Foundation VIỆN PHÁP TẠI VIỆT NAM Liberté
Égalité Fraternité
NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC HUẾ Huế, 2022
NHIỀU TÁC GIẢ
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I
7MỤC LỤC
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG ... 13 1. DIỄN VĂN CHÀO MỪNG HỘI THẢO CỦA HIỆU TRƯỞNG TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ ... 15 2. BÁO CÁO ĐỀ DẪN HỘI THẢO QUỐC TẾ VĂN HÓA VÀ GIÁO DỤC LẦN THỨ II NĂM 2021 (ICCE 2021) ... 17 3. INTRODUCTION A LA CONFERENCE INTERNATIONALE “CULTURE ET
EDUCATION”, 2è EDITION (ICCE 2021) ... 21 4. INTRODUCTORY REPORT THE 2nd INTERNATIONAL CONFERENCE ON
CULTURE AND EDUCATION (ICCE 2021) ... 25 5. EDUCATION AND SOCIAL DEVELOPMENT IN SINGAPORE: COLONIAL,
NATIONAL AND INTERNATIONAL DIMENSIONS ... 29 Prof. S. Gopinathan 6. TRANSFORMATION DU SYSTÈME D’ENSEIGNEMENT AU VIETNAM
COLONIAL À TRAVERS LE CAS DU POÈTE TẢN ĐÀ (1889-1939) ... 35 PGS.TS. Nguyễn Phương Ngọc 7. GIÁO DỤC CAO ĐẲNG VÀ ĐẠI HỌC Ở ĐÔNG DƯƠNG TỪ 1906 ĐẾN 1945:
LỊCH SỬ, THỰC TRẠNG VÀ GIÁ TRỊ ... 50 PGS.TS. Trương Công Huỳnh Kỳ 8. ẢNH HƯỞNG CỦA HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ XÔ VIẾT ĐẾN VIỆT NAM GIỮA THẾ KỶ XX TRONG LĨNH VỰC LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ ... 69
GS.TSKH. Vladimir N. Kolotov 9. LES ÉCRIVAINES DU MOUVEMENT DU 4 MAI ET LA MODERNISATION DE LA CHINE ... 79
LI Shiwei PHẦN II: GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở ĐÔNG Á ... 85 10. NHẬT BẢN CẢI CÁCH GIÁO DỤC THEO TÂN HỌC TỪ 1868 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XX: BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO GIÁO DỤC VIỆT NAM ... 87
TS. Nguyễn Đức Khuông - TS. Nguyễn Văn Ngọ 11. TỪ TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA FUKUZAWA YUKICHI ĐẾN TƯ TƯỞNG CẢI
CÁCH GIÁO DỤC CỦA NGUYỄN TRƯỜNG TỘ ... 98 TS. Hoàng Thị Thắm
12. GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở ĐÔNG Á THỜI CẬN ĐẠI QUA NGHIÊN CỨU VỀ PHONG TRÀO DƯƠNG VỤ Ở TRUNG QUỐC CUỐI THẾ KỶ XIX VÀ PHONG TRÀO ĐÔNG DU Ở VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ... 109
Trịnh Quốc Gia - TS. Phạm Đức Thuận 13. WOMEN EDUCATION – THE HALLMARK IN THE EDUCATION OF INDIA
UNDER THE BRITISH RULE ... 121 TS. Lê Thị Quí Đức 14. GIÁO DỤC NỮ GIỚI Ở ẤN ĐỘ THỜI THUỘC ANH – DẤU ẤN CỦA NHỮNG CÁ NHÂN TIÊN PHONG ... 131
ThS. Hoàng Phi Hải - TS. Lê Thị Quí Đức 15. GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở XIÊM DƯỚI THỜI VUA CHULALONGKORN (1871-1910) ... 138
PGS.TS. Đặng Văn Chương - ThS. Nguyễn Hữu Phúc 16. CẢI CÁCH GIÁO DỤC PHẬT GIÁO THEO KHUYNH HƯỚNG TÂN HỌC Ở THÁI LAN TỪ NỬA SAU THẾ KỶ XIX ĐẾN ĐẦU THẾ KỶ XX ... 148
PGS.TS Đặng Văn Chương - Lê Thị Hồng Huệ 17. EDUCATION REFORM IN JAPAN AND THAILAND (SIAM) FROM THE
SECOND HALF OF 19TH CENTURY TO EARLY 20th CENTURY) SOME COMPARATIVE CHARACTERISTICS ... 159
Phạm Thị Phượng Linh 18. AMERICAN EDUCATIONAL REFORM IN THE PHILIPPINES IN THE FIELD OF LANGUAGE AND ITS CONSEQUENCES ... 174
Lê Thành Nam - Trần Thị Quế Châu - Michael Bernal 19. CẢI CÁCH GIÁO DỤC HỒI GIÁO Ở INDONESIA TỪ NỬA SAU THẾ KỶ XX . 189
ThS. Nguyễn Văn Tuấn - ThS. Lê Văn Trường An 20. ẢNH HƯỞNG GIÁO DỤC TÂN HỌC ĐẾN CÁC NƯỚC ĐÔNG Á QUA KHẢO SÁT NỀN GIÁO DỤC TRUNG QUỐC TỪ 1949 ĐẾN CUỐI THẾ KỶ XX - NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM ... 200
Nguyễn Văn Ngọ, Mai Văn Hưng 21. CHINESE EDUCATION IN THE DECADES OF 1980s-1990s AND THE LESSONS
LEARNED ... 211 Assoc.Prof Le Van Anh - Dr. Le Hoang Linh 22. BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ VẤN ĐỀ RUMANI ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC CHO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1966-1989 ... 225
TS. Nguyễn Thế Hà- TS. Trần Thanh Thủy
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I
9 PHẦN III: GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM ... 233 23. CHỮ QUỐC NGỮ VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN GIÁO DỤC TÂN HỌC ỞVIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ... 235 TS. Phạm Thị Loan 24. CẢI CÁCH GIÁO DỤC PHÁP-VIỆT LẦN THỨ NHẤT ĐẦU THẾ KỶ XX ...247
TS. Trần Như Hiền 25. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN NGÀNH LUẬT HỌC Ở ĐÔNG DƯƠNG
THỜI THUỘC ĐỊA ... 258 TS. Trần Thị Hằng 26. SƠ LƯỢC HOẠT ĐỘNG ĐÀO TẠO LUẬT HỌC Ở VIỆT NAM THỜI THUỘC
PHÁP (1910-1931) ... 268
. TS. Nguyễn Ngọc Quỳnh - ThS. Nguyễn Vũ Hy Nguyên
27. NỀN GIÁO DỤC PHÁP-VIỆT VỚI SỰ HÌNH THÀNH TẦNG LỚP TRÍ THỨC TIỂU TƯ SẢN NGƯỜI DÂN TỘC THIỂU SỐ Ở TÂY BẮC TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945 ... 279
PGS.TS. Phạm Văn Lực 28. GIÁO DỤC CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC: NHỮNG ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1902-1945 ... 291 TS. Chu Thị Thu Thủy 29. QUÁ TRÌNH THÂM NHẬP GIÁO DỤC PHÁP-VIỆT VÀO NGHỆ AN TỪ NĂM
1899 ĐẾN NĂM 1919 ... 303
. TS. Đậu Đức Anh - PGS.TS. Trần Vũ Tài - TS. Mai Phương Ngọc
30. ĐÓNG GÓP CỦA PHAN BỘI CHÂU VÀ PHONG TRÀO ĐÔNG DU ĐỐI VỚI NỀN GIÁO DỤC TÂN HỌC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ... 313
Huỳnh Hải Học - Lê Trọng Gia Khánh - Tống Triệu Nhân 31. HUỲNH THÚC KHÁNG VỚI VẤN ĐỀ GIÁO DỤC ĐẦU THẾ KỶ XX ... 324
. ThS. Lê Thị Hoài Thanh
32. BÁO TIẾNG DÂN (1927-1943) VỚI TÂN HỌC VÀ GIÁO DỤC TÂN HỌC ... 335 NCS. Ngô Thị Thanh Tâm 33. TRƯỜNG TÂN HỌC “ĐIỂN HÌNH” TRONG PHONG TRÀO DUY TÂN Ở VIỆT
NAM ĐẦU THẾ KỶ XX ... 348 TS. Nguyễn Minh Phương 34. TỪ MÔ HÌNH DUY TÂN GIÁO DỤC VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX SUY NGHĨ VỀ ĐỔI MỚI GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY ... 360
TS. Huỳnh Văn Tuyết
35. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC TRƯỜNG PHÁP-VIỆT ĐỐI VỚI NGUYỄN TẤT THÀNH TRONG VIỆC HÌNH THÀNH CHÍ HƯỚNG CỨU NƯỚC ... 373
TS. An Thị Ngọc Trinh - ThS. Phan Thị Thanh Hương 36. TÂN HỌC VỚI CON ĐƯỜNG GIẢI PHÓNG CỦA VIỆT NAM QUA HIỆN TƯỢNG HỒ CHÍ MINH ... 382
TS. Nguyễn Văn Quang 37. TẠ QUANG BỬU - NGƯỜI TIÊU BIỂU CHO PHẨM CHẤT VÀ TÀI NĂNG CỦA TRÍ THỨC VIỆT NAM HIỆN ĐẠI ... 390
Trương Đình Tý - Huỳnh Thị Điểm 38. ẢNH HƯỞNG TÂN HỌC GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN
ĐẠI QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP GIÁO SƯ NGỤY NHƯ KON TUM ... 400 TS. Nguyễn Văn Ngọ 39. BA KHUÔN MẶT TIÊU BIỂU CỦA DU HỌC SINH VIỆT NAM TẠI NHẬT BẢN
TRONG CÁC THẬP NIÊN 40, 50 CỦA THẾ KỶ XX ... 410 GS.TS. Nguyễn Văn Khánh 40. GIÁO DỤC CÁCH MẠNG Ở MIỀN NAM VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐẤU
TRANH PHI THỰC DÂN HÓA (1954-1975): TRƯỜNG HỢP CÁC TỈNH QUẢNG NAM, QUẢNG NGÃI, BÌNH ĐỊNH, PHÚ YÊN ... 418
Trần Thúy Hiền 41. IMPLEMENT POLITICAL - IDEOLOGICAL EDUCATION MISSION FOR
TRUONG SON SOLDIERS IN THE YEARS 1965-1973 ... 434 Truong Tien Dat 42. NHỮNG THÀNH TỰU CỦA GIÁO DỤC QUẢNG TRỊ SAU 30 NĂM TÁI LẬP
TỈNH (1989-2019) ... 449 Nguyễn Ngọc Tuấn 43. HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ ĐÀO TẠO CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI
HỌC HUẾ TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2019...460 PGS.TS. Hoàng Chí Hiếu - TS. Hà Viết Hải PHẦN VI: GIÁO DỤC HỌC ...473 44. ẢNH HƯỞNG CỦA CHỦ NGHĨA DUY TÂM ĐỐI VỚI GIÁO DỤC TÂN HỌC
VIỆT NAM NỬA ĐẦU THẾ KỶ XX ... 475 PGS.TS. Mai Văn Hưng - TS. Nguyễn Văn Ngọ 45. TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC THỰC NGHIỆM CỦA JOHN DEWEY VÀ NHỮNG
ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁO DỤC VIỆT NAM HIỆN NAY ... 484 ThS. Bùi Thị Phương Thư
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
I
11 46. ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN Ở VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ QUỐC GIA ĐÔNG NAM Á:MÔ HÌNH ĐÀO TẠO VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN ... 495 PGS.TS. Dương Thị Hồng Hiếu 47. ĐÀO TẠO GIÁO VIÊN PHỔ THÔNG Ở VIỆT NAM THỜI THUỘC PHÁP ... 508
TS. Trần Thị Hải Lê - PGS.TS. Nguyễn Thành Nhân - TS. Nguyễn Thị Bích 48. BIỂN, ĐẢO TRONG CHƯƠNG TRÌNH GIÁO DỤC NHÀ TRƯỜNG VIỆT NAM .. 521
Đào Thị Giang – Bùi Văn Giang – Nguyễn Khắc Khai 49. GIÁO DỤC CHỦ QUYỀN BIỂN ĐẢO TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG
PHỔ THÔNG VIỆT NAM ... 529 TS. Nguyễn Đức Cương 50. ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG NGHỀ CHO NHÂN VIÊN CÔNG TÁC XÃ
HỘI BỆNH VIỆN - GÓC NHÌN TỪ THỰC TIỄN ... 538 ThS. Nguyễn Thị Phương Thanh 51. SERVICE-LEARNING: A PEDAGOGICAL MODEL FOR COMMUNITY
DEVELOPMENT, CASE STUDY IN UEF ... 550 Hoang Thi Hong Ha - Dang Ngoc Minh Thu - Phan Thao My PHẦN V: VĂN HÓA VÀ VĂN HỌC ...557 52. LE FABULEUX DESTIN DE MICHEL ĐỨC CHAIGNEAU OU L’AVENTURE
INTERPRÉTATIVE D’UNE ŒUVRE DU XIXÈ SIÈCLE... 559 Lê Đức Quang 53. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRONG TIẾP BIẾN VĂN HÓA PHÁP Ở VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1884-1945 ... 571 TS. Nguyễn Hoa Mai - TS. Nguyễn Thị Thu Hoài 54. NGHIÊN CỨU LIÊN NGÀNH VỀ VIỆT NAM QUA TƯ LIỆU CỦA PHÁP ĐẾN
GIỮA THẾ KỶ XX ... 581 TS. Văn Trung Hiếu 55. GIÁO DỤC TÂN HỌC PHÁP Ở TRƯỜNG MỸ THUẬT BẢN XỨ THỦ DẦU
MỘT ... 588 ThS. Nguyễn Quang Huy 56. ẢNH HƯỞNG CỦA GIÁO DỤC TÂN HỌC ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CỦA THỊ DÂN
THÀNH PHỐ VINH-BẾN THỦY TỪ CUỐI THẾ KỶ XIX ĐẾN NĂM 1945 ... 600 NCS. Nguyễn Thị Kim Sang - PGS.TS. Nguyễn Quang Hồng 57. VISUAL ART OF WATER PUPPETS IN THE HISTORICAL AND CULTURAL
FLOW OF VIETNAM ... 609 Vu Thanh Van
HỢP TÁC QUỐC TẾ VỀ ĐÀO TẠO
CỦA TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM, ĐẠI HỌC HUẾ TỪ NĂM 2004 ĐẾN NĂM 2019
*PGS.TS. Hoàng Chí Hiếu(1) - TS. Hà Viết Hải(2) Tóm tắt: Từ năm 2004 đến năm 2019, trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (ĐHSP Huế) có nhiều nỗ lực trong việc hợp tác quốc tế về đào tạo. Một số chương trình hợp tác hoặc liên kết đào tạo của Trường với các đại học của Hoa Kỳ, Pháp và Đài Loan đã tiệm cận được với trình độ của thế giới. Các chương trình này đã đóng vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sự phát triển của nhà trường trên nhiều phương diện.
Từ khóa: Đào tạo, hợp tác quốc tế, liên kết, Trường Đại học Sư phạm Huế.
1. Từ những hợp tác trước năm 2004…
Được thành lập tháng 3-1957 với tư cách là một phân khoa thuộc Viện Đại học Huế, ban đầu trường Đại học Sư phạm có đội ngũ khá khiêm tốn (năm học đầu tiên 1957-1958 có 16 người). Để đảm bảo đội ngũ giảng dạy và nâng cao chất lượng đào tạo của Trường, ngoài việc mời một số giảng viên của các phân khoa khác trong Viện Đại học Huế và Viện Đại học Sài Gòn, Trường còn rất chú trọng việc mời các giáo sư từ nước ngoài (chủ yếu từ Pháp) về thỉnh giảng hoặc làm giảng viên cơ hữu(3). Cho đến trước tháng 4-1975, do những biến động về chính trị và tình hình chiến sự ở miền Nam nên việc hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường gặp rất nhiều khó khăn, chủ yếu được thực hiện thông qua Viện Đại học Huế.
Số giáo sư từ nước ngoài đến giảng dạy hầu như không có.
Sau tháng 4-1975, trong bối cảnh khó khăn chung của đất nước, Việt Nam bị bao vây, cấm vận, việc giao lưu học thuật với thế giới của trường gặp rất nhiều trở ngại, hầu như không có hoạt động nào đáng kể.
Từ năm 1989, với những kết quả khả quan bước đầu của công cuộc đổi mới, điều kiện kinh tế của Việt Nam được cải thiện đáng kể. Với đường lối đối ngoại “muốn là bạn với các nước”, quan hệ quốc tế của Việt Nam được mở rộng. Hợp tác quốc tế nói chung và trong lĩnh vực giáo dục nói riêng có cơ hội phát triển. Từ chỗ chỉ có hợp tác (chủ yếu dưới dạng gửi giảng viên đi đào tạo) với một số nước xã hội chủ nghĩa cũ đến năm 1995, Trường có quan hệ với 13 nước và 20 tổ chức quốc tế, trong đó chủ yếu tập trung ở các khoa ngoại ngữ. Hàng
*Trân trọng cảm ơn sự góp ý và bổ sung của PGS.TS. Trương Minh Đức, Trưởng khoa Vật lý, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(1) Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(2) Phòng KHCN&HTQT, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
(3) Như: TS. Nguyễn Hữu Trí (Đại học Bordeaux), TS. Lê Trọng Vinh và TS. Nguyễn Quới (Đại học Sorbonne), TS.
Lê Khắc Phò (Đại học Montperllier), TS. Nguyễn Văn Hai và TS. Nguyễn Đình Hoan (Đại học Paris), …
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
461 năm, Trường tiếp nhận 15-17 chuyên gia đến giảng dạy trong thời gian từ 1 đến 2 tháng; đón hàng chục lượt chuyên gia nước ngoài (Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Australia, Đức, Nhật Bản, Hà Lan, Trung Quốc, Thụy Sỹ) đến thỉnh giảng, trao đổi khoa học. Đặc biệt, Trường liên kết với Học viện Sư phạm Quảng Tây (Trung Quốc) để đào tạo sinh viên Trung văn, phối hợp với Hội Việt - Nhật mở các khóa đào tạo tiếng Nhật, đào tạo chuyển tiếp cho sinh viên khoa Nga văn tại Liên bang Nga, tiếp nhận một số sinh viên quốc tế (Pháp, Trung Quốc, Nhật Bản) … [Cung. 2007, tr. 192].Trong lúc hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường vừa mới có bước khởi sắc thì tháng 7-2004 Đại học Huế có quyết định về việc thành lập trường Đại học Ngoại ngữ trên cơ sở hợp nhất các khoa ngoại ngữ của một số trường thành viên. Theo đó, các khoa: Anh văn, Pháp văn, Trung văn, Nga văn và Trung tâm Ngoại ngữ của Trường được chuyển về trường Đại học Ngoại ngữ. Việc này ảnh hưởng rất lớn đến các mối quan hệ hợp tác quốc tế của Trường, trong đó có hợp tác về đào tạo, bởi vì đến thời điểm này phần lớn những hợp tác quốc tế đều tập trung ở các khoa ngoại ngữ. Việc hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường gần như lại bắt đầu từ đầu.
2… đến mở rộng hợp tác từ năm 2004 đến năm 2019
Từ thời điểm này, việc thiết lập, mở rộng hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường gặp nhiều khó khăn, bởi những yếu tố chủ quan và khách quan như:
- Sau gần 2 thập kỷ Việt Nam tiến hành công cuộc đổi mới (từ năm 1986), nền kinh tế có bước phát triển vượt bậc. Tuy nhiên, đối với khu vực miền Trung - Tây Nguyên, địa bàn tuyển sinh chính của Trường, đời sống của một bộ phận lớn nhân dân còn khó khăn, việc đầu tư cho con cái theo học các chương trình chất lượng cao, liên kết với nước ngoài (trong điều kiện phải nộp học phí) có nhiều trở ngại.
- Sự vươn lên của một số trường đại học trong khu vực, với những lợi thế nhất định về cơ chế, nhân lực, nguồn tài chính và đóng ở trung tâm kinh tế phát triển hơn, có khả năng thu hút người học và thậm chí là cả nhân lực có trình độ cao từ Đại học Huế nói chung và của trường Đại học Sư phạm nói riêng.
- Việc triển khai các ngành khoa học cơ bản trong trường Đại học Sư phạm khó thu hút được người học, bởi nhiều thí sinh dễ dàng “bỏ qua” khi làm hồ sơ đăng ký tuyển sinh do tâm lí “sư phạm chỉ đào tạo giáo viên”.
- Quá trình chuyển đổi từ chủ yếu quan hệ với nền giáo dục của các nước XHCN cũ sang mở rộng hợp tác quốc tế, trước hết là với các nước trong khu vực Đông Á, nơi có những nền giáo dục phát triển cao, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, các nước châu Âu và Hoa Kỳ, đòi hỏi đáp ứng yêu cầu cao về năng lực ngoại ngữ cũng như trình độ chuyên môn của đội ngũ giảng viên. Trong khi đó, các giao lưu hợp tác quốc tế về học thuật của Việt Nam nói chung và của Trường nói riêng sau thời gian dài đất nước bị bao vây, cấm vận, chưa nhiều, chưa bền vững.
- Khó khăn càng lớn hơn khi phần lớn các quan hệ hợp tác cũ không còn. Từ chỗ hợp tác về đào tạo ngoại ngữ vốn không đòi hỏi nhiều về đầu tư trang thiết bị chuyển sang hợp
tác về những ngành khoa học tự nhiên có những yêu cầu cao về hạ tầng kỹ thuật, trong khi nguồn lực đầu tư cho phòng thí nghiệm, thiết bị thực hành cũng như chi phí mời giảng viên nước ngoài đến dạy của Trường còn gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước tình hình đó, lãnh đạo nhà trường qua các thời kỳ luôn quán triệt việc tiếp tục duy trì và củng cố các mối quan hệ đã có, tích cực mở rộng, tìm kiếm các hợp tác mới nhằm đào tạo, bồi dưỡng, hợp tác nghiên cứu khoa học với các trường đại học lớn trên thế giới. Đại hội Đảng bộ Trường lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2010-2015) khẳng định lại việc
“đẩy mạnh việc liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu của các nước trong khối ASEAN, các nước trong khu vực châu Á và các nước phát triển bằng các hình thức trao đổi giảng viên và sinh viên. Chú ý đặc biệt đến liên kết trong đào tạo sau đại học và các ngành đào tạo cử nhân theo chương trình tiên tiến” [Đảng ủy Trường Đại học Sư phạm.
2010, tr. 19].
Chủ trương trên cùng với những nỗ lực từ nhiều giảng viên trong trường dần dần mang lại hiệu quả thiết thực. Trong năm 2005, Trường thiết lập hợp tác với Đại học Potsdam (Đức) về đào tạo sau đại học; với Đại học Malaya (Malaisia) về phương pháp dạy học bộ môn. Trong những năm tiếp theo, số lượng các trường đại học và các tổ chức đặt mối quan hệ với Trường không ngừng tăng. Chỉ riêng 5 năm (2015-2019), Trường đã ký kết và triển khai 19 biên bản ghi nhớ hợp tác với các trường đại học và tổ chức quốc tế [Trường Đại học Sư phạm. 2019, tr. 2], trong đó về hợp tác đào tạo có những hình thức chủ yếu sau:
- Trao đổi sinh viên với một số trường đại học của Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hoa Kỳ.
- Thu hút, đào tạo sinh viên, học viên cao học quốc tế từ Lào, Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Pháp, Myanma, Nhật Bản.
- Nâng cao năng lực giảng dạy bằng tiếng Anh và nghiên cứu khoa học cho đội ngũ giảng viên Khoa Vật lý (hàng năm có từ 4 đến 6 lượt giảng viên sang Đại học Virginia (Hoa Kỳ) từ 1 đến 3 tháng để dự giờ và thực tập giảng dạy trước khi tham gia giảng dạy cho sinh viên chương trình Vật lý tiên tiến liên kết với Đại học Virginia).
- Tham quan, dự giờ ở các trường đại học và cao đẳng của Thái Lan, Lào, Singapre, Indonesia…
- Tổ chức trường Đông INHA-Huế, trường Hè Huế-INHA về Vật lý lý thuyết hiện đại luân phiên liên tục hàng năm với đại học INHA (Hàn Quốc) từ năm 2009 đến nay, mỗi đợt có 6-8 giáo sư mỗi bên tham gia, thu hút hàng trăm lượt sinh viên không những của Trường mà còn từ nhiều trường đại học trong nước và quốc tế tham gia.
- Mời các nhà khoa học nổi tiếng tham gia giảng dạy, nói chuyện chuyên đề (chủ yếu ở khoa Toán, Vật lý và Tâm lý, như GS Ngô Bảo Châu, GS. Lưu Lệ Hằng, GS. Phạm Quang Hưng, GS. Hà Vĩnh Thọ, GS. Chia Chu Chen, GS.Richard Lindgren, GS.Chung Ngoc Tere Leung, TS. Atsushi Yoshida…
Không dừng lại ở trao đổi, tiếp nhận các chương trình tiên tiến của nước ngoài, Trường còn hỗ trợ về học thuật cho các trường đại học, cao đẳng trong khu vực, như phối hợp với
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
463 trường Đại học Khoa học Ứng dụng JAMK (Jyvaskyla) và trường Đại học Khoa học Ứng dụng HAMK (Hameenlinna), Phần Lan trong Dự án “Xây dựng cơ hội mở cho giảng viên và sinh viên Việt Nam” (dự án HEI-ICI) và Dự án “Nâng cao năng lực lãnh đạo và quản lý cho trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị”; hỗ trợ Đại học Quốc gia Lào xây dựng Chương trình Thạc sĩ Phương pháp giảng dạy Toán.Trong các loại hình nói trên, có hiệu quả và thành công nhất là việc thực hiện các chương trình liên kết hoặc hợp tác đào tạo ở hệ đại học và sau đại học với một số đối tác nước ngoài. Đối với Việt Nam nói chung và ĐHSP Huế nói riêng, đầu những năm 2000, hoạt động hợp tác về đào tạo với các nước phương Tây, nhất là các chương trình tiên tiến, chưa có mô hình cụ thể do đó quá trình triển khai dù gặp nhiều khó khăn nhưng kết quả đạt được có những đóng góp rất lớn đối với sự phát triển của nhà trường trên nhiều phương diện. Cụ thể gồm: Chương trình tiên tiến ngành Vật lý (VLTT) hợp tác với Đại học Virgnia (Hoa Kỳ), Chương trình Kỹ sư INSA Centre Val de Loire (KSVL) liên kết với INSA Centre Val de Loire và INSA Toulouse (Pháp) và Chương trình liên kết đào tạo thạc sĩ kép 1+1 với ngành Vật lý lý thuyết và Vật lý Toán, Toán giải tích liên kết với trường Đại học Khoa học, Đại học Quốc gia Chiao Tung (Đài Loan).
2.1. Chương trình tiên tiến ngành Vật lý (Advanced Program major in Physics) (2006-2015) (1)
Thực hiện Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP ngày 2-11-2005 của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai thí điểm đào tạo theo các chương trình tiên tiến (CTTT) tại một số trường đại học “nhằm tạo điều kiện để xây dựng và phát triển một số ngành đào tạo, khoa, trường đại học mạnh đạt chuẩn khu vực và đẳng cấp quốc tế; góp phần nâng cao chất lượng và triển khai các chương trình đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam; phấn đấu đến năm 2020 có một số trường đại học của Việt Nam được xếp hạng trong số 200 trường đại học hàng đầu thế giới” [Thủ tướng Chính phủ. 2008]. Theo đó, ngày 4-6-2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 2870/QĐ-BGD&ĐT
“Về việc giao nhiệm vụ triển khai đào tạo thí điểm Chương trình tiên tiến” ngành Vật lý cho Đại học Huế (2). Thực hiện nhiệm vụ trên, ngày 12-4-2007, ĐHSP Huế ký kết Văn bản thỏa thuận hợp tác với trường Nghệ thuật và Khoa học thuộc Đại học Virginia gồm những nội dung sau: Đẩy nhanh quá trình đổi mới về nội dung và quy trình đào tạo bậc đại học;
Nâng cao trình độ chuyên môn và khả năng giảng dạy Vật lý bằng tiếng Anh của giảng viên; Tham khảo chương trình gốc của Đại học Virginia để xây dựng chương trình đào tạo ngành Vật lý; Nâng cao việc tổ chức đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế từ đội ngũ, nội dung chương trình, phương pháp giảng dạy, phương pháp quản lý sinh viên; Thu hút các giảng viên trong và ngoài nước tham gia đào tạo, nghiên cứu tại Việt Nam [Văn bản thỏa thuận…2007].
(1) Đề án của Bộ Giáo dục và Đào tạo triển khai đến năm 2015 nhưng ngân sách nhà nước (chiếm 60%) chỉ đầu tư kinh phí cho 3 khóa tuyển sinh đầu tiên. Việc này cũng ảnh hưởng khá lớn đến kết quả tuyển sinh những năm tiếp theo.
(2) Đây là 1 trong 10 chương trình được triển khai thí điểm nhằm làm cơ sở cho việc thông qua Đề án “Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại học Việt Nam giai đoạn 2008-2015” của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Chương trình gốc của trường đối tác dạy học theo học chế tín chỉ, với 135 tín chỉ, trong đó có 122 tín chỉ lí thuyết và 13 tín chỉ thực hành. Chương trình có đưa môn Nghiên cứu độc lập gồm 3 tín chỉ vào nhằm mục đích giúp sinh viên tổng hợp và vận dụng những kiến thức đã học để giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành Vật lý. Để phù hợp với thực tiễn Việt Nam và theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo khi thiết kế CTTT ngành Vật lý, Trường đã đưa các môn chung thuộc khối kiến thức đại cương vào chương trình và tổ chức giảng dạy bằng tiếng Việt. Các học phần chuyên môn giảng dạy bằng tiếng Anh, thời gian đầu do giảng viên nước ngoài phụ trách (1), về sau các giảng viên Việt Nam đảm nhận. Các học phần Giáo dục Thể chất và Giáo dục Quốc phòng được triển khai bình thường như các chương trình khác đang đào tạo tại trường.
Để có thể giúp sinh viên nghe giảng các môn chuyên ngành bằng tiếng Anh, chương trình có bổ sung thêm 30 tín chỉ tiếng Anh cơ bản và nâng cao, do các giảng viên trường Đại học Ngoại ngữ Huế giảng dạy. Học phần Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên được hướng dẫn bởi giảng viên trong và ngoài nước, bảo vệ bằng tiếng Anh. Để giúp sinh viên tăng thêm cơ hội tìm kiếm việc làm sau khi tốt nghiệp, Trường tổ chức giảng dạy miễn phí các học phần nghiệp vụ sư phạm với 28 tín chỉ. Để giúp cho sinh viên có thể tiếp tục theo học ở Mỹ, Trường cung cấp tài liệu và bồi dưỡng GRE (Graduate Record Exam) cho sinh viên trước khi tốt nghiệp.
Về giáo trình và tài liệu học tập, Trường đặt mua hàng trăm giáo trình và tài liệu tham khảo viết bằng tiếng Anh liên quan đến các học phần cơ bản có trong chương trình đào tạo của Đại học Virginia. Về phòng thí nghiệm phục vụ đào tạo, Trường đã đầu tư xây dựng 5 phòng thí nghiệm hiện đại, phục vụ cho 10 bài thí nghiệm trong chương trình.
Các phòng thí nghiệm này không chỉ sử dụng cho CTTT mà còn phục vụ cho sinh viên Khoa Vật lý.
Công tác tuyển sinh, trên cơ sở kết quả thi tuyển sinh đại học hằng năm, Trường thông báo số chỉ tiêu và điểm chuẩn đầu vào của ngành. Sau khi sinh viên nộp hồ sơ đăng kí, Trường tổ chức thi kiểm tra đầu vào tiếng Anh. Những sinh viên đáp ứng yêu cầu về điểm chuẩn và khả năng tiếng Anh sẽ được Đại học Huế công nhận trúng tuyển. Số lượng tuyển sinh những năm đầu rất ít do đây là ngành học cơ bản nên sinh viên ra trường rất khó tìm kiếm việc làm. Từ năm 2012 trở đi, số lượng tuyển sinh đầu vào có khá hơn vì số sinh viên tốt nghiệp được học tiếp thạc sĩ, tiến sĩ ở nước ngoài khá nhiều, nhiều sinh viên được nhận vào làm việc tại các công ty nước ngoài, các cơ quan nghiên cứu trong nước và giảng dạy tại các trường THPT chuyên (2).
(1) Tổng cộng, trong thời gian thực hiện Đề án, có 54 lượt giảng viên từ Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Italia, Mexico và Đài Loan đến giảng dạy tại Trường.
(2) Đến năm 2015, kết thúc Dự án, trong số các sinh viên đã tốt nghiệp có 8 theo học tiến sĩ ở Mỹ, 4 học cao học ở Nhật Bản, 6 học cao học tại Đài Loan, 1 học cao học tại Italia, 1 học cao học tại Bỉ, 3 được giữ lại làm giảng viên tại trường, 2 sinh viên làm việc tại Viện Vật lý (Hà Nội); nhiều sinh viên làm việc cho công ty của Nhật Bản tại Tp Hồ Chí Minh, nhiều sinh viên tiếp tục học cao học trong nước hoặc làm giáo viên THPT chuyên ở các địa phương.
[Ban Điều hành… (2016). tr. 12].
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
465 Kết quả tốt nghiệp [Ban Điều hành … (2016). tr. 12].TT Khóa Tổng số
tốt nghiệp Kết quả tốt nghiệp Ghi chú
Xuất sắc Giỏi Khá TB
1 2006-2010 25 1 13 11
2 2007-2011 21 4 11 6
3 2008-2012 18 1 8 8 1
4 2009-2013 7 1 4 2
5 2010-2014 18 1 15 2
6 2011-2015 13 3 2 8
Tổng số 102 11 53 37 1
2.2. Chương trình Kỹ sư Val de Loire
Do những mối liên hệ lâu đời về lịch sử và văn hóa, tỉnh Thừa Thiên Huế có nhiều quan hệ với các địa phương của nước Pháp. Vì vậy, trong tiến trình phát triển, kế thừa những hợp tác về văn hóa và giáo dục có từ trước, từ giữa những năm 2000, việc hợp tác liên kết đào tạo giữa Đại học Huế với các trường đại học của Pháp được triển khai (1), trong đó thành công nhất cho đến thời điểm này đối với trường Đại học Sư phạm là Chương trình hợp tác đào tạo với INSA Centre Val de Loire.
Khởi nguồn vào năm 2007, GS Jean Trần Thanh Vân (2), Chủ tịch Tổ chức Khoa học và Giáo dục Gặp gỡ Việt Nam, thiết lập kế hoạch đưa học sinh tài năng của Việt Nam sang Pháp để đào tạo ngành kỹ sư trên cơ sở sự cộng tác của trường Kỹ sư Quốc gia Val de Loire tại thành phố Blois và ĐHSP Huế. Trong 3 năm liền, mỗi năm Chương trình tuyển 1 học sinh xuất sắc vừa tốt nghiệp phổ thông trung học và 1 sinh viên năm thứ nhất để cấp học bổng sang học tại trường Kỹ sư Quốc gia Val de Loire. Trong số những sinh viên đầu tiên của Chương trình, có 1 tiếp tục làm luận án tiến sĩ và 1 nhận được học bổng Eiffel (là học bổng danh giá nhất của nước Pháp dành cho sinh viên nước ngoài). Trong thời gian này, thông qua nhiều lần làm việc, GS Trần Thanh Vân nhận thấy ĐHSP Huế có đội ngũ giảng viên trình độ cao, có thể đáp ứng được việc hợp tác đào tạo bậc kỹ sư theo chương trình của các trường kỹ sư Pháp. Do đó, từ năm 2009, Chương trình được phát triển thành chương trình liên kết đào tạo theo hình thức 2+3 (2 năm đầu học ở ĐHSP Huế với chương trình đào tạo được chuyển giao từ phía Pháp và 3 năm tiếp theo học ở Pháp). Hội Gặp gỡ Việt Nam tiếp tục đóng vai trò là một bên hợp tác và tài trợ tài chính cho Chương trình. Từ năm 2014, INSA Centre Val de Loire được thiết lập (3) và chương trình vẫn được tiếp tục. Từ năm 2016, các bên hợp tác được mở rộng với sự tham gia của INSA Toulouse.
(1) Từ năm 2007 đến năm 2018, Đại học Huế đã ký 13 biên bản ghi nhớ và hợp tác với các trường đại học của Pháp.
(2) Là nhà vật lý nổi tiếng thế giới, người sáng lập các tổ chức: Gặp gỡ Moriond (thành lập 1966), Gặp gỡ Blois (thành lập 1989), Hội Khoa học Gặp gỡ Việt Nam (thành lập 1993), Trung tâm Quốc tế Khoa học và Giáo dục liên ngành (thành lập 2013), Viện Nghiên cứu Khoa học và Giáo dục liên ngành (thành lập 2016).
(3) Viện Quốc gia về Khoa học Ứng dụng là hệ thống trường Lớn (Grande École) đầu tiên tập hợp những trường công lập hàng đầu tại Pháp chuyên kỹ sư đào tạo với gần 100 chuyên ngành trong lĩnh vực: khoa học, kỹ thuật, công nghệ, kiến trúc và cảnh quan. Bằng tốt nghiệp của INSA được công nhận trên toàn thế giới.
Về công tác tuyển sinh, chương trình tuyển thẳng những học sinh đạt giải nhất, nhì, ba trong kỳ thi học sinh giỏi toàn quốc các môn Toán, Vật lý, Hóa học và Tin học; Trưởng nhóm học sinh đạt giải nhất cuộc thi sáng tạo Khoa học Kỹ thuật Quốc gia dành cho học sinh trung học các ngành Toán, Vật lý, Hóa, Tin học. Hình thức thứ hai là xét tuyển căn cứ vào kết quả thi tốt nghiệp THPT của tổ hợp 3 môn: Toán, Vật lý, Hóa học hoặc Toán, Vật lý, tiếng Anh, hoặc Toán, Vật lý, tiếng Pháp hoặc Toán, Hóa học, tiếng Anh hoặc Toán, Hóa học, tiếng Pháp và điểm ưu tiên. Điểm trúng tuyển trung bình hàng năm của Chương trình khá cao so với mặt bằng chung, trong đó số lượng tuyển thẳng thường chiếm từ 1/4 đến 1/3 chỉ tiêu.
Về trình độ ngoại ngữ đầu vào, Chương trình không yêu cầu về trình ngoại ngữ. Tuy nhiên sau 2 năm học đại cương tại Trường, sinh viên phải đạt chứng chỉ tiếng Pháp DELF B1 và chứng chỉ TCF để có thể nộp hồ sơ xét tuyển cho năm học tiếp theo tại INSA Centre Val de Loire hoặc INSA Toulouse. Về tổ chức đào tạo, Trong 2 năm đầu tiên, sinh viên học tại ĐHSP Huế theo chương trình và tài liệu học tập được chuyển giao từ INSA Centre Val de Loire, với ngôn ngữ tiếng Việt, tiếng Pháp hoặc tiếng Anh. Sau đó, nếu sinh viên hoàn thành các môn học chuyên môn, có chứng chỉ tiếng Pháp thì sẽ được các giáo sư của INSA Centre Val de Loire phỏng vấn để chuyển tiếp sang 3 năm tiếp theo trong chương trình Kỹ sư 5 năm tại INSA Centre Val de Loire hoặc INSA Toulouse. Tốt nghiệp tại các Trường này, sinh viên được cấp bằng kỹ sư, có giá trị tương đương mức thạc sĩ nên có thể đi làm chuyên môn hoặc tiếp tục làm luận án tiến sĩ. Trong 2 năm học tại ĐSHP Huế, sinh viên còn có một kỳ thực tập trong thời gian 1 tháng tại các cơ sở sản xuất.
Kết quả tuyển sinh [Trường Đại học Sư phạm (a)…2019]
Khóa tuyển sinh Số lượng sinh viên
Khóa 1 (2009) 9
Khóa 2 (2010) 10
Khóa 3 (2011) 5
Khóa 4 (2012) 7
Khóa 5 (2013) 11
Khóa 6 (2014) 11
Khóa 7 (2015) 13
Khóa 8 (2016) 14
Khóa 9 (2017) 13
Khóa 10 (2018) 13 (1)
Kết quả đào tạo, trong 6 khóa đầu tiên có khoảng 40 sinh viên đã tốt nghiệp, trong đó có 5 sinh viên đã bảo vệ luận án tiến sĩ, 10 sinh viên đang làm luận án Tiến sĩ, và nhiều sinh viên đang làm việc tại Pháp nói riêng và châu Âu nói chung [Trường Đại học Sư phạm. 2019a].
Với kết quả những kết quả tốt đẹp sau 10 năm hoạt động của Chương trình, tháng
(1) Trên cơ sở thành công của Chương trình, từ năm 2019, khi thành lập Chi nhánh tại Huế, phía đối tác đã tăng thêm chỉ tiêu tuyển sinh, khóa 11 (2019-2020): 16 chỉ tiêu, khóa 12 (2020-2021): 20 chỉ tiêu và khóa 13 (2021-2022) là 25.
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
467 4-2019, INSA Centre Val de Loire đã cùng với ĐHSP Huế, Tổ chức Gặp gỡ Việt Nam và Đại sứ quán Pháp tại Việt Nam ký kết thỏa thuận thành lập Cơ sở đào tạo đại học của INSA Centre Val de Loire tại Trường. Đây là cơ sở đặt ở ngoài nước Pháp duy nhất của INSA Centre Val de Loire, thể hiện rõ sự tín nhiệm cao cũng như vai trò quan trọng của chương trình đối với phía đối tác.2.3. Chương trình liên kết đào tạo thạc sĩ kép 1+1 ngành Vật lý lý thuyết và Vật lý toán với trường Đại học Khoa học, Đại học Quốc gia Chiao Tung, Đài Loan (từ năm 2016)
Đến những năm đầu của thế kỷ XXI, lãnh thổ Đài Loan có quan hệ đầu tư, thương mại quan trọng đối với Việt Nam song hợp tác về văn hóa, giáo dục giữa hai bên vẫn còn chưa tương xứng. Đối với ĐHSP Huế, khi thực hiện CTTT ngành Vật lý, nhiều nhà khoa học từ Đài Loan đã được mời tham gia giảng dạy. Tuy nhiên, hợp tác chính thức giữa Trường với các cơ sở giáo dục đại học của Đài Loan vẫn chưa được thiết lập. Năm 2013, trong nỗ lực triển khai chính sách “hướng Nam” của chính phủ Đài Loan trên lĩnh vực giáo dục, các giáo sư của Viện Vật lý, Đại học Chiao Tung, Đài Loan do GS. Guey-Lin Lin dẫn đầu đã đến làm việc với Trường nhằm tìm kiếm những sinh viên có năng lực để cấp học bổng đào tạo sau đại học. Một số sinh viên tốt nghiệp chương trình VLTT đã được giới thiệu và nhận được học bổng qua Đài Loan học tập. Từ đó, đôi bên hình thành ý tưởng hợp tác đào tạo, trong đó ngành Vật lý lý thuyết và Vật lý Toán là lĩnh vực mà mỗi bên đều có thế mạnh riêng của mình. Ngày 12-3-2015, giữa ĐHSP Huế (Việt Nam) với trường Đại học Khoa học, Đại học Quốc gia Chiao Tung (Đài Loan) đã ký kết Biên bản ghi nhớ về chương trình thạc sĩ kép giữa hai bên [Biên bản ghi nhớ... 2015]. Theo đó, Chương trình được tổ chức theo hình thức 1+1 (năm đầu học tại trường ĐHSP Huế và năm thứ hai học tại Đại học Chiao Tung).
- Đối tượng tuyển sinh: Đối tượng và tiêu chí tuyển sinh thực hiện theo quy định tuyển sinh sau đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo và của Đại học Huế. Thí sinh sau khi thi đậu cao học chuyên ngành Vật lý Lý thuyết và Vật lý Toán do Đại học Huế tổ chức cần vượt qua phỏng vấn đầu vào do các giáo sư của trường Đại học Chiao Tung thực hiện. Học viên cần phải đạt trình độ ngoại ngữ B2 theo khung năng lực châu Âu hoặc tương đương sau năm thứ nhất học tại ĐHSP Huế. Tham gia Chương trình, học viên chỉ phải nộp học phí năm đầu ở trong nước, học phí năm thứ 2 tại Đài Loan sẽ do đối tác tài trợ và còn được hỗ trợ sinh hoạt phí hàng tháng từ 7 đến 12 triệu VNĐ.
- Chương trình giảng dạy hoàn toàn bằng tiếng Anh, gồm 47 tín chỉ, trong đó về phía ĐHSP Huế phụ trách 29 tín chỉ, về phía trường Đại học Khoa học, Đại học Quốc gia Chiao Tung đảm nhận 18 tín chỉ [Trường Đại học Sư phạm (a)…2019].
- Số lượng tuyển sinh
Khóa tuyển sinh Số lượng
Khóa XXV (2016-2018) 4
Khóa XXVI (2017-2019) 3
Khóa XXVII (2018-2020) 3
Cho đến thời điểm này, tất cả học viên tham gia Chương trình sau khi tốt nghiệp đều tiếp tục làm luận án tiến sĩ hoặc làm việc ở các doanh nghiệp liên doanh của Đài Loan và Việt Nam.
3. Vai trò
Ngoài kết quả đào tạo như đã trình bày ở trên, việc thực hiện các chương trình hợp tác quốc tế về đào tạo đã góp phần phát triển ĐHSP Huế trên nhiều phương diện:
- Phát triển đội ngũ: giảng viên được tiếp cận với những chương trình đào tạo tiên tiến của thế giới, thường xuyên được giao lưu/cọ xát với nhiều nhà khoa học nổi tiếng đến từ những nền giáo dục hàng đầu của khu vực và thế giới, qua đó tiếp tục nâng cao trình độ chuyên môn và ngoại ngữ, tìm kiếm cơ hội hợp tác nghiên cứu khoa học hoặc học bổng học tiến sĩ và sau tiến sĩ, đủ điều kiện để được công nhận chức danh giáo sư, phó giáo sư.
Nhờ vậy, Trường tạo ra “sức hút” nhất định, góp phần thu hút một số nhà khoa học trẻ có năng lực đến công tác (1). Nhiều giảng viên có uy tín chuyên môn được các cấp tín nhiệm, bổ nhiệm giữ những vị trí quan trọng trong cơ cấu tổ chức, đào tạo của nhà trường, Đại học Huế và Bộ Giáo dục và Đào tạo, hoặc đứng đầu các Nhóm nghiên cứu mạnh của Đại học Huế (2).
- Góp phần chuyển đổi thuận lợi phương thức đào tạo của Trường, cho đến năm 2006, trong khi chương trình đào tạo của Trường vẫn thực hiện theo chế độ niên chế thì Chương trình VLTT được triển khai theo học chế tín chỉ. Nhờ tiếp thu được kinh nghiệm quản lí đào tạo của trường đối tác nên từ năm 2008, Trường nhanh chóng triển khai chuyển từ phương thức đào tạo niên chế sang học chế tín chỉ cho tất cả các ngành đào tạo.
- Góp phần thay đổi phương pháp giảng dạy và học tập của giảng viên và sinh viên. Đối với giảng viên là các phương pháp giảng dạy như theo vấn đề, dạy học theo đề tài, khuyến khích sinh viên tự đặt vấn đề. Đối với sinh viên là sự kích thích tính chủ động học tập để thích ứng với phương pháp dạy học theo vấn đề của các giảng viên nước ngoài đòi hỏi năng lực tư duy sáng tạo trong giải quyết vấn đề. Các chương trình này đều gắn giảng dạy với nghiên cứu khoa học và thực tế nghề nghiệp thông qua tăng cường số tiết thực hành, đưa sinh viên đến các cơ sở sản xuất, thực nghiệm. Những phương pháp này đều đã được vận dụng cho tất cả các ngành đào tạo của Trường hiện nay.
- Thúc đẩy, mở rộng hợp tác nghiên cứu khoa học giữa giảng viên của Trường với các nhà khoa học nước ngoài, gia tăng công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế. Thông qua đào tạo, các hợp tác được mở rộng khi Trường phối hợp với nhiều đối tác tổ chức hội thảo khoa học quốc tế, các seminar chuyên đề, tổ chức trường Hè, trường Đông về Vật lý và trường Thu về Tin học…
- Từ thành công của Chương trình VLTT, Trường đã nhân rộng việc giảng dạy các môn chuyên ngành bằng tiếng Anh cho ngành Toán học với 4 khóa, mỗi năm có khoảng 30 sinh
(1) Từ năm 2005 đến nay, có 8 giảng viên đang công tác ở các trường đại học và viện nghiên cứu được tuyển dụng vào Khoa Vật lý, như PGS. TS. Đinh Như Thảo, PGS.TS. Bùi Đình Hợi, TS. Trần Viết Nhân Hào, TS. Ngô Văn Quang Bình …
(2) Như GS.TS. Trần Công Phong (Chủ tịch Công đoàn Ngành Giáo dục Việt Nam, Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam), PGS.TS. Trần Huy Hoàng (Phó Viện trưởng Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam), PGS.TS. Đinh Như Thảo (Phó Trưởng phòng Khoa học Công nghệ và Hợp tác quốc tế trường ĐHSP), PGS.TS. Bùi Đình Hợi và TS.
Trần Viết Nhân Hào là Nhóm trưởng Nhóm Nghiên cứu mạnh của Đại học Huế.
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
469 viên theo học. Từ năm học 2016-2017, trường triển khai tiếp các ngành Sinh học, Hóa học, Tin học. Chương trình đào tạo ngành Vật lý theo CTTT đã được sử dụng một số học phần chuyển sang giảng dạy cho chương trình đại trà bằng tiếng Việt.- Mở rộng, thành lập mới một số trung tâm và đơn vị đào tạo trong trường, như Trung tâm Vật lý lý thuyết và Vật lý tính toán trực thuộc trường. Từ chương trình này, nhiều chương trình đào tạo liên kết được triển khai như chương trình liên kết đào tạo với INSA Centre Val de Loire (Pháp), chương trình Toán học thuộc Dự án Đại học 2 (TRIG),...
- Cải thiện và nâng cao chất lượng cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nghiên cứu, riêng Chương trình VLTT tạo ra 2 phòng học và 1 văn phòng đầy đủ tiện nghi, 5 phòng thí nghiệm với những thiết bị hiện đại cùng nguồn học liệu gồm hàng trăm giáo trình, bài giảng và tài liệu tham khảo bằng tiếng Anh không chỉ đáp ứng yêu cầu đào tạo của chương trình mà còn sử dụng cho đào tạo sinh viên ngành sư phạm Vật lý và kỹ sư Val de Loire.
- Trường ĐHSP Huế sớm tiên phong trong việc triển khai hình thức giảng dạy trực tuyến. Ngay từ những năm đầu triển khai Chương trình VLTT, lần đầu tiên phương thức giảng dạy trực tuyến thông qua phần mềm Skype được thực hiện bởi giảng viên nước ngoài.
Hình thức giảng dạy này mang lại 2 hệ quả tích cực: một là, Trường vẫn có thể triển khai dạy học khi nguồn kinh phí để mời các giảng viên nước ngoài còn hạn hẹp hoặc vì những lí do bất khả kháng, giảng viên không thể đến Việt Nam được, và thứ hai giúp cho một bộ phận giảng viên trong trường có kinh nghiệm chuyển đổi sang giảng dạy trực tuyến. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 ảnh hưởng nặng nề, ĐHSP Huế đã chủ động và sớm xây dựng phần mềm dạy học trực tuyến và là một trong số ít các trường đại học đầu tiên trên cả nước triển khai dạy học trực tuyến. Đồng thời, Trường cũng là đơn vị đầu tiên trong cả nước tổ chức lễ tốt nghiệp năm học 2020-2021 theo hình thức trực tuyến.
- Góp phần nâng cao vị thế của nhà trường cả về uy tín xã hội và trong các bảng xếp hạng (1); qua đó góp phần thu hút thêm sinh viên và các nhà khoa học quốc tế cũng như cơ hội mở rộng hợp tác với các trường khác… Thông qua thực hiện Chương trình KSVL,
“Trường đã thiết lập mối quan hệ hợp tác lâu dài, chặt chẽ với Tổ chức khoa học và giáo dục Gặp gỡ Việt Nam do GS. Jean Trần Thanh Vân làm chủ tịch. Hàng năm, GS. Jean Trần Thanh Vân cũng là đầu mối liên lạc, giới thiệu các nhà khoa học đến làm việc, giảng bài ở trường, đặc biệt là các nhà khoa học nổi tiếng đạt giải Nobel” (Trường Đại học Sư phạm Huế. 2020b]. Việc thường xuyên mời được nhiều nhà khoa học nổi tiếng đạt giải Nobel đến làm việc ở trường là điều mà không nhiều trường đại học ở Việt Nam có thể làm được.
Thành công của Chương trình KSVL được các đối tác đánh giá cao, gây được uy tín đối với các đối tác cũng như các cơ sở nghiên cứu, đào tạo khác của Pháp nói chung, tạo tiền đề cho việc phát triển thêm nhiều hợp tác nghiên cứu và đào tạo với phía Pháp sau này.
4. Một số nhận xét
Một là, trước năm 1975, việc hợp tác quốc tế của ĐHSP Huế có nhiều hạn chế bởi những biến động của thời cuộc và mô hình tổ chức phụ thuộc vào Viện Đại học Huế. Từ
(1) Năm 2020, trong hệ thống xếp hạng đối sánh do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện mang tên University Performance Metrics (UPM), Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế được xếp vào Nhóm cơ sở giáo dục đại học định hướng nghiên cứu đạt tiêu chuẩn 4 sao.
năm 1975 đến năm 1989, việc hợp tác quốc tế nói chung và về đào tạo nói riêng gặp nhiều khó khăn, Trường chủ yếu chỉ quan hệ với một số trường đại học thuộc các nước XHCN ở Đông Âu và Liên Xô. Giai đoạn 1989-2004, hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường chủ yếu thực hiện đối với các khoa Ngoại ngữ.
Hai là, từ sau năm 2004, hình thức hợp tác quốc tế về đào tạo của Trường khá đa dạng, trong đó đi vào chiều sâu và có hiệu quả là các chương trình hợp tác và liên kết với những nền học thuật hàng đầu của khu vực và thế giới, thể hiện đúng quan điểm “đi tắt đón đầu”
những ngành học mới, tiên tiến của nhân loại. Điểm chung của các chương trình đào tạo trên đây là lần đầu tiên từ sau năm 1975, ở ĐHSP Huế, các môn học được giảng dạy bằng ngoại ngữ. Người học được tiếp cận với những phương pháp dạy học mới từ những nhà khoa học nổi tiếng, những nguồn tài liệu mới được thường xuyên cập nhật, những máy móc và thiết bị thực hành hiện đại. Nhờ vậy, trình độ đội ngũ giảng viên và một số ngành đào tạo của Trường đã nhanh chóng tiệm cận được với trình độ quốc tế.
Từ chỗ tiếp nhận chương trình gốc của trường đối tác (của Chương trình VLTT), đến với liên kết đào tạo theo hình thức 1+1 hoặc trở thành chi nhánh chính thức của INSA Centre Val de Loire phản ánh sự trưởng thành nhanh chóng về mọi mặt của nhà trường, khẳng định vị thế mới của Trường khi đạt được sự thừa nhận về chất lượng đội ngũ và đào tạo của các đối tác quốc tế.
Những kết quả đạt được dù còn khiêm tốn nhưng đủ để khẳng định trường ĐHSP Huế có đội ngũ các nhà khoa học có khả năng để thực hiện hợp tác quốc tế về đào tạo, trước hết là các ngành khoa học tự nhiên.
Ba là, thành công của việc mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đào tạo của Trường là nhờ nắm bắt và vận dụng đúng các chính sách của Đảng và Nhà nước về đối ngoại cũng như của Ngành và Đại học Huế. Nhờ đó, Trường đã thiết lập và nhận được sự hỗ trợ tích cực, có hiệu quả của các nhà khoa học Việt kiều có uy tín - những người luôn quan tâm đến đất nước và dành những tình cảm đặc biệt cho Huế, cho trường ĐHSP. Nhìn rộng ra, xuyên suốt quá trình từ khi Trường thành lập đến nay, trong hợp tác quốc tế về đào tạo, các nhà khoa học Việt kiều đóng vai trò khá lớn. Họ vừa về nước trực tiếp giảng dạy, vừa giúp Trường xây dựng các chương trình, học phần mới, vừa liên hệ, mời những nhà khoa học nổi tiếng trên thế giới đến giảng dạy, hợp tác nghiên cứu khoa học với giảng viên Trường, vừa vận động kinh phí hỗ trợ cho việc giảng dạy và xây dựng hạ tầng kỹ thuật.
Bốn là, bên cạnh những kết quả đạt được, hợp tác quốc tế về đào tạo của ĐHSP Huế trong thời gian đoạn trên còn có những hạn chế nhất định. Phần lớn các chương trình hợp tác hoặc liên kết đào tạo của Trường đều tập trung ở các ngành khoa học tự nhiên. Hợp tác trong lĩnh vực khoa học xã hội còn rất hạn chế. Hình thức hợp tác chủ yếu là về đào tạo, chưa có nhiều hợp tác trong nghiên cứu. Sự thiếu vắng các khoa ngoại ngữ cũng là trở ngại đáng kể trong việc mở rộng mở rộng một cách toàn diện hợp tác quốc tế của nhà trường trong thời gian sau.
GIÁO DỤC TÂN HỌC Ở VIỆT NAM
I
471TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Điều hành Chương trình tiên tiến trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (2016).
“Báo cáo tổng kết 10 năm đào tạo chương trình tiên tiến ngành Vật lý tại trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế”. Kỷ yếu Hội nghị Tổng kết 10 năm đào tạo Chương trình tiên tiến ngành Vật lý tại trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
2. Biên bản ghi nhớ về chương trình Thạc sĩ kép giữa Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế, Việt Nam và Trường Đại học Khoa học, Đại học Quốc gia Chiao Tung, Đài Loan.
Ngày 12-3-2015. Lưu tại Phòng KHCN&HTQT. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
3. Lê Cung (CB). 50 năm Trường Đại học Sư phạm Huế (1957-2007). Nxb. Thuận Hóa, Huế, 2007.
4. Đảng ủy Trường Đại học Sư phạm. 2010. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ trường Đại học Sư phạm tại Đại hội Đảng bộ lần thứ XIII nhiệm kỳ 2010-2015.
5. Thủ tướng Chính phủ. 2008. Quyết định số 1505/QĐ-TTG Phê duyệt Đề án
“Đào tạo theo chương trình tiên tiến tại một số trường đại học Việt Nam giai đoạn 2008-2015”, ngày 15-10-2008. http://vanban.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/
hethongvanban?class_id=1&mode=detail&document_id=86901.
6. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (2019). Báo cáo tình hình hợp tác quốc tế 5 năm (2015-2019). Lưu tại Phòng KHCN&HTQT. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
7. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. (2020a). Báo cáo Chương trình liên kết đào tạo. Ngày 9-12-2020. Lưu tại Phòng KHCN&HTQT. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
8. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế. (2020b). Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Chỉ thị 45-CT/TW ngày 19-5-2015 về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới. Lưu tại Phòng KHCN&HTQT. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
9. Văn bản thỏa thuận giữa trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế (Việt Nam) và trường Nghệ thuật và Khoa học, Đại học Virginia (Hoa Kỳ), ngày 12-4-2007. Lưu tại Phòng KHCN&HTQT. Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế.
COOPÉRATION INTERNATIONALE EN MATIÈRE DE FORMATION À L’ECOLE NORMALE SUPÉRIEURE (UNIVERSITÉ DE HUÊ), PÉRIODE 2004-2019
Hoàng Chi Hiêu, Hà Viêt Hai(1) Résumé: Durant la période 2004-2019, l’Ecole Normale Supérieure (Université de Huê) s’était employé dans sa coopération internationale notamment en matière de formation. Et ce à travers nombre de programmes de coopération ou de projets de formation mixte, en coordination avec les institutions universitaires étrangères: américaines, françaises et taiwanaises. Ce qui a permis à l’ENS de Huê d’accéder à un niveau d’encadrement de qualité internationale. Les programmes de coopération engagés ont joué un très grand rôle dans l’essor de l’ENS de Huê en maints niveaux et domaines.
Mots-clés: Formation, coopération internationale, (accord) formation mixte, Ecole Normale supérieure de Huê.
INTERNATIONAL COOPERATION IN EDUCATION OF HUE UNIVERSITY OF EDUCATION FROM 2004 TO 2019
Hoàng Chi Hiêu, Hà Viêt Hai(1) Abstract: From 2004 to 2019, Hue University of Education has made great efforts in international cooperation in the the field of education. Some linkage training programs between the University and partner universities in the US, France and Taiwan have approached international standard. These training programs have played a significant role in the development of the University.
Key words: Education, international cooperation, collaboration, Hue University of Education.
(1) ENS (Université de Huê).