ khác biệt của trường ĐH khởi nghiệp so với trường ĐH truyềnthống như trong Bảng 1. Trường ĐH khối nghiệp khuyến khích các hoạt động khởi nghiệp học thuật và thúc đẩy sự hình thành các Spin-offs giúp tăng cườnghợp tác giữa nhà khoa học với nhà trường và các doanh nghiệp. Cơ cấuvà sự liênkết như vậy hình thànhmột cơ cấutổ chức hoàn chỉnh cho trường ĐH khởi nghiệp (Dinh Van Toan, 2020) (Bảng 1).

Spin-off là tên gọi được sử dụngrộng rãi để chỉmột thể loại doanh nghiệp được hìnhthànhvà phát triển dựa trên công nghệ từ các tổchứccông

Bảng 1. Đặc trưng của trường đại học khởi nghiệp so với đại học truyền thống

Đại học truyền thống Đại học khỏi nghiệp

Mục tiêu

Sáng tạo tri thức Sáng tạo tri thức

ứng dụng, khai thác tri thức

Cơ cấu tổ chức

Phòng chức năng; Khoa; Phòng thí nghiệm; Trung tâm nghiên cứu...

Phòng chức năng; Khoa; Phòng thí nghiệm; Trung tâm nghiên cứu...

Vãn phòng chuyển giao công nghệ; Vườn ươm khỏi nghiệp; Doanh nghiệp Spin-offs...

Hoạt động

Các hoạt động học thuật Các hoạt động học thuật

Thương mại hóa các kết quả nghiên cứu

Nguồn: Chang và cộng sự (20]6)

SỐ23 -Tháng 9/2Ũ20 253

(3)

TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG

lập kể từ đầu những năm 1980 nhiều quốc gia trên thế giới. Các nghiên cứu về loạihình doanh nghiệp này có phạm vi khá rộng vàbao gồm cả liên kết giữa các doanh nghiệp với các tổ chức mẹlàcác tổ chức cônglập. Nhìn chung,các tổng kết đã cho thấy Spin-offs thường là các doanh nghiệp mới, nhỏ, sử dụng vốntrí tuệ có nguồn gốc từ một trường ĐH hoặc tổ chức nghiên cứu công (Djokovic và cộng sự, 2008). Công ty Spin­

off từ trườngĐH chính là các doanh nghiệp mới được thành lập có sự thamgiabởi cáccá nhân là thành viênhoặccựu giảng viên, nhânviên trường ĐH hoặc có côngnghệ cốt lõi đượcchuyển giao từnhà trường, về mặt tổchức, các Spin-offs từ trường ĐH có các điểm chung là một thực thể pháp lý riêng biệt, không phải là một phần mở rộng hoặc bị kiểm soát bởi trường ĐH. Do vậy, các công ty này có thể thực hiện kinh doanh thông qua việc khai thác tri thức từ nhà trường hoặc nốì tiếp các theo đuổi từ các hoạt động NCKH nhằm mục đích tạo ralợi nhuận thông qua các cơ chếliên kết, hỗ trợ lẫn nhau.

3. DoanhnghiệpSpin-offs từ trường đại học và chính sách hỗtrựcủachínhphủmột số quô’c gia trên thế giới

Báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tê (OECD) năm 2001 về hình thành Spin-offs từ các quốc gia đã chỉ ra một số’ nhận định chung như sau. Thứnhất, Spin-offđã phát triển đáng kể từ đầu những năm 1980 trong nhiều nước OECD, có sựgiatăng hằng nămvề sô’lượng mặc dùnó vẫn cònkhiêmtônở một sô’ nước. Thứ hai, có sự khác biệtlớncác quốc gia và trênkhắp các tổ chức nghiên cứu công trong xu hướngtạo ra Spin-offs. Một sô’ quôc gia không có nhiều, trongkhi Mỹ ghinhậnvàitrăm doanh nghiệp mỗi năm. Sự khác biệt không chỉ đơn giản là do sự khácbiệt về GDP hoặc ngân sách câ’pchonghiên cứu công. Thứ ba, không chỉlà doanh thuvàsản phẩm mà quy mô của các công ty Spin-offs thường còn khiêm tô’n trong những năm đầu đi vào hoạt động,trong khi một tỷ lệ nhỏbiến thành người khổng lồ công nghệ cao (Callan, 2001).

Như vậy, ảnh hưởng của các chính sách từ chính phủ tới phát triển củacác công ty này, đặcbiệtlà

từ trườngĐHcầnphải được nghiêncứu trong một khoảngthời gian dàihơn.

Kết quả phát triển Spin-offshọc thuật

Tại Mỹ, “hiện tượng spin-off” đã đạt được nhiều thànhcông nhờ sự phát triển của 'Thung lũng Silicon' huyền thoại và 'Tuyến đường 128' xung quanh các trường đại học danh tiếng như Stanford vàMIT. Các Spin-offs từ trườngđạihọc đã trở thành mộtphầncủabốì cảnh học thuật Mỹ trong nhiều thập kỷ. Khảo sát của Hiệp hội các nhà quản lý côngnghệ đại học Mỹ (AUTM) năm 2006 chỉra rằng: chỉ trong một thập kỷ (1996- 2006), tổng sô’bằng sáng chê’được nộp bởi các trường đại học Hoa Kỳ tăng gâ’p bôn lầntừ 4.000 lên gần 16.000 (Saetre và cộngsự, 2009). Chính vì vậy,mặc dùsô’ liệu chưa đầyđủ, nhưng cácsô’

liệu thông kê đã cho thây Mỹ là quốc gia đứng đầu về sô’ công ty Spin-offs. Theo báo cáo của

132 trường ĐH hàng đầu ở Mỹ thì đã có 279 công ty được thànhlập ở năm 1998. Nếu tính cả các công tydocác sinh viên, giảngviên và cựu sinh viên thành lập (không nhận giây phép chuyển giao công nghệ từtrườngĐH) thì sô’liệu còn lớn hơn râ’t nhiều: trung bình, mỗi nămcó hơn 200 công ty Spin-off được đăng ký thành lập từ 132 trường ĐH Trong vònggần 20năm (1980-1999) kể từ khi đạo luật Bayh-Dole được phê chuẩn.

Ước tính trongvòng 10 năm kểtừđầuthập niên 1990, sô’ Spin-offs được thành lập liên quan tđi Viện Công nghệ MIT và Đại học Cambridge đã lên tớihàng ngàn, trong đó chủ yếu từ các cựu sinh viên (Erden và Yurtseven, 2012). một quô’c giakhác ởchâu Mỹ là Canada, nghiêncứu của Rasmussen cho thấy nếu tổng sô’ công ty Spin-offstừ các trường ĐH và bệnh việntrongcả nước ở năm 1999 chỉ là471, đếnnăm 2001 tăng lên 680 thì tới năm 2003 con sô’ này đã đạt 876 (Rasmussen, 2008).

Tại Vương quô’c Anh, sô’ Spin-offs tăng liên tục từ 161 năm 2004 lên 187 vào năm 2006, trong3 năm2004-2006 trong sô’ các công ty này đã có 24 công ty phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng thành công (Wright và cộng sự, 2009). ở Hà Lan, theo Bekkers và cộng sự (2006),tính riêngcho năm2006 đã có 499 doanh

(4)

QUẢN TRỊ-QUẢN LÝ

nghiệp Spin-offs từ các trường ĐH được thành lập. Cònở Ý, trong giai đoạn từ 2000-2007,trung bình có 100 Spin-offs rađời từ dựán kinh doanh mổi mỗi năm, số được thành lập từ cáctrườngĐH trong các năm 2011 - 2014 là 1.115 (Boffo và Cocorullo, 2019).

Singapore là mộttrong những quốc gia năng động nhất châu Á trong phát triển trườngĐH khởi nghiệp hơn hai thập kỷ gần đây. Trong 5 năm từ

1998-2003, đã có hơn 70 doanh nghiệp Spin-offs được thành lập từ hai trường ĐH: Đại học Quốc gia và Đại học Công nghệ Nanyang (Đinh Văn Toàn, 2019, 189). Tổng hợp số lượng công ty Spin-offshình thành từ các trường ĐH ở một sô quốc gia tiêu biểu trên thế giới trong từng giai đoạn đượcthốngkê ởBảng 2.

Vaitrò cửacácSpin-offs

Trong phát triển kinh tếvùng và quốc gia, các công ty Spin-offs cóvaitròlà cầunốìthuhút đầu tư, thúcđẩychuyển giao côngnghệ và hoạt động thương mại hóa các kết quả nghiêncứutừtrường ĐH ra thị trường. Thực tiễn cho thấy nguồn gốc hình thành các công ty này thường từ các đề án, nhiệm vụ với hợp đồng nghiên cứu hoặc có tư vấn với các mốì quan hệ chặt chẽ với tổ chức mẹ - trường đại học. Nói cách khác, Spin-offs lúc này là các đường dẫn nhanh chóng nhất để các ý tưởng và công nghệ từ các nhà khoa học trong trường ĐH được khai thác thương mại ra thị trường (Callan, 2001). Nghiên cứu của Goldfarb và Henrekson (2003) đã chỉ rõ thương mại hóa các ý tưởng từ trường ĐH nói chung đòi hỏi sự

Bảng 2. Số công ty Spin-offs từ trường đại học một số quốc gia

Quốc gia Ten trường đại học Thòi gian SốSpin-oíĩs Nguồn tham khảo

1 Anh 2006 187 Wright và cộng sự, 2009

2 Đức ĐH Kỹ thuật Munich

(TUM) 2017 135 Đinh Văn Toàn, 2019, tr.160

3

Hà Lan Đại học Twente (UT)

2001 499 Bekkers và cộng sự, 2006

2005 427 Lazzeretti và Tavoletti, 2005

4 Ý 2014 753 Boffo và Cocorullo, 2019

5 Mỹ Viện Công nghệ

Massachusetts (MIT) 2001 218 Đinh Văn Toàn, 2019, tr.168

6 Canada Đại học British Columbia

(UBC) 2005 117 Rasmussen và Borch, 2010

7

Singapore Đại học Quốc gia Singapore (NUS)

1998-2003 70 Đinh Văn Toàn, 2019, tr.156 1980-2004 83 Đinh Văn Toàn, 2019, tr.189

2017 162

8 Brazil Đại học São Paulo 2013 421 stal và cộng sự, 2016

Nguồn: Tác giả tổng hợp

SỐ 23 -Tháng 9/2020 255

(5)

TẠP CHÍ CÕNG THlím

tham gia liên tục của các nhà phát minh học thuật. Vì vậy, các Spin-offs được coi là phương cách thực hiện thương mại hóa hiệu quả nhất trongcác trường đại học.

Bên cạnh việc tạo doanhthu, Spin-offs có xu hướng tạora nhiều việc làm hơn so với các công ty khởi nghiệp công nghệ khác. Saetre và cộng sự cũng chỉ ra một số' kết quả nghiêncứu đã cho thây Spin-offs từ các ĐH thường là các doanh nghiệpkhởi nghiệp thành công. AUTM ướctính rằngcác công ty này đã đóng góp 33,5 tỉ USD cho nềnkinhtếvà tạo ra280.000 việc làm ở Mỹ trong giai đoạn 1980-1999.Đặc biệt, Spin-offs từ các trường ĐH góp phần tạo ra việc làm cho những người có trình độ học vấn cao. Các xu hướng nàycũng được nhìn thây không chỉ ở Mỹ, mà còn ở Vươngquô"c Anh, Thụy Điển,Hà Lan, Bỉvà BắcIreland (Saetre và cộngsự, 2009).

Hoạt động khởi nghiệp gắnvớiđổi mới, sáng tạo của các trườngĐHkhởi nghiệp(trong đó các Spin-offs đóng vaitrò chủyếu) khuyên khích kết nốì mạng giữa các phòng thí nghiệm,trung tâm nghiên cứu và cáchoạt động kinh doanh ở địa phương (Callan,2001). Do vậy, chínhphủ nhiều quốcgia sử dụngSpin-offs như một phương thức để thúc đẩy phát triển khu vực thông qua thúc đẩy các ngành công nghệ mới và tạo ra môi trường năng độngđể hỗ trợ cácdoanh nghiệp và doanhnhân.

về chính sách

Kêt quả nghiên cứu của Chang và cộng sự khẳng định các hợp tác với ngành công nghiệp và hỗ trợcủa chính phủ, các cơ quan quan lý luôn có vai trò quan trọng trong triển khai các hoạt động khởi nghiệp kinh doanh, từđó hình thành các công ty Spin-offs (Chang và cộng sự, 2016).

Trong quy trìnhhình thành các Spin-offsnghiên cứu của Borgesvà Filion đã chỉra: tổ chức mẹ, doanh nhân và công nghệ là 3 yếutô" chính của quy trình spin-off (Borges và Filion, 2013).Trong trườnghỢpmột Spin-off hànlâm, các tổ chức mẹ là trường đại họcđóng vaitròlà nơi mà các công nghệ và doanh nghiệp được tạo ra. đó, các doanh nhân học thuật thường làm việc cho các Spin-offs hoặc tham gianghiêncứu về công nghệ

màcác công ty sử dụng từ trườngĐH. Nghiên cứu việc phát triển Spin-offs với chuyển giao công nghệgiữa các quốc gia, Saetre và cộng sự (2009) cho thây bốn thànhphần quan trọng đôi với phát triển Spin-offs từ trường ĐH, trong đó có chính sách và cơchế hỗ trợ từchính phủ.

Thực tiễn từ các quốc gia cókết quả phát triển doanh nghiệphọc thuậtcho thây chính sách đổi mớicủa các chính phủ luôncó vaitrò quyết định.

Minh chứng nổi bật cho sựtác động mạnh mẽ nhất đốì với “hiện tượng” Spin-offs là Đạo luật Bayh-Dole ở Mỹ ở năm 1980. Chính sách này đã cung cấp cho các trường đại họcMỹ quyền đốì vớicác phát minh của họ dựa trên nghiên cứu do chính phủ tài trợ gắnvới trách nhiệm thương mại hóa công nghệ của họ. Theo Saetre và cộng sự (2009),những thay đổi tương tự đã xuất hiện sau đó ởphần lớn các nước châu Âu và châuÁ. Tác động của Đạo luật Bayh-Dole cho phép các trường ĐH được bán bằng sángchế trên những kết quả nghiêncứu dochính phủ liên bang tàitrợ đã làm tăng nhanh số’ lượng các văn phòng chuyển giao (TTO). Không chỉ là sô" lượng TTO tăng,sô"lượng vănphòng câ"p phép cũnggiatăng râ't nhanh cùng với công bô" sáng chê", đơnxin câ"p bằng sáng chế,thỏa thuận câ"p phép và tiền thu từ bánbản quyền tăng lên. Hoạt độngtích cực của các vănphòng đã trựctiếp làm tăng đột biến sô"

lượngSpin-offs từcác trườngĐHởMỹ ngay sau khi đạo luậtnàyra đời. Ngoài những thay đổi về luật pháp, cấc chính sách hỗ trợ khác đã được Chính phủ Mỹ đưa rađể thúc đẩy hợp tác nghiên cứu và phát triển (R&D), tạo điều kiệnchophát triển Spin-offs như: chính sách sửa đổi về bằng sángchế;giảmbốtcác quy định nhằm tăng sự tin cậy lẫn nhau; vàcác hướngdẫn trong sởhữu tài sảntrí tuệ thuộcsở hữu của chính phủ (Gibson&

Rogers, 1994; Bozeman, 2000).

TạiAnh, Đạo luật Chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ từ tập đoàn công nghệ (một cơ quan nhà nước) cho các trường đại học trong những năm 1980cũng tạo ra bước ngoặtquan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển các công ty Spin-offs từ các trường ĐH. ở châuÂu, kê" hoạchhành động đầu tiên cho đổi mới giáo dục đại học của các

(6)

QUẢN TRỊ-QUẢN LÝ

chính phủ tập trungvào tài trợcho sựtăng trưởng của cácdoanh nghiệpSpin-offs từ các trường đại học (Meyer, 2003). Tại Thổ Nhĩ Kỳ, theoErden và Yurtseven (2012), thương mại hóa tri thứcvà khoahọc đã được thừa nhận là một vấn đề quan trọng trong chính sách của chính phủ: Luật sô' 5746 tập trung vào vấn đề này và quy định về cung cấp ưu đãi tài chính chocác công ty thực hiện nghiên cứu vàphát triển (R&D) cũng nhưvốh hỗ trợ ban đầu cho các doanh nhân học thuật hình thành doanh nghiệptrên nềntảng nghiêncứu; Bộ khoa học Công nghệ và Công nghiệp cung cấp vốn “mồi” (Seed Funding) cho các doanh nhân thành công với hoạt động chuyển giaocông nghệ để phát triển doanh nghiệp Spin-off trong các trường đại học. Tại châu Á, Singaporelà một quốc gia có những chính sách phát triển giáo dục ĐH hướng tới khởi nghiệp và thúc đẩy sáng tạo rất thành công trong hơn hai thập kỷ qua. Trong 5 năm (từ 1998 đến 2003), đã có hơn 70 doanh nghiệp Spin-offs thành lập nhờ chính sách ươm mầm từ Đại học Quốc gia, Đại học Công nghệ Nanyang và các viện nghiên cứu về khoa học công nghệ (ĐinhVăn Toàn,2019,156).

Các công ty Spin-offs thường có tiềm năng pháttriển cao, nhưngcũng thường gặpnhiềukhó khăn khitìmkiếmnguồn tài chínhđầy đủ đểkhởi nghiệp và mở rộng sảnxuất kinh doanh do bất lợi từcôngnghệ chưa được chứng minhvà thiếu kế hoạch kinh doanh. Vì vậy, tài trợ của chính phủ và các cơ chế hỗ trợ tiếp cận vốn càng quan trọng. Chính phủ châu Âu và Mỹ cũngđãphát triển các cơ chế hỗ trợ tàichính trong hình thức tài trợ và chính sách tài trợcông. Kế hoạchhành động đầu tiên cho đổi mới ở châu Âu vào năm 1996 đã tài trợ cho tăng trưởng của các doanh nghiệpdựatrên công nghệ, đặc biệt là cácSpin­

offs từ trường ĐH trong Liên minh châu Âu.

Trong khi nhiềuchương trình tài trợnhư: Chương trìnhNghiên cứu Đổi mới Kinh doanh và Nghiên cứu Chuyển giao Công nghệ nhỏ đã được phát triển ở Mỹ để tài trợcác dựán R&D córủiro cao nhưng có tiềmnăng thương mại (Meyer, 2003).

Điều này cho phép các nhà sáng lập doanh nghiệp học thuật vượt qua các rào cản tài chính.

Đối với các trường ĐH, các nhà quản trị đã nhận ra vai trò chiến lược của các phòng thí nghiệm và trung tâm nghiên cứu thông quakhả năng sáng tạo và phổ biến kiến thức trong việc thúc đẩy năng lực đổi mới. Hầu hết các trường ĐH và trung tâm nghiêncứu đều khai thác kết quả nghiêncứubằng cách quảng bá và tạo ra các liên doanh mới. Trong báo cáo “Thúc đẩy tinh thần doanh nhân”,Tổ chức Hợptác và pháttriển châuÂu nhấn mạnhrằng các trường đạihọc cần phát triển các chínhsách, cơ cấu đểtạo điều kiện chuyển đổi từ nghiêncứu sáng tạo ra các dự án mổi (Ndonzuau và cộngsự, 2002).

4. Bài học cho các nhà quản trị trong giáo dục đại học

4.1. Đốivớicáctrường đại học

Cần có các chương trình nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và năng lực quản trị, điều hành trong kinh doanh; Đăng ký quyền sở hữutrí tuệ như là mộtphần đóng góp cho liên doanh thương mại; tăng cường hợp tác vớidoanh nhân và ngành công nghiệp. Đặc biệt, cần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ mô hình truyền thống như hiện nay sang ĐH khởinghiệp. Theo đó,ưu tiên hoàn thiệncơ cấu tổ chức thông quahình thành các cụm phòng thí nghiệm, vườn ươm công nghệ, vănphòngcấp phép vàchuyểngiao côpng nghệ, đồng thời thiết lậpcác quy định nội bộcụ thể để điều tiết chuyển giao công nghệ và khuyên khích các tổ chức, cá nhânnghiêncứu thương mại hóa kết quả NCKH.

4.2. Đốivới Chính phủ các Bộ, ngành - Các quy địnhpháp luật về doanh nghiệp bao gồm: Luật Doanh nghiệp, các quy định về doanh nghiệp khoa học công nghệ, doanh nghiệp công nghệcao và doanh nghiệp trực thuộc các cơ quan sự nghiệp công lập, trường ĐH cần được hoàn thiệntheo hướng đồng bộ và tạo cơ sở cho việc thành lập và hoạtđộng của Spin-offs từ trường đại học. Quy định pháp luật gần đây nhất về doanh nghiệp khoa học công nghệ (KHCN) là Nghị định số’13/2019/NĐ-CP quy định khá rõvề hình thành, hoạt động và phát triển các doanh nghiệp này.Tuynhiên, chođến naychưa có văn bản nàođề cập trựctiếp đếnSpin-offshaydoanh

Số 23 -Tháng 9/2020 257

(7)

TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG

nghiệp khởi nguồn từ các trường đại học. Cơ chế phù hợp cho các doanh nghiệp kiểu Spin-offs hoạt độngvà phát huy vàitrò chưahình thành Việt Nam. Luật Giáo dục đại học đã cho phép cáccơ sở giáo dục đại học được liên doanh, liên kết, thành lập doanh nghiệp nhưng cũngchưacó một hànhlang pháp lý cụ thể cho việc ra đời và hoạtđộng của các Spin-offs.

- Pháp luật hiện hành cần được bổ sung các quy định về các mô hình đơn vị hỗ trợ như vườn ươm công nghệ, vườn ươm doanh nghiệp hay không gian làmviệcchungtạicác trường ĐH để thúc đẩykhởi nghiệp và hình thành doanhnghiệp Spin-offs. Quy định hiện nay về doanh nghiệp KHCNkhiếncácnhà khoahọckhông quan tâm đếnthành lập Spin-offdo rủi ro từ việc thành lập mớimàsẽ chuyển đổithànhdoanhnghiệpKHCN khicó đủ điềukiện.

- Chính phủ, Bộ Khoahọcvà Công nghệ cần xây dựng vàbanhành các chínhsách hình thành nguồn vốn và thiết lập cơ chế, chính sách sử dụng vốn “mồi”như mộtsố quốc gia đã thực hiện cho cácdoanh nhân học thuật bước đầuphát triển sản phẩm, mô hình kinh doanhtừ trườngđại học.

- Chính phủ,BộGiáo dục và Đào tạo cần giao quyền tự chủ hoàn toàn về mặt tổ chức, nhân sự đểcáctrường đại học có các chính sách khuyến khíchtinh thầndoanh nhân trong nhà trường và thành lậpđơnvị hỗ trợcác dựánkinh doanh mới

từ cácnghiên cứu đểhình thànhcác vườn ươm doanh nghiệp, công ty Spin-offs.

5. Kết luận

Thànhcông từ đổimớichính sách và hợp tác hiệu quả giữa các bên: trường đại học - chính phủ - doanh nghiệp ở một số’ quốc gia trênthế giới để phát triển doanh nghiệp học thuật Spin­

offs cho thây vai trò quyết định của Chính phủ.

Việt Nam đang trong bốì cảnh chuyển đổi các trường ĐH truyền thống sang trường ĐH khởi nghiệp, tuy nhiên kết quả hình thành và phát triển Spin-offs từ các trường còn rất hạn chế.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu là hệ thống thiết chế, các quy định pháp luật chưa đồng bộ, chưa khuyến khích và hỗ trợ để các giảng viên, nhà khoa họchình thành dựán kinh doanh để chuyển giao và thành lập Spin-offs. Vì vậy,Chính phủ cần hoàn thiện thể chếvàcơ chế đểthúc đẩychuyểngiao công nghệ, thương mại hóa kết quả nghiên cứu từ các trường đại học, cho phép trường đại học sở hữu các tài sản trí tuệ từ các đề tài NCKH do Nhà nước tài trợ. Nhà nước và các cơquan quản lý cần gỡ bỏ các rào cản để thực hiện tự chủ hoàn toàn trong các trường đại học, đồng thời cho phép công chức, viên chức trong các trường đại họccông lập tham giathànhlập và quản lý cácdoanh nghiệp Spin­

offs để phát huy tốt thành quả NCKHphục vụ phát triểnkinhtế - xã hội ■

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

1. Bekkers, R., Gilsing, V., Van der Steen, M. (2006), Determining factors of the effectiveness of IP-based Spin- offss: Comparing the Netherlands and the US, Journal of Technology Transfer, 31,545-566.

2. Boffo, s. và Cocorullo, A. (2019), University Fourth Mission, Spin-offs and Academic Entrepreneurship:

Connecting public policies with new missions and management issues of universities, the Higher Education Forum, Vol. 16, 125-142.

3. Borges, c„ Filion, L.J. (2013), Spin-off Process and the Development of Academic Entrepreneur’s Social Capital, Journal of Technology Management & Innovation, 8(1).

.

http://dx.doi.org/10.4067/S0718- 27242013000100003

(8)

QUẢN TRỊ-QUẢN LÝ

4. Bozeman, B. (2000), Technology transfer and public policy: A review of research and theory, Research Policy, 29(4), 627-655.

5. Callan, B. (2001), Generating spin-offs: Evidence from Across the OECD, Special Issue on Fostering High-tech Spin-offs: A Public Strategy for Innovation, OECD Science Technology Industry Review, Volume 2000, Issue 1, No. 26,1-55.

6. Chang, Y.C., Yang, P.Y., Martin, B.R., Chi, H.R., & Tsai-Lin, T.F. (2016), Entrepreneurial universities and research ambidexterity: A multilevel analysis, Technovation, Volume 54, 8/2016,7-21. g/10.1016/

j.technovation.2016.02.006.

http://dx.doi.ot

7. Dinh Van Toan (2020), Entrepreneurial Universities and the Development Model for Public Universities in Vietnam, International Journal of Entrepreneurship, 24 (1), 1-16.

8. Djokovic, D„ Soutaris, V. (2008), Spinouts from academic institutions: A literature review with suggestions for further research, Journal of Technology Transfer, 33,225-247. https://doi.org/10.1007/sl0961-006-9000-4.

9. Đinh Văn Toàn (2020), Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện sứ mệnh thứ ba và thách thức đối với các trường đại học Việt Nam trong giai đoạn chuyển đổi, VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 3 (2020), 15-84.https://doi.org/10.25073/2588-1108/vitueab.4355.

10. Đinh Văn Toàn (2019), Phát triển doanh nghiệp trong các cơ sở giáo dục đại học: Từ kinh nghiệm quốc tê đêh thực tiễn Việt Nam, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản ĐHQGHN, 133-261.

11. Erden, Y„ Yurtseven, A.E. (2012), Establishment and Development of Academic Spin - Off Firms: Evidence from Turkey. Đăng tải ưên https://www.researchgate.net/publication/254429007. Truy cập ngày 16/8/2020.

12. Goldfarb, B. và Henrekson, M. (2003), Bottom-up versus top-down policies towards the commercialization of university intellectual property, Research Policy, 32(4), 639-658.

13. Lazzeretti, L., Tavoletti, E. (2005), Higher education excellence and local economic development: The case of the enttepreneurial University of Twente, European Planning Studies, 13(3), 475-493.

14. Meyer, M. (2003), Academic entrepreneurs or entrepreneurial academics? Research-based ventures and public support mechanism, R&DManagement, 33(2), 107-115.

15. Ndonzuau, F.N., Pimay, F„ Surlemont B. (2002), A stage model of academic spin-off creation, Technovation, 22(5), 281-289. https://doi.org/10.1016/S0166-4972(01)00019-0.

16. Rasmussen, E. (2008), Government insttuments to support the commercialization of university research:

Lessons from Canada, Technovation, 28(8), 473-550.

17. Rasmussen, E., Borch, O.J. (2010), University capabilities in facilitating entrepreneurship: a longitudinal study of Spin-offs ventures at mid-range universities, Research Policy, 39(5), 602-612.

18. Saetre, A.S., Wiggins, J., Atkinson, O.T., Atkinson, B.K.E. (2009), University Spin-Offs as Technology Transfer: A Comparative Study among Norway, the United States, and Sweden. Comparative Technology Transfer and Society, 7(2), 115-145. https://doi.Org/10.I353/ctt.0.0036

19. Shore, c., McLauchlan, L. (2012), Thữd mission’ activities, commercialisation and academic entrepreneurs, SocialAnthropology/Anthropologie Sociale, 20(3), 267.

20. Stal, E„ Andreassi, T„ Fujino, A. (2016), The role of university incubators in stimulating academic entrepreneurship, Revista de Administracão e Inovacão, 13(2), 27-47.

21. Wright M., Piva E„ Mosey s., Lockett A. (2009), Academic Entrepreneurship and Business Schools, Journal of Technology Transfer, 34,560-587.

SỐ23-Tháng 9/2020 259

(9)

TẠP CHÍ CÔNG THƯƠNG

Ngày nhận bài: 23/8/2020

Ngàyphản biện đánh giá và sửa chữa: 3/9/2020 Ngày chấp nhậnđăngbài:13/9/2020

Thôngtin tác giả:

TS. ĐINH VĂN TOÀN Giảng viên cao cấp

Trường Đại học Kinh tế - Đại họcQuốc gia Hà Nội

THE ROLE OF POLICIES IN THE DEVELOPMENT OF SPIN-OFFS ACADEMIC COMPANIES:

INTERNATIONAL LESSONS AND POLICY RECOMMENDATIONS FOR MANAGERS

• Ph.D. DINH VANTOAN

Senior Lecturer, University of Economics and Businesses, Vietnam National University - Hanoi

ABSTRACT:

This paper presents the research results about Spin-offs academic enterprises from universities and policies to promote the developmentof these enterprises from a number of countries. Basedon the paper’s analysis, somepolicy recommendations are proposed to form Spin-offs academic companies to promote technology transfer, contributing to improving the entrepreneurial universitymodel in Vietnam.

Keywords: Academic enterprises,spin-offs, entrepreneurialuniversities,university.

Referensi

Dokumen terkait

Antonio de Morga, người đã chứng kiến thời kỳ hoàng kim của thương mại thuyền buồm vào cuối thế kỷ XVI, đã đưa ra một danh sách các loại hàng hóa được Trung Quốc mang đến Manila như

Cuộc khủng hoảng đã thể hiện nhiều khía cạnh trong thị trường tài chính: i rủi ro đạo đức trong hệ thống ngân hàng; ii nhà đầu tư đã tự tin thái quá vào sự tăng giá của các sản phẩm

Chính vì vị trí có tầm quan trọng đặc biệt như vậy của triết học Hy Lạp cổ đại, nên trong bài viết này, chúng tôi phân tích vai trò và ý nghĩa của triết học đó đối với sự hình thành

Từ đó, xây dựng những chính sách phù hợp nhằm thúc đẩy NNC phát triển, tạo môi trường lý tưởng và thuận lợi để các nhà khoa học, các nghiên cứu sinh, học viên cao học, sinh viên có thể

Đóng góp vào ngân sách nhà nước Trong những năm đầu thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2016-2019, với sự nỗ lực của Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương, thu

tình trạng chưa thống nhất nhận thức về một số vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong phương pháp luận nghiệp vụ báo chí như: quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận và trách nhiệm chính

Tăng cường công tác phối hợp giữa Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ban Tôn giáo Chính phủ và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức

Hình 1: Doanh thu thương mại điện tử B2C Việt Nam 2015-2019 Tỷ USD Nhận thấy tâm quan trọng của kinh tế số, tại Việt Nam hàng loạt các chủ trương, chính sách của Chính phủ đã được đặt