2.3.1. Xét tiêu chí bền vững về mặt kinh tế
Qua việc phân tích, đánh giá thực trạng phát triển du lịch ở khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh giai đoạn 1992 – 2009 dựa trên tiêu chí phát triển du lịch bền vững về mặt kinh tế. Cụ thể:
Về lƣợng khách du lịch: Trong giai đoạn 1992 – 2009 lƣợng khách du lịch liên tục tăng.Hải Phòng tăng trung bình 24% đối với khách quốc tế và 18,7% đối với khách nội địa.Quảng Ninh cũng tăng tƣơng ứng là 21,8 % và 26,6%. Bình quân cả vùng tƣơng ứng là 23,4% và 23,2%. Đạt tiêu chuẩn phát triển bền vững.
Về thu nhập du lịch: Trong giai đoạn 1992 – 2009, thu nhập du lịch tăng trƣởng liên tục bình quân toàn khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh có tốc độ tăng
Sinh viên: Nguyễn Thị Nhung – VH1002 35 trung bình là 31,2%/năm. Trong đó, Hải Phòng khoảng 26,4%/năm, Hải Phòng là 39,2%/năm. Đạt tiêu chẩn bền vững.
Về GDP du lịch: Quảng Ninh là tỉnh có mức tăng trƣởng GDP với tốc độ tƣơng đối cao, trung bình đạt 28,2%/năm thời kì 1996 – 2006; Hải Phòng cũng đạt 14,4%/năm thời kì 1996 – 2006; bình quân toàn vùng là 21,3%, đều chiếm tỉ trọng tăng dần trong cơ cấu nền kinh tế.Đạy tiêu chuẩn phát triển bền vững.
Về cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch: 15 năm qua (từ năm 1992 – 2007), số lƣợng các cơ sở lƣu trú trên địa bàn Hải Phòng – Quảng Ninh liên tục tăng với tốc độ bình quân đạt 14,1%/năm, trong đó Hải Phòng đạt 10,6%/năm và Quảng Ninh đạt 17,6%/năm.Với nhịp độ tăng trƣởng bình quân của hệ thống các cơ sơ lƣu trú nhƣ vậy, luôn đạt công suất sử dụng phòng trung bình đạt 50 – 55%. Chất lƣợng của hệ thống khách sạn cũng không ngừng đƣợc nâng lên, số lƣợng các khách sạn đƣợc xếp hạng liên tục tăng, năm sau cao hơn năm trƣớc.
Các cơ sở phục vụ ăn uống cũng tăng lên nhanh chóng cả về mặt số lƣợng và chất lƣợng. Tuy chƣa có con số thống kê chính xác về số lƣợng các nhà hàng, các cơ sở phục vụ ăn uống ở Hải Phòng – Quảng Ninh song có thể thấy, hệ thống các cơ sở này cũng đã và đang đáp ứng đƣợc nhu cầu về phục vụ ăn uống của khách du lịch nói riêng và của ngƣời dân địa phƣơng nói chung. Hệ thống các phƣơng tiện vận chuyển, các khu vui chơi giải trí cũng tăng nhanh cả về số và chất. Tuy vẫn còn một vài hạn chế song nhìn chung, hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật của khu vực vẫn đạt tiêu chuẩn phát triển bền vững.
Về chỉ tiêu nguồn nhân lực:Đội ngũ lao động hoạt động trong ngành du lịch trong những năm gần đây tăng nhanh cả về mặt số lƣợng và chất lƣợng.
Trong thời kì 1992 – 2006 số lƣợng lao động toàn vùng tăng bình quân 14,2%/năm, trong đó Hải Phòng là 13,5%/năm; Quảng Ninh là 15%/năm. Đáp ứng đƣợc yêu cầu phát triển bên vững.
2.3.2. Xét tiêu chí bền vững về mặt tài nguyên – môi trường
Về công tác quy hoạch: Hầu hết các khu vực ở vùng ven bờ Hải Phòng – Quảng Ninh đã đƣợc qui hoạch tổng thể, một số khu du lịch biển trọng điểm đã có quy hoạch chi tiết. Đây là những cơ sở pháp lí cho công tác quản lí và khai
Sinh viên: Nguyễn Thị Nhung – VH1002 36 thác một cách hợp lí, có hiệu quả các nguồn tài nguyên; bảo vệ nghiêm ngặt các khu vực cần đƣợc bảo tồn, tôn tạo và phát triển. Mặc dù hiện nay chất lƣợng quy hoạch và tính kiên quyết thực hiện theo qui hoạch còn chƣa cao nhƣng đánh giá chung vẫn đạt tiêu chuẩn bền vững.
Về tài nguyên: Trong những năm qua, quá trình phát triển kinh tế – xã hội nói chung và phát triển du lịch nói riêng ở khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh đã gây ra những tác động tiêu cực đến nguồn tài nguyên. Hầu hết, các nguồn tài nguyên du lịch đƣợc huy động một cách triệt để làm một bộ phận không nhỏ nguồn tài nguyên bị suy giảm, kiệt quệ và đang bị quá tải. Cƣờng độ hoạt động du lịch ở một số điểm du lịch nổi tiến nhƣ Hạ Long, Cát Bà, Đồ Sơn, Trà Cổ, Bãi Cháy...trong dịp hè và vào các ngày lễ quá cao, tạo áp lực quá lớn đối với tài nguyên và gây nên tình trạng mất cân đối trầm trọng về cung cầu. Từ đó có thể thấy, việc khai thác và phát triển tài nguyên ở đây là chƣa bền vững.
Về môi trƣờng tự nhiên: Do tác động của quá trình phát triển du lịch nên môi trƣờng tự nhiên ở vùng ven bờ Hải Phòng – Quảng Ninh đang bị suy thoái nghiêm trọng, hầu hết các chỉ số về môi trƣờng đều đã bị ô nhiễm và đều vƣợt mức cho phép. Ô nhiễm xảy ra trong môi trƣờng nƣớc (bao gồm cả nƣớc mặt và nƣớc ngầm), đất, không khí và sinh thái, nghiêm trọng nhất là ở khu vực Cẩm Phả, Hạ Long, Đồ Sơn, Cát Bà. Đáng chú ý là tình trạng ô nhiễm DO, BOD, COD, Pb, Cd, Cu, Zn...và ô nhiễm dầu trong nƣớc biển; nguy cơ đục nƣớc, bùn hóa và nông hóa đáy vịnh; nguy cơ mất đi môi trƣờng sinh thái của các loài sinh vật;hủy hoại nguồn lợi và giảm giá trị sinh học; xói lở các bờ biển...Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do hoạt động của các nhà máy, cảng biển, tàu bè, hoạt động khai thác than, chất thải từ các hoạt động du lịch...Do vậy, đây là những dấu hiêu cho thấy sự phát triển thiếu bèn vững về môi trƣờng tài nguyên ở khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh.
2.3.3. Xét tiêu chí bền vững về mặt văn hóa, xã hội
Cùng với tác động về mặt kinh tế, tài nguyên – môi trƣờng, quá trình phát triển du lịch ở khu vực Hải Phòng – Quảng Ninh cũng tác động mạnh mẽ đến môi trƣờng văn hóa – xã hội của khu vực.Trong những năm qua, sự phát triển
Sinh viên: Nguyễn Thị Nhung – VH1002 37 của du lịch cũng đã kéo theo sự du nhập của một số sinh hoạt văn hóa không lành mạnh và gia tăng các tệ nạn xã hội, các bệnh truyền nhiễm. Bên cạnh những mặt tích cực, du lịch cũng gây ra một số tác động tiêu cực đến hoạt động của các lễ hội, các làng nghề và một số sinh hoạt truyền thống của ngƣời dân địa phƣơng. Ở một góc độ nhất định, các phong tục tập quán, các lễ hội lâu đời ở các làng quê đang dần bị thƣơng mại hóa để phục vụ du lịch, cho phù hợp với thị trƣờng. Phát triển du lịch cũng làm gia tăng quá trình đô thị hóa, một nặt làm suy giảm nguồn tài nguyên đất, mặt khác làm gia tăng dân số, gây áp lực tới môi trƣờng. Sự phát triển của du lịch còn tác động không nhỏ tới quy luật cung cầu, làm mất đi sự cân bằng trong cán cân cung – cầu, làm gía cả tăng cao tại các khu du lịch, ảnh hƣởng đến đời sống xã hội của cƣ dân. Đây cũng là dấu hiệu của sự phát triển thiếu bền vững.
Nhƣ vậy, trong quá trình phát triển du lịch ở vùng ven bờ biển Hải Phòng – Quảng Ninh trong những năm gần đây đã có đóng góp tích cực về mặt kinh tế, nhƣng bên cạnh đó cũng gây những tác động tiêu cực đến tài nguyên – môi trƣờng, kinh tế – xã hội.